Phong tục lễ tết cổ truyền của người Việt trong văn học trung đại Việt Nam

Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
PHONG TỤC LỄ TẾT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT  
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM  
Trần Thị Kim Thu  
Khoa Khoa hc Xã hi và Nhân văn, Trường Đại hc Khánh Hòa  
Tác giliên h: tranthikimthu@ukh.edu.vn  
Lịch sử bài báo  
Ngày nhn: 20/5/2020; Ngày nhn chnh sa: 22/6/2020; Ngày duyt đăng: 29/8/2020  
Tóm tắt  
Văn hc trung đi Vit Nam và văn hóa dân gian có mi quan hcht ch. Các yếu tca văn  
hóa dân gian đã trthành mt phn cht liu trong sáng tác văn hc trung đi. Vi hướng tiếp cn  
văn hc tvăn hóa bài viết tng hp, phân tích, bàn lun vmt sphong tc lTết ctruyn ca  
người Vit như thưởng hoa, sm Tết, dng cây nêu, đt pháo, đón giao tha, mng xuân, chúc Tết,  
chơi xuân qua các tác phm văn hc trung đi Vit Nam tiêu biu. Bên cnh bc tranh đy màu sc  
vphong tc lTết, các tác phm còn n cha nhng tâm sthm kín ca các nhà văn, nhà thơ về  
sự đổi thay, nhiu nhương ca thi cuc cùng vi mong ước có mt đời sng tt đẹp hơn. Qua đó,  
bài viết góp phn nâng cao năng lc cm thvăn chương đng thi phc hi nét đẹp văn hóa Tết  
ctruyn ca dân tc.  
Từ khóa: Phong tc, Tết, văn hc trung đi, văn hóa dân gian.  
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------  
TRADITIONAL TET CUSTOMS IN VIETNAMESE  
MEDIEVAL LITERATURE  
Trần Thị Kim Thu  
Social Sciences and Humanities Department, University of Khanh Hoa  
Corresponding author: tranthikimthu@ukh.edu.vn  
Article history  
Received: 20/5/2020; Received in revised form: 22/6/2020; Accepted: 29/8/2020  
Abstract  
Vietnamese medieval literature and folklore are closely related. Folklores elements have become  
the part of materials in Vietnamese medieval literary works. On the cultural perspective and via these  
typical works, the article synthesizes, analyses and discusses some traditional Tet customs such as  
enjoying owers, shopping for Tet, setting up the Neu tree, setting orecracker, welcoming New  
Years Eve, greeting the New Years rst day, exchanging New Years wishes, and enjoying the spring  
festivals. Besides the colorful picture of the Tet customs, these works also contained inner feelings  
of writers about the change and harassment of historical periods and had a wish for better life.  
Thereby, the article aims to improve the ability of perceiving literature and to restore the cultural  
beauty of Vietnamese traditional Tet.  
Keywords: Custom, folklore, medieval literature, Tet.  
97  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
1. Đặt vấn đề  
những công trình nghiên cứu lớn, chưa là sản  
phẩm độc lập mà chỉ xuất hiện như một nội  
dung nhỏ khi tìm hiểu về một tác giả văn học.  
Bài viết “Phong tục lễ Tết cổ truyền của người  
Việt trong văn học trung đại Việt Nam” chọn  
hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa với  
mong muốn một nghiên cứu có cơ sở lí luận và  
thực tiễn, có hệ thống, tổng hợp và phân tích  
khá đầy đủ, chi tiết các tác phẩm thơ văn trung  
đại về đề tài. Từ đó, bài viết góp phần nâng cao  
năng lực cảm thụ văn chương và khám phá vẻ  
đẹp văn hóa dân gian qua phong tục lễ Tết cổ  
truyền của người Việt.  
Một trong những mối quan tâm lớn của xã  
hội đương đại là việc giữ gìn bản sắc văn hóa  
của dân tộc. Văn hóa được xác định là nền tảng,  
động lực, mục tiêu của sự phát triển ở nhiều  
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh  
xã hội ngày nay, bản sắc văn hóa dân tộc đứng  
trước nguy cơ bị mai một, việc tìm hiểu văn  
học dưới góc nhìn văn hoá đang là cách tiếp  
cận phổ biến và được khẳng định. Bởi giữa văn  
học và văn hóa có mối liên hệ hết sức chặt chẽ,  
“Văn học là tấm gương của văn hoá”, “Trong  
tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn  
hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn”  
(Huỳnh Như Phương, 2009, tr. 20), “Văn học  
phản ánh toàn bộ những sắc thái, diện mạo của  
văn hoá, biểu hiện trong đời sống từ kinh tế, xã  
hội, chính trị, đạo đức, pháp luật đến phong tục,  
tập quán, lối sống, đi đứng, nói năng” (Nguyễn  
Duy Bắc, 2006, tr. 158). Vì thế, trong các thành  
tố của văn hóa, văn học là loại hình nghệ thuật  
đến được với người tiếp nhận thuận lợi nhất,  
là thành tố góp phần phục hồi văn hóa dân tộc  
đắc lực nhất.  
2. Nội dung  
2.1. Vài nét về văn hóa dân gian và Tết  
cổ truyền trong văn học trung đại Việt Nam  
Thời kì Đại Việt, cùng với sự phát triển của  
nhiều lĩnh vực trong xã hội là phát triển mạnh  
mẽ về văn hóa. Nền văn hóa dân tộc, bên cạnh  
bộ phận văn hóa dân gian sẵn có, còn xuất hiện  
nhiều bộ phận khác, trong đó nổi bật có văn hóa  
bác học. Trong khi văn hóa dân gian là một thực  
thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với  
sinh hoạt văn hóa cộng đồng thì văn hóa bác  
học phát triển trên cơ sở hình thành nhà nước  
phong kiến với các hệ tư tưởng giao lưu tiếp  
biến, nổi bật nhất là Nho, Đạo, Phật. Với sức  
ảnh hưởng mạnh mẽ của tam giáo, dù có lúc văn  
hóa bác học chi phối văn hóa dân tộc nhưng nó  
vẫn không nhấn chìm được văn hóa dân gian,  
vì văn hóa bản địa tồn tại lâu đời và có tính nội  
sinh mạnh mẽ. Ngược lại, văn hóa dân gian vừa  
tiếp tục phát triển vừa là cội nguồn nuôi dưỡng  
văn hóa bác học. Những dấu ấn của văn hóa dân  
gian như tư tưởng yêu nước, yêu thương con  
người; quan niệm thẩm mĩ về thiên nhiên, con  
người; tín ngưỡng thờ cúng, phồn thực; phong  
tục giao thiệp, ăn mặc, lễ Tết… được phản ánh  
đặc sắc trong nhiều tác phẩm văn học trung đại  
là minh chứng sống động về nội lực của văn  
hóa dân gian trong sự vận động và phát triển  
văn hóa dân tộc.  
Nghiên cứu văn học Việt Nam từ văn hoá  
vừa góp phần tiếp cận văn học qua cái nhìn  
mới mẻ hơn, nhờ đó cũng khẳng định được  
sức sống mãnh liệt và bản sắc độc đáo của văn  
hoá Việt Nam trong nền văn học nước nhà nói  
riêng và đời sống dân tộc nói chung. Nhiều  
công trình nghiên cứu tiêu biểu đã làm cơ sở  
cho hướng tiếp cận vấn đề của bài viết như:  
HXuân Hương hoài nim phn thc (Đỗ Lai  
Thuý, 1999), Văn hc và văn hoá tmt góc  
nhìn (Phùng Quý Nhâm, 2003), Văn hc trung  
đại Vit Nam dưới cái nhìn văn hóa (Trần Nho  
Thìn, 2007), Giá trvăn hóa ca Văn hc Vit  
Nam (Trần Đình Sử, 2017). Cũng có một số  
bài viết liên quan đến đề tài phong tục lễ Tết cổ  
truyền trong văn thơ trung đại, trong đó thơ văn  
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương được nghiên  
cứu nhiều nhất. Tuy nhiên, đề tài này chưa có  
98  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
Điều đó cũng chứng minh rằng trong quá hóa dân tộc trong bối cảnh xã hội phong kiến  
trình phát triển, văn học trung đại chịu sự ảnh khủng hoảng và sự xâm lấn văn hóa Phương  
hưởng của văn hóa dân gian với mức độ đậm Tây, các tác giả đã vận dụng chất liệu dân gian  
cho sáng tác văn học nhiều hơn. Sự tác động đạt  
đến đỉnh cao toàn diện, sâu sắc cả về nội dung  
và hình thức, biểu hiện qua nhiều tên tuổi lớn  
như Phạm Đình Hổ, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn  
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần  
Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu... Trong đó,  
tư tưởng yêu nước, đặc biệt là yêu thương con  
người phát huy mạnh mẽ qua nhiều tác phẩm  
lớn thuộc thể loại truyện truyền kì và truyện thơ  
có giá trị nhân văn sâu sắc như Vũ trung tùy bút,  
Truyn kì tân ph, Lan trì kiến văn lc, Cung  
oán ngâm, Chinh phngâm, Truyn Kiu, Lc  
Vân Tiên. Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa khác  
thuộc phong tục giao thiệp, lễ Tết, tín ngưỡng  
phồn thực, quan niệm thẩm mĩ về người phụ  
nữ xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm. Càng  
về sau, các yếu tố dân gian xuất hiện trong tác  
phẩm như là một ý đồ, phương tiện nghệ thuật,  
trở thành một xu hướng sáng tác vừa nâng cao  
giá trị văn chương vừa có tác dụng phục hưng  
văn hóa dân tộc.  
nhạt khác nhau. Quá trình đó diễn ra trên ba  
chặng đường vận động của văn học. Từ thế  
kỷ thứ X - XIV, dù văn học giai đoạn này ảnh  
hưởng mạnh mẽ của văn hóa Hán nhưng dòng  
chảy của văn hóa dân gian vẫn được tồn tại và  
bảo lưu qua một số tác phẩm văn học giàu giá  
trị. Các sáng tác tự sự truyền kì tầm cỡ như Báo  
cc truyn (khuyết danh), Vit đin u linh tp  
(Lý Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế  
Pháp) đã dựa vào cơ sở văn hoá, văn học dân  
gian để ghi chép các huyền tích, thần phả, thần  
tích dân gian. Thông qua các đề tài về nguồn  
gốc giống nòi, đất nước, đấu tranh chống giặc  
ngoại xâm, nhân vật lịch sử, linh khí núi sông,  
đời sống văn hóa xã hội, nhiều nét đẹp văn hóa  
như tín ngưỡng thờ cúng vua Tổ Hùng Vương,  
thờ cúng thành hoàng, phong tục gói bánh chưng  
bánh giầy, ăn trầu, tục cưới hỏi và tư tưởng yêu  
nước được các tác giả chú trọng phản ánh. Các  
tác phẩm đã có công lớn trong việc mở đầu cho  
thể loại văn xuôi tự sự trung đại cũng như góp  
phần bảo tồn cốt lõi văn hóa dân tộc trước sự  
thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của chữ Hán,  
các thể loại và hệ thống thi pháp văn học Trung  
Hoa. Tuy nhiên, ngoại trừ tư tưởng yêu nước  
xuất hiện khá dày ở nhiều tác phẩm thì các giá  
trị văn hóa khác chỉ xuất hiện rải rác. Từ thế XV  
đến thế kỉ XVII, văn xuôi dần thoát li khỏi văn  
học chức năng để hướng mạnh vào việc phản  
ánh con người, xã hội. Dấu ấn văn học dân gian  
trong các truyện trung đại đã dần mờ nhạt, tiêu  
biểu chỉ còn lại như Truyn kì mn lc. Thơ ca  
chữ Nôm bắt đầu phát triển tạo điều kiện lưu  
giữ văn hóa dân gian. Các giá trị văn hóa như  
quan niệm về con người, quan niệm thẩm mĩ về  
thiên nhiên và con người, tư tưởng yêu thương  
con người, tín ngưỡng phồn thực... tiếp tục bổ  
sung qua thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh  
Khiêm, Nguyễn Dữ... Từ thế kỷ XVIII đến hết  
thế kỷ XIX, với ý thức lưu giữ và khôi phục văn  
Người Việt có nhiều tết lớn nhỏ trong một  
năm, trong đó Tết Nguyên Đán là ngày lễ cổ  
truyền lớn nhất, lâu đời nhất và có phạm vi phổ  
biến rộng rãi nhất trong cả nước. Tết cổ truyền  
là một tổng hoà các hoạt động, biểu trưng, thiết  
chế văn hoá của toàn thể nhân dân. Nó hình  
thành trong không gian văn minh lúa nước của  
cộng đồng người Việt cổ, mang ý nghĩa vui  
mừng được mùa lúa sau một năm gieo trồng  
vất vả và mừng mùa cấy trồng mới. Theo Trần  
Ngọc Thêm (1998, tr. 150): “Tết Nguyên Đán  
(nguyên = bắt đầu, đán = buổi sáng); nó còn  
được gọi là Tết ta … hoặc Tết cả”. Nét đẹp văn  
hóa Tết Việt thời kì phong kiến được lưu lại qua  
nhiều mỹ tục mang nếp sống cộng đồng về văn  
hóa vật chất (trang trí nhà cửa, mua sắm Tết, ăn  
uống), văn hóa tinh thần (cúng kính, chơi hoa,  
dựng nêu, đốt pháo, đón giao thừa, khai xuân,  
hái lộc, chơi xuân, chúc Tết).  
99  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
Khảo sát thơ văn nhiều tác giả lớn thời được nhân dân ta tổ chức chu đáo và long trọng.  
Tết cổ truyền trong văn học trung đại mang  
những nét đặc trưng với các phong tục diễn ra  
trước, trong và sau Tết.  
trung đại, bài viết đã tiếp cận được một số mỹ  
tục đón Tết lâu đời của dân tộc như thưởng hoa,  
sắm sửa, chuẩn bị Tết, dựng cây nêu, đốt pháo,  
đón giao thừa, mừng xuân, chúc tết và chơi  
xuân. Những huyền tích về tục gói bánh chưng,  
bánh giầy được Lĩnh Nam chích quái phản ánh  
về cái Tết của cư dân nông nghiệp lúa nước  
từ thời Hùng Vương. Hàng trăm bài thơ, câu  
đối của các nhà Nho yêu nước đã ghi lại nhiều  
phong tục mừng xuân đón Tết trên quê hương  
Đại Việt qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm  
với nỗi niềm khác nhau. Thơ Nguyễn Trãi đem  
lại cái Tết bình yên nơi quê nhà với thú thưởng  
hoa tao nhã và không khí đón giao thừa thiêng  
liêng, lắng đọng. Thơ Hồ Xuân Hương, qua  
các cuộc chơi xuân, là cái Tết vui tươi, táo bạo  
thời thiếu nữ dám bứt phá những rào cản phong  
kiến để mở lòng với cuộc đời. Cảnh cúng kính  
gia tiên và chuẩn bị đón khách sáng mồng Một  
Tết trong thơ Cao Bá Quát hiện lên cái Tết ấm  
cúng, đầy tin tưởng vào ngày mai. Ngắm hoa  
mai nở trên đất người và chứng kiến cảnh ông  
lão hàng xóm say sưa hội đình khiến cái Tết của  
Nguyễn Du trở nên buồn tủi vì lưu lạc. Còn thơ  
văn Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Trần  
Tế Xương tái hiện cảnh đón Tết nghèo của dân  
tình trong những năm xã hội phong kiến khủng  
hoảng trầm trọng. Nhiều nhà thơ khác cũng ghi  
lại dấu ấn phong tục Tết dân tộc với nhiều vẻ  
đẹp và cảm xúc sâu sắc. Điểm chung của nội  
dung phản ánh là tuy đời sống nhân dân ta có  
khi gặp khó khăn, vật chất thiếu thốn nhưng các  
phong tục lễ Tết vẫn được lưu giữ, thể hiện sống  
động với tình cảm trân trọng. Cảnh Tết trong thơ  
văn có khác nhau nhưng qua đó các tác giả đều  
mong muốn sự thay đổi tốt đẹp hơn và gửi gắm  
tình cảm yêu mến, tự hào với văn hóa dân tộc.  
2.2.1. Phong tc thưởng hoa  
Mùa xuân và những ngày Tết cổ truyền  
không thể thiếu hoa bởi hoa xuân là biểu tượng  
cho niềm vui, sức sống và sự tái sinh mạnh mẽ.  
Trong thế giới hương hoa rực rỡ của nhiều loài  
nở vào dịp Tết như cúc, thủy tiên, thược dược,  
ngọc lan thì mai và đào được nhân dân ta mong  
chờ thưởng thức nhiều hơn cả. Bởi chúng là  
hai loài hoa tươi tắn, tinh khiết, dễ trồng ở mọi  
nhà trên khắp đất Việt. Hơn thế mai và đào còn  
thể hiện sâu sắc triết lí nhân sinh, bản lĩnh, ước  
vọng của tâm hồn Việt. Thưởng hoa còn là một  
thú vui tao nhã của các nhà Nho xưa.  
Với thẩm mĩ dân gian Việt, hoa đào là tín  
hiệu của mùa xuân bởi vẻ đẹp hương sắc tươi  
thắm, mới mẻ. Hơn nữa, theo tín ngưỡng nhân  
dân ta, hoa đào có tính dương mang lại vượng  
khí và còn có thể xua đuổi ma quỷ. Vậy nên,  
người miền Bắc thường trồng một gốc đào trước  
ngõ để xuân về tăng thêm hương sắc tươi vui  
ngày Tết. Các nhà Nho cũng chờ đến Tết để  
được thưởng thức mai, đào. Thường thì người  
thưởng hoa sẽ chú ý đến sắc, đến hương, đến sức  
sống, sự duyên dáng hay một vẻ đẹp nào khác  
của hoa. Thưởng hoa xuân không chỉ đem đến  
niềm vui sướng được thưởng thức cái đẹp của  
tạo hóa mà còn khơi gợi nhiều cảm xúc sâu lắng  
cho con người. Tuệ Trung thượng sĩ “lòng như  
tro nguội” nhưng ngắm nhìn đào trước nhà nẩy  
nhị, cảm xúc thăng hoa khiến nhà sư muốn dạo  
cung đàn mùa xuân trong tưởng tượng: “Xuân  
hồi hư đối khai đào nhị/ Phong khởi không văn  
kích trúc can/… Một huyền cầm tử thỉnh kim  
đàn” (Xuân đến, lặng lẽ ngắm cây đào nẩy nhị/  
Gió nổi lên, luống nghe khóm trúc khua vang/…  
Giờ đây, xin gảy cây đàn không giây), (Thướng  
Phúc Đường Tiêu Dao thin sư k1). Nhà thơ  
Nguyễn Trãi cũng có thú thưởng thức hoa Tết  
2.2. Một số phong tục Tết cổ truyền của  
người Việt trong văn học trung đại Việt Nam  
Những ngày giao thời giữa năm cũ và năm  
mới, dịp thôn xóm vui vầy, gia đình đoàn tụ đã  
100  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
như bao người dân Việt. Trong thơ ông, hoa đào nht). Xem hoa mai nở là niềm vui thưởng Tết  
đồng nghĩa với mùa xuân, với vẻ đẹp tươi mới, của nhiều người nhưng lại là nỗi ám ảnh với  
thanh cao như thiếu nữ trong mắt kẻ si tình. nhà thơ xa xứ Nguyễn Du. Có thể là thói quen  
Ông dành cho hoa những từ ngữ rất hữu tình yêu hoa, ông ngắm mai nở mỗi dịp Tết về. Lưu  
như “đoá đào yêu”, “cành xuân mơn mởn”, “má lạc ở xứ người ông cũng không quên thú vui  
đào”. Cho nên lúc ngắm hoa trong tiết trời xuân, đó: “Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân” (Trước  
nhà thơ đã dệt nên những vần thơ như “bản nhạc sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa), (Xuân  
không lời” xao xuyến : “Ðông phong ắt có tình tiêu thl) hay “Đông hoàng sinh ý lậu hoàng  
hay nữa/ Kiến tiện mùi hương dễ động người” mai” (Thấy chúa xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa  
(Đào hoa thi). Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mai lạnh) (Xuân nhật ngẫu hứng). Nhưng trái  
cũng yêu bích đào và có trồng một cây ở phía ngược với niềm vui say đắm bên hoa, nhìn lại  
đông am Bạch Vân chờ thưởng Tết. Có năm hoa thực tại mình vẫn còn lưu lạc nơi đất khách quê  
nở thật nhiều: “Tiên thụ thuỳ tương quán lý tài?/ người, mùa đoàn tụ không thể về quê hương, nhà  
Hảo xuân nhất độ hảo hoa khai” (Giống tiên ai thơ “đau lòng”,“nguội lạnh”, “kinh sợ”,“khóc  
đem đến trồng ở trong quán,/ Một độ xuân tươi cười”, đến “nước mắt đẫm khăn”.  
là một lần hoa thắm nở), (Đào hoa phàm nhị  
thk1). Hoa nở khiến lòng người say đắm và  
tự hào rằng chỉ có đào của mình nở tươi nhất,  
thắm nhất như hoa ở cõi tiên.  
Ngắm mỗi cành đào, nhành mai xuân trong  
nhà, trước ngõ là hình ảnh thưởng Tết đẹp  
thường thấy của ông cha ta ngày trước. Trong  
thơ văn, thú vui tao nhã ấy làm rực sáng lên  
Bên cạnh đào Tết, các thi nhân cũng yêu một mảng màu văn hoá đặc trưng của dân tộc.  
thích ngắm hoa mai. Nếu đón xuân mà có cả Mai, đào vào thơ xuân trung đại với nhiều cảm  
mai thì xuân càng trọn vẹn vì mai hướng đến sự hứng vui buồn khác nhau nhưng vẫn gặp nhau  
hạnh phúc và sung túc. Nhiều người cho rằng ở điểm các tác giả thể hiện quan niệm thẩm mĩ,  
hoa đào là biểu tượng của trời xuân miền Bắc triết lí nhân sinh sâu sắc và mong muốn năm  
còn mai là biểu tượng của Tết miền Trung và mới sẽ nhiều thay đổi tươi mới hơn như mai,  
Nam. Tuy nhiên các nhà thơ xứ Bắc chọn mai đào ngày xuân.  
làm cảm hứng thưởng Tết cũng khá nhiều. Có  
lẽ bởi mai không chỉ là biểu tượng của mùa  
2.2.2. Phong tc sm sa, chun bTết  
Nếu như phong tục thưởng hoa trong thơ  
xuân mà còn là biểu tượng mang nhiều giá trị  
văn trung đại thường gắn với sinh hoạt văn hóa  
nhân sinh quan sâu sắc, là hình ảnh ước lệ cho  
mang tính cá nhân thì những phong tục đón Tết  
khí tiết thanh cao, mạnh mẽ của người quân tử.  
khác lại hướng ra cộng đồng một cách rõ nét,  
Điểm lại các nhà thơ, dễ nhận ra rằng cha ông  
trong đó có phong tục sắm sửa, chuẩn bị Tết.  
ta yêu quý mai và gởi gắm vào loài hoa này  
Nhân dân cho rằng cả năm lao động vất vả  
nên sẽ dành ba ngày Tết vui chơi, hưởng thụ.  
Người dân thường theo tục đi chợ mua sắm  
hàng quà Tết đầy đủ, nấu nhiều món ăn ngon,  
dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, trang hoàng đẹp đẽ với  
mong muốn cả một năm sung túc. Không phải  
gia đình nào cũng có điều kiện chuẩn bị cái Tết  
đầy đủ về vật chất, nhất là thời kì phong kiến  
khủng hoảng. Nhưng người dân vẫn cố níu giữ  
những phong tục Tết cơ bản nhất mang giá trị  
những quan niệm tốt đẹp về cuộc đời. Dịp Tết  
đến, nhìn ngắm mai bung nở đẹp bất ngờ sau  
ba tháng đông dài giá buốt: “Ngũ xuất viên ba  
kim niễn tu,/ San hô trầm ảnh hải lân phù” (Năm  
cánh hoa tròn nhị điểm vàng,/ [Như] bóng san  
hô chìm, [như] vảy cá biển nổi), vua Trần Nhân  
Tông thấy ngày xuân hanh cũng ấm lên và trân  
quý cuộc sống hơn. Bởi cảnh mùa xuân thực tại  
đẹp đến nỗi khiến cho Hằng Nga phải chán cung  
quế mà thèm được sống ở trần gian (To mai kì  
101  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
tinh thần. Phong tục chuẩn bị Tết trong văn học  
trung đại được phản ánh sớm nhất từ Truyn  
bánh chưng (Lĩnh Nam chích quái). Từ hội thi  
các hoàng tử làm mâm cỗ dâng cúng tiên vương  
cuối năm, Vua Hùng đã chấm món bánh chưng,  
bánh giầy của Lang Liêu được giải nhất. Từ đó  
vua cho truyền nhân dân dùng thứ bánh ấy để  
cung phụng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên trong các  
dịp lễ Tết. Tục này còn truyền cho đến ngày nay.  
Tục nếm rượu tường đền là một nét đẹp  
cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng  
cuối năm. Sau dịp lễ Thánh, các bô lão làng  
Vị Hạ rủ nhau ra chợ ngồi tựa lưng vào tường  
đền nếm rượu xem thứ rượu nào ngon thì mua  
để tế lễ trong dịp Tết và đầu xuân. Nhưng khi  
Pháp chiếm độc quyền về rượu thì phong tục  
này cũng mất. Qua hình ảnh thơ miêu tả chân  
thực bằng ngôn ngữ mộc mạc và tấm lòng nhân  
ái của nhà thơ, hiện thực chợ Đồng chỉ còn lại  
là âm thanh rời rạc, rệu rã của người dân quê  
Ngày Tết với các nhà Nho không chỉ là sự  
hòa mình với xuân hay tự thu mình để giữ tiết  
tháo mà còn cả sự trải lòng cảm thương hướng phải chật vật vì nợ nần: “Hàng quán người về  
cái nhìn ra cộng đồng. Bức tranh Tết trong văn  
học trung đại chỉ đôi chút niềm vui, nhìn chung  
vẫn là không khí buồn, nhất là thời kì phong  
kiến khủng hoảng. Cái buồn ấy tràn vào văn  
học qua các bài thơ, câu đối Tết của các bậc  
đại Nho như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,  
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… Đi chợ sắm  
Tết là phong tục lâu đời của nhân dân ta. Chợ  
tết thường đông vui và nhiều hàng quán hơn  
ngày thường. Từ ngày 23 tháng Chạp người dân  
nô nức đi chợ Tết để buôn bán, mua sắm, dạo  
Tết, gặp gỡ nhau trò chuyện hay thanh toán các  
khoản nợ nần còn lại. Nhìn cảnh chợ Tết có thể  
thấy “thước đo sự ấm no của cộng đồng trong  
năm” (Trần Ngọc Thêm, 1998, tr. 151). Nhưng  
đến với phiên chợ giáp Tết ở làng Vị Hạ, người  
đọc cảm nhận được cái ảm đạm của cuộc sống  
dân tình năm đói kém trong cảnh nước mất nhà  
tan: “Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng,/ Năm  
nay chợ họp có đông không?/ Dở trời mưa bụi  
còn hơi rét,/ Nếm rượu tường đền được mấy  
ông” (Chợ Đồng - Nguyễn Khuyến). Chợ Đồng  
là chợ phiên lâu đời họp ngay bên một ngôi đền  
ba gian mái ngói, xung quanh đền đắp tường đất  
bao bọc. Nhưng khi dân Pháp chiếm đóng làng  
thì chợ không họp nữa và tục họp chợ tất niên  
cũng mất. Thế nhưng Nguyễn Khuyến không  
thể quên được không khí chợ Đồng từng rộn  
rã, những dáng người tất bật dưới mưa xuân  
trong cái tiết trời gió bấc còn hơi rét của ngày  
hai mươi bốn tháng Chạp.  
nghe xao xác,/ Nợ nần năm hết hỏi lung tung”.  
Phiên chợ Đồng tất niên và tục nếm rượu tường  
đền vẫn được nhà thơ nhắc đến với bao tình cảm  
mến yêu, trân trọng và tiếc nuối cho phong tục  
văn hóa lâu đời của nhân dân ta bị mai một do  
thời thế đổi thay.  
Trong khi thiên hạ rủ nhau sắm Tết cho đủ  
lễ thì nhà thơ Trần Tế Xương vẫn đang nợ nần,  
thất bại. Nhưng với tính sĩ diện hay cái khiếu  
trào phúng, việc sắm Tết được ông kể khá hài  
hước: “Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy,/  
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu/ Bánh chưng  
sắp gói, e nồm chảy,/ Giò lụa toan làm sợ nắng  
thiu”. Những lời “nói trạng” ấy là cách nhà  
thơ lấp liếm rằng mình đâu phải nghèo, cũng  
muốn sắm cái Tết đầy đủ cho bằng anh bằng  
em. Chẳng qua là “Tiền bạc trong kho chửa lĩnh  
tiêu” và hàng đã đặt nhưng chưa có mà thôi. Vì  
những lý do “chính đáng” nên “Thôi, thế thì  
thôi, đành Tết khác” (Cm Tết). Với bài Sm  
Tết, được nghệ thuật phóng đại giúp sức, tiếng  
cười trào phúng trở nên chua chát và tâm trạng  
nhà thơ bất cần hơn: “Một mâm mứt rận mới  
bày ra/ Kẹo chú Triều Châu đâu đọ được, Bánh  
bà Hành Tụ cũng thua xa”. Hình ảnh thức quà  
được yêu thích nhất trong ngày Tết của nhà ông  
Tú là loại mứt hảo hạng sánh hơn với các thức  
quà nổi tiếng thời bấy giờ. Có điều hơi rợn, hơi  
ngông và chút chua xót vì đó là thứ món mứt  
rận mà thôi.  
102  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
Bởi “ngất ngưởng” nên cuộc sống của cụ cây nêu cao ở sân chùa, đình làng hay trước  
Nguyễn Công Trứ cũng có lúc ông đối diện với nhà. Thân cây nêu là cây tre già nhiều đốt. Thân  
cái Tết nghèo. Vốn tính hài hước và sĩ diện, ông cây được trang trí bằng các loại cờ, phướn, đèn  
cũng ăn Tết bằng tưởng tượng với những thức lồng, câu đối, niêu đất chứa vôi, chuông gió,  
quà nghe có vẻ khá sung túc nhưng thực ra vẫn pháo… Bên dưới gốc, người ta rắc bột vôi trắng  
thiếu sự đủ đầy bởi: “Bánh chưng… chừng ba tạo thành vòng tròn hoặc hình cánh cung, mũi  
chiếc,/ Rượu thuốc… độ nửa siêu,/ Trừ tịch… tên hướng ra phía Đông. Với ý nghĩa tâm linh,  
cây nêu được xem như biểu tượng cây mặt trời,  
cây vũ trụ giúp nhân dân xua đuổi tà ma, quỷ  
dữ trong dịp Tết. Xưa, nhân dân ta còn có tục  
đốt pháo trong dịp Tết. Đêm giao thừa các nhà  
đốt pháo trúc, pháo giấy hay pháo đất sét ngay  
cây nêu để báo hiệu trời đất sang canh. Tiếng  
pháo nổ vang xé toang màn đêm ba mươi còn  
khiến ma quỷ hoảng sợ bỏ đi chứ không dám  
quấy rối dân làng. Sáng mồng Một, pháo vang  
tưng bừng náo nhiệt và xác giấy đỏ thắm sân  
nhà còn tượng trưng cho những điều may mắn  
cho năm mới. Âm thanh pháo nổ giòn giã trên  
cây nêu và mùi khen khét của thuốc pháo quyện  
vào mùi hương nhang đèn trên bàn thờ tổ tiên  
hòa thành một không khí Tết đặc biệt của dân  
tộc ta bao thế hệ xưa. Chính vì vậy, hai phong  
tục dựng cây nêu và đốt pháo cùng được nhắc  
đến khá nhiều và gắn kết khá chặt chẽ trong thơ  
văn trung đại.  
ba tiếng pháo/ Nguyên tiêu… một gang nêu”  
(Tết nhà nghèo). Bài thơ là tưởng tượng để bù  
đắp những thiếu thốn, là tưởng tượng nhưng  
cũng là ước mơ về cái Tết đầy đủ bên gia đình.  
Qua khẩu khí bài thơ, ta vẫn thấy một nhà Nho  
tài tử an nhiên tự tại, không ngại sự chê cười  
của thế gian.  
Trở lại với nhà thơ Nguyễn Khuyến, bên  
cạnh những phiên chợ Tết buồn, người đọc cũng  
bắt gặp những cái Tết vui hiếm hoi. Đó là những  
năm cả làng được mùa cùng đón Tết khá trọn  
vẹn: “Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng/ Ngoài  
cửa bi bô rủ chung thịt” (Cnh Tết). Tính cộng  
đồng thể hiện rất rõ qua những câu thơ mang  
không khí hân hoan mua sắm, chuẩn bị đón  
Tết của nhà thơ quê Yên Đổ. Ngắm nhìn người  
trong thôn xóm đầm ấm, sum vầy “gói bánh  
chưng” và “chung thịt”, cùng ngồi bên bếp lửa  
canh nồi bánh, ông cũng vui lây và mong “được  
mãi như thế”. Niềm vui xuân no ấm ấy có vẻ  
hiếm hoi nhưng cũng đủ chút hơi ấm thổi vào  
bức tranh giá buốt, ảm đạm của những cái Tết  
nghèo kia. Có thể nói nhờ những cái Tết nghèo  
mà các nhà thơ trung đại đã làm giàu cho nền  
văn học Việt Nam.  
Nguyễn Hữu Chỉnh đã ghi nhận một nét  
phong tục đẹp ngày Tết của dân tộc qua bài Vnh  
cái pháo khi chỉ mới là cậu bé chín tuổi. Tương  
truyền, ngày Tết, cậu bé Chỉnh theo cha đi mừng  
tuổi thầy đồ, thầy bảo vịnh cái pháo, cậu ứng  
khẩu làm bài thơ ngay: “Xác không vốn những  
cậy tay người,/ Bao nả công trình, tạch cái thôi !/  
Kêu lắm lại càng tan tác lắm,/ Thế nào cũng một  
tiếng mà thôi”. Bài thơ về sau càng nổi tiếng vì  
nó mang triết lý sâu sắc và có chất dự cảm quan  
trọng về số phận của chính tác giả. Còn Ngô Thì  
Sĩ từng nhắc đến cây nêu như là biểu tượng của  
thế giới tâm linh không thể thiếu được trong dịp  
Tết dân tộc: “Đào phù, du hoả, tuế thời ký/ Dung  
diệp, trúc tiêu, phong tục thông” (Gỗ đào,lửa liễu  
ghi năm tháng,/ Nêu trúc, cành đa phong tục xưa,  
Trần Thị Băng Thanh dịch).  
Qua phong tục sắm sửa, chuẩn bị cho ngày  
Tết trong thơ văn trung đại, người đọc cảm nhận  
được hiện thực cũng như tình cảm và niềm mong  
ước của các nhà thơ lớn đối với nhân dân về một  
cái Tết đầy đủ, ấm no và sum vầy.  
2.2.3. Phong tc dng cây nêu và đốt pháo  
Dựng nêu và đốt pháo ngày Tết là phong  
tục văn hóa lâu đời của nhiều dân tộc anh em,  
trong đó có người Việt. Trước đây, từ ngày hai  
mươi ba tháng Chạp, nhân dân thường dựng  
103  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
Với bản tính thâm trầm của một nhà Nho thiên hạ: “Mua pháo đốt chơi, để anh em nghe  
có tuổi, có lẽ cụ Nguyễn Khuyến chẳng tin sức  
mạnh của cây nêu và không thích nghe tiếng  
pháo inh tai. Khi làng xã dựng nêu, đốt pháo  
vui Tết, cụ cười rằng: “Ai nấy dại vô cùng, pháo  
pháo nêu nêu kinh những Quỷ/ Ta đây nhàn bất  
trị, chè chè rượu rượu sướng bằng Tiên” (Câu  
đối Tết). Tuy vậy có năm cụ Nguyễn cũng dựng  
nêu thật. Người quê còn kể lại rằng ngày hai  
mươi ba tháng Chạp, ông quan Hoàng Cao Khải  
đi việc công và báo sẽ ghé thăm nhà cụ. Nguyễn  
Khuyến, lúc này bất đắc dĩ làm gia sư cho nhà  
ông ta, sai người nhà trồng một cây nêu cao, trên  
treo một chiếc đèn lồng và một vế đối như sau:  
“Kiết kiết can ma, tiết đáo, kinh thiên phù nhật  
nguyệt” (Chót vót cờ mao, đến Tết, chống trời  
phò nhật nguyệt). Hoàng Cao Khải đọc vế đối  
thì tấm tắc khen hay và năn nỉ muốn Nguyễn  
Khuyến viết nốt vế thứ hai. Chờ có thế, Nguyễn  
Khuyến dẫn Hoàng Cao Khải vào trong bếp nhà  
mình đang cúng mấy ông đầu rau bằng đất và  
đọc: “Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác  
quân vương” (Mênh mông khối đất, gặp thời,  
quét rác cũng làm vua). Câu này ý tứ sâu xa  
bảo Hoàng Cao Khải chỉ là đồ vô dụng, chẳng  
qua gặp thời thì nên sự lớn đó thôi. Hoàng Cao  
Khải hiểu ý xỏ xiên nhưng cũng đành cười nhạt  
vì không có cớ trách tội Nguyễn Khuyến (Đinh  
Gia Khánh, 2007b). Những ngày tuổi cao, cụ  
Tam Nguyên mắt yếu, đêm ba mươi tối trời  
không thấy rõ được mọi vật xung quanh. Tuy  
vậy, cụ vẫn có cách cảm nhận Tết bằng các tín  
hiệu quen thuộc, đó là cây nêu và tiếng pháo:  
“Tối ba mươi, nghe pháo nổ đùng, ờ ờ Tết,/  
Sáng mùng một, vấp nêu đánh cộc, à à Xuân”.  
Câu đối không tả cảnh vật của xuân mà lấy âm  
thanh làm tín hiệu, dùng từ “nghe” và “vấp”,  
“ờ ờ” và “à à” để tả về nhận biết của người mắt  
kém như cụ thì thật là hay.  
có tiếng/ Lèn nêu chặt lại, cho làng nước biết  
không xiêu” (Câu đối Tết). Ngay cả khi đời  
“xuống chó”, Tết của ông cũng không thiếu nêu  
và pháo. Tuy nhiên qua tưởng tượng của nhà  
thơ, cái đầy đủ vẫn còn gì đó thiếu thiếu bởi chỉ  
“một gang nêu”, chỉ “ba tiếng pháo”: “Trừ tịch  
kêu vang ba tiếng pháo/ Nguyên tiêu cao ngất  
một gang nêu” (Tết nhà nghèo). Dầu vậy, cách  
nhìn Tết của nhà thơ trong cảnh nghèo không  
hề ảm đạm mà trái lại rất lạc quan: “Ðuột trời  
ngất một cây nêu, tối ba mươi ri (vậy) là Tết,/  
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng  
một rứa cũng Xuân” (Câu đối Tết).  
Đồng cảnh ngộ với Nguyễn Công Trứ, nhà  
thơ Trần Tế Xương cũng muốn có một cái Tết  
đàng hoàng, ít ra dựng được cây nêu, đốt phong  
pháo trúc cho vui. Nhưng rồi thực tại hiện ra,  
ông đành ăn Tết tưởng tượng như mọi năm:  
“Nực cười thay! Nêu không, pháo không vôi bột  
cũng không, mà Tết,/ Thôi cũng được! Rượu có,  
nem có, bánh chưng đều có, thừa xuân” (Câu đối  
Tết). Cảnh Tết nghèo đâu chỉ của riêng nhà thơ  
mà còn của nhiều cảnh đời lúc bấy giờ: “Thiên  
hạ xác rồi còn đốt pháo/ Nhân tình trắng thế lại  
bôi vôi” (Câu đối Tết). Thời thế đổi thay, dân  
tình thê thảm và nhân nghĩa không còn mấy.  
Cái “xác” pháo ngày Tết ấy cách chơi chữ tài  
tình chỉ cho các nghèo xơ xác của nhân dân; cái  
“trắng” bạc bẽo của tình người cũng là cái trắng  
bạc của màu vôi bột. Đặt vào hoàn cảnh thời  
đó mới thấy tâm trạng nhà thơ Trần Tế Xương  
chua chát, xót xa biết nhường nào.  
Văn học trung đại đã tái hiện sinh động  
phong tục dựng nêu, đốt pháo qua cái Tết nghèo  
vật chất nhưng giàu truyền thống văn hóa của  
nhân dân ta. Ngày nay tục đốt pháo không còn,  
tục dựng nêu tuy chỉ vài bộ phận trong cộng  
đồng người Kinh và một số dân tộc anh em duy  
trì, nhưng nhân dân ta vẫn không quên hình ảnh  
cây nêu cao trước sân nhà, âm thanh tiếng pháo  
vui tai như một tín hiệu tâm linh của Tết dân tộc.  
Phong tục trồng cây nêu và đốt pháo có  
tần suất lặp lại khá nhiều trong thơ và câu đối  
của Nguyễn Công Trứ. Lúc cuộc sống “lên voi”  
thì Tết nhà ông cũng dựng nêu, đốt pháo lòe  
104  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
2.2.4. Phong tc đón giao tha  
thay đổi được điều gì. Nhân dân vẫn phải sống  
trong “thời đại khủng hoảng toàn diện” và điều  
khó cứu vớt nhất chính là “khủng hoảng về hệ  
tư tưởng - văn hóa”, trong đó có phong tục lễ  
Tết dân tộc (Trần Quốc Vượng, 2000, tr. 921).  
Đón giao thừa là một phong tục đẹp của  
ông cha được con cháu lưu giữ khá trọn vẹn  
đến ngày nay. Giao thừa còn được gọi là trừ  
tịch, là “điểm thời gian chuyển tiết giữa năm  
Cũ - Mới, được huyền thoại quan niệm như sự  
giao hòa Âm - Dương, phối ngẫu Trời - Đất để  
từ trong cái Chết - Cũ nảy sinh sự Sống - Mới”  
(Trần Quốc Vượng, 2000, tr. 331). Vậy nên mọi  
người cố thức để chứng kiến giây phút giao hòa  
của đất trời, nghe tiếng pháo, tiếng trống rộn  
ràng báo hiệu sang canh, cúng kính tạ ơn trời  
đất, tổ tiên, đi lễ đền chùa rồi hái lộc cầu may.  
Đây cũng là lúc các nhà Nho ghi lại phong tục  
thiêng liêng này với những nỗi lòng suy tư về  
nhân tình thế thái.  
Bởi đêm ba mươi trời tối nhất nên các nhà  
thơ cảm thức khoảnh khắc giao thừa chủ yếu từ  
tín hiệu âm thanh. Nghe tiếng pháo giao thừa  
báo sang canh, Nguyễn Trãi biết mình già hơn  
và rồi suy ngẫm về bản thân - một ông quan già  
an hưu chỉ ngồi chờ đếm tuổi: “Chong đèn chực  
tuổi cay con mắt,/ Đốt trúc khua na đắng lỗ tai”  
(Trtch), (Đinh Gia Khánh, 2007a). Thời khắc  
sang canh khiến người ta thường nhìn lại những  
điều mình đã thực hiện trong quá khứ và mong  
muốn đến tương lai. Nguyễn Trãi cũng ngẫm  
ngợi hơn nhiều về bản thân và nhân tình thế thái  
khi từ bỏ chính trường. Lúc còn làm quan, sắp  
Tết triều đình ban lịch như một ân huệ gọi là  
“lịch quan”, nay nghỉ hưu không còn ưu ái đó  
nên “chẳng thấy”, mà cũng chả cần hỏi. Thức  
khuya đợi giao thừa mà “cay mắt”, nghe pháo  
trúc nổ lại “đắng tai”. Cách dùng từ là một sự  
chuyển nghĩa tinh tế biểu thị cảm xúc của người  
già đang chờ đợi khoảnh khắc mới trong tâm  
trạng vừa vui vừa buồn tủi. Năm mới đến, người  
càng có tuổi càng chạnh lòng hơn. Cùng với tâm  
trạng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến thương  
cho mình tóc đã bạc, mắt đỏ ngầu vì tuổi tác  
ập đến một cách không mong muốn. Đêm giao  
thừa làng mở cửa đình để cúng kính và bắt cỗ.  
Nhưng trong đêm ấy, biết mình sẽ lên tuổi lão  
làng “năm mươi nhăm”, sắp được ngồi “cỗ phe”  
và “ăn dưng”, Nguyễn Khuyến ngồi dưới bóng  
đèn, lặng lẽ uống rượu và kí thác nỗi niềm qua  
những câu thơ: “Bất tri đầu thượng kỷ hành  
bạch,/ Chỉ hữu niên lai song nhãn hồng” (Chẳng  
Thời khắc chuyển giao đem lại sức sống  
mới cho muôn vật khiến tác giả Đặng Đức Siêu  
cảm nhận đêm giao thừa với tâm trạng hết sức  
lạc quan: “Tháng lụn năm cùng, sự chẳng cùng/  
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông/ Gà kêu, pháo  
nổ, năm canh trót/ Mừng cội mai già gặp chúa  
Đông” (Trtch). Nhưng Nguyễn Khuyến và  
Trần Tế Xương lại đón giao thừa trong sự buồn  
tẻ. Không khí giao thừa làng Vị Hạ mùa đói kém  
khá ảm đạm. Người làng nghe vẫn có tiếng trống  
nhưng là trống các làng khác vọng lại “ình ịch”  
nhỏ lẻ, vẫn có tiếng pháo nổ báo hiệu xuân sang  
nhưng chỉ đôi ba tiếng pháo của nhà giàu “lẹt  
đẹt”: “Ình ịch đêm qua trống các làng/ Cách ao  
lẹt đẹt pháo thầy Nhang” (Khai bút - Nguyễn  
Khuyến). Trần Tế Xương cũng tả cảnh đón giao  
thừa của người nghèo đô thị qua không gian  
tối tăm “om thòm” và tiếng pháo lẻ tẻ chỉ “đì  
đẹt”: “Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột/ Om  
thòm trên vách bức tranh gà”. Chứng kiến cảnh  
ấy khiến nhà thơ phải buông lời chửi xéo bọn hay trên đầu đã có mấy sợi tóc bạc,/ Chỉ biết độ  
một năm nay hai mắt đỏ ngầu). Tuy nhiên không  
lâu nghĩ ngợi cho năm tháng đời mình, nhà thơ  
đã mở lòng cảm thương cho những người nghèo  
đang đón xuân: “Nhân dục tầm xuân minh nhật  
kiến,/ Bần duy thử tịch bách ưu không” (Ai  
hãnh tiến rởm đừng quên đi nỗi nhục mất nước:  
“Dám hỏi những ai nơi cố quận/ Rằng xuân,  
xuân mãi thế ru mà” (Xuân ru). Sở dĩ không khí  
giao thừa trong thơ hai nhà Nho buồn đến vậy  
vì trời đất có sang canh thì đất nước cũng không  
105  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
muốn tìm xuân sáng mai sẽ thấy,/ Nhà nghèo đưa quỷ tới/ Sáng mồng Một, lỏng then tạo hoá,  
chỉ có đêm nay là không lo gì). Chỉ có đêm giao mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào” (Câu  
thừa là họ không phải lo, không lo vì không có đối Tết). Từ phong tục đóng cửa đêm ba mươi  
gì để kiếm, không bị ai hành hạ, người ta còn để tránh cái xấu và mở cửa vào sáng mồng Một  
bận đón xuân (Trtch kì 2).  
để đón cái tốt, nữ sĩ đã thể hiện tiếng cười hóm  
hỉnh, đa tình và khao khát rất Xuân Hương.  
Dám đem cái “thiếu nữ” mà chống chọi với  
“ma vương” là dám đem thân nữ nhi mà sánh  
ngang trời đất. Nhưng sao cứ ỡm ờ, úp mở lấy  
“then tạo hóa” của người thiếu nữ đối với “cánh  
càn khôn” to lớn? Người dám bứt tung khuôn  
khổ để đón nhận đất trời, xã hội bao la là người  
thiếu nữ trẻ trung, với tâm hồn rộng mở, trong  
sáng, tràn trề sức sống khi bước vào ngày đầu  
xuân (Vũ Ngọc Khánh, 2007b).  
Đêm giao thừa là thời điểm thiêng liêng của  
đất trời, con người và cả dân tộc. Đây cũng là  
thời gian nghệ thuật đầy tâm trạng, nỗi niềm của  
các nhà thơ trung đại trong thời khắc sang xuân.  
2.2.5. Phong tc mng xuân, chúc Tết  
Nguyên Đán có nghĩa là buổi sáng đầu tiên  
của năm. Vào sáng mồng Một nhiều hoạt động  
văn hóa diễn ra mỗi nơi mỗi khác. Người thì bày  
biện thức quà, ăn mặc đẹp để đãi khách, người  
tranh thủ khai bút, người thăm viếng, chúc Tết  
trong gia đình. Ba ngày Tết lại càng có nhiều  
hoạt động hơn như chúc Tết, chơi xuân, tụ tập  
ăn uống... Tất cả đều vui vẻ và mong ước những  
điều tốt đẹp nhất cho cả năm. Các nhà Nho trung  
đại đã đón nhận những ngày đầu xuân với sự  
trân trọng nét đẹp truyền thống của dân tộc.  
Nếu thơ mừng xuân, đón Tết của Cao Bá  
Quát, Hồ Xuân Hương ấm áp niềm vui thì thơ  
văn Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần  
Tế Xương lại đượm vẻ buồn vì nỗi cơ hàn của  
bản thân, cái xao xác của làng quê đối lập cảnh  
lố lăng phản cảm của kẻ giàu sang trong những  
năm đói kém, giặc giã. Nguyễn Công Trứ với  
cảnh nợ nần chồng chất chỉ biết uống rượu quên  
đời vẫn không quên cầu mong cái nghèo ra đi,  
phúc lộc sẽ đến trong năm mới: “Chiều ba mươi  
nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra khỏi  
cửa/ Sáng mồng một rượu say tuý luý, giơ tay  
bồng ông Phúc đón vào nhà” (Câu đối Tết).  
Ba ngày xuân không có việc gì làm, Nguyễn  
Khuyến một mình tựa cửa, đắp chăn, đọc sách  
và uống rượu đến say nhè: “Bắc song độc chước  
đồi nhiên tuý,/ Nhất dục xuyên hài thượng thuý  
vi” (Trước song say lại nằm khoèo,/ Những toan  
xỏ dép mà trèo non xanh, Dương Xuân Đàm  
dịch), (Xuân nht kì 3). Ở bài Xuân Canh Tý  
viết năm 1900, cụ Tam Nguyên lại khai xuân  
trong cảnh buồn tái tê của thời khắc “sáu sáu  
tuổi trời”: “Tam triêu tịch hậu tửu tương khánh/  
Vạn lục tùng trung hoa dục nhiên/ Lão bệnh  
cận lai ngâm hứng thiểu,/ Xuân hàn vô sự bão  
lô miên.” (Qua ba ngày Tết vơi bầu/ Hoa trong  
chậu cảnh như hầu muốn rơi/ Bệnh già thơ hứng  
cũng vơi/ Rét đài sưởi ấm ngù vùi mừng xuân,  
Nhà thơ Cao Bá Quát tả cảnh ngày mồng  
Một Tết ấm áp với đầy đủ phong tục của quê  
hương trong bài Nguyên nht (Ngày mng Mt  
Tết): “Tự sự thảng hoài dư hiểu lộ,/ Tân diên  
ấp nhượng hữu gia sơ/ Cầm thinh vãn thụ thanh  
ưng biến/ Tùng khán hàn đình sắc dục thư”  
(Việc thờ cúng, lòng bùi ngùi như lúc thấy hạt  
sương buổi sớm mà sinh cảm/ Tiệc đãi khách  
sẵn có gạo nếp đem ra chào mời/ Tiếng chim  
hót trên cành cây tiết muộn nay nghe đã thấy  
khác/ Cây tùng ở trước sân lạnh lẽo trông cũng  
như đang vươn lên). Nhà thơ xúc động nhớ đến  
ông cha đã khuất không còn vui cùng con cháu  
những ngày Tết sum vầy. Nhưng khi thấy mọi  
sự thay đổi, vạn vật sống động, tươi tốt, ông lấy  
lại phấn chấn, vui vẻ chờ đón khách đến đãi tiệc  
với hi vọng có một khởi đầu tốt đẹp. Nữ sĩ Hồ  
Xuân Hương vẽ nên cảnh mừng xuân tươi vui,  
độc đáo của mình với mong muốn rất thường  
thấy của các thiếu nữ thời xưa: “Tối ba mươi,  
khép cửa càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương  
106  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
Lê Phụng dịch). “Mồng Một tết cha, mồng Hai Tết rất ý nghĩa của dân tộc. Nhà thơ chỉ phê phán  
tết mẹ, mồng Ba tết thầy” là tục lệ đẹp ngày  
Tết. Vào sáng ngày mồng Một con cháu sum  
vầy, thôn xóm tụ tập chúc tụng, tặng quà ông  
bà, cha mẹ. Nguyễn Khuyến cũng hưởng ứng  
tập tục trong tiếng cười trào lộng: “Năm mới lệ  
thường thêm tuổi một,/ Cỗ phe ngôi chốc đã bàn  
ba” (Mng con dng được nhà). Đáp lại tình  
cảm con cháu ông cũng chúc Tết bằng giọng thơ  
nhẹ nhàng, ấm áp tình thương: “Tố nghiệp vô  
tha nhất thúc thư/… Nhi tào hoặc khả thừa ngô  
chí,/ Bút nghiễn vô hoang đạo, thúc, sơ.” (Một  
bó tàn thư ấy nghiệp nhà/ Các con nối chí cha  
nên biết/ Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà, Vũ  
Mộng Hùng dịch), (Xuân nht thchư nhi k1).  
Là một gia đình Nho học truyền thống, Nguyễn  
Khuyến luôn trăn trở và mong muốn các con  
cố gắng giữ lấy nghiệp nhà - nghiệp Nho gia,  
thanh bạch và cần kiệm trong bối cảnh xã hội  
rối ren. Lời chúc cũng là lời tâm tình, gửi gắm  
nguyện vọng của nhà Nho chân chính.  
thói phô trương rởm đời của bọn người hãnh  
tiến trong xã hội đương thời đang nhắm mắt làm  
ngơ trước cảnh đời nô lệ, dân chúng lầm than.  
Trong cảnh đất nước loạn lạc, nhân dân cực  
khổ, các nhà thơ không thể vui xuân trọn vẹn  
mà đã trải mình chia sẻ, cảm thông với dân tộc.  
Qua việc tái hiện phong tục chào đón năm mới,  
các nhà thơ trung đại đã gửi vào đó những tâm  
sự sâu kín với tấm lòng ưu ái rất đáng trân trọng.  
2.2.6. Phong tc chơi Tết  
Trong những ngày Tết, ngoài tập tục về lễ  
nghi, giao thiệp, người dân - đa số là người trẻ  
- còn thích đi chơi xuân. Họ thường rủ nhau ra  
đình làng thi các trò chơi, ăn uống hát hò hay  
du xuân đến các thắng cảnh hoặc tham dự lễ hội  
dân gian. Lùng mãi trong thơ Tết Nguyễn Du  
mới gặp một nét chơi xuân làng mạc thời đó:  
“Lân ông bôn tẩu thôn thiền miếu,/ Đấu tửu song  
cam tuý bất hồi” (Lão ông hàng xóm quanh bên  
miếu/ Cam rượu say sưa chẳng thể rời, Đông  
A dịch), (Xuân nht ngu hng). Cái miếu đầu  
thôn ngày Tết thời ấy là chỗ mấy ông trong làng  
quanh năm tất bật bây giờ được hào hứng gặp  
nhau ăn uống, hát hò, vui chơi. Nhìn ông già  
hàng xóm vui đâu chầu đấy khiến nhà thơ khao  
khát được trở về quê hương và đoàn tụ với gia  
đình hơn bao giờ hết. Chỉ một nét thôi mà thấy  
ấm áp văn hóa làng xã một thời xa nhưng cũng  
chạnh lòng cho cụ Nguyễn Tiên Điền (Đinh Gia  
Khánh, 2007b). Mấy ngày Tết, Hồ Xuân Hương  
du xuân đến những nơi khách thập phương nô  
Lời chúc Tết vừa là một mong ước, một  
nguyện cầu, vừa là một cách thức ứng xử mang  
tính văn hóa. Tuy nhiên trong đó có những tiếng  
chúc vô tư xởi lởi mang tính chất tham lam, vô  
nghĩa lý mà không phải ai cũng nhận ra. Ấy  
thế mà có một người “lẳng lặng” nghe rồi bình  
phẩm và giễu cợt. Câu chuyện Năm mi chúc  
nhau qua cái nhìn trào phúng bậc thầy của Tú  
Xương đã hiện ra với tất cả sự khôi hài và giả  
dối của xã hội phong kiến thực dân. Bọn nhà  
giàu thì lúc nào cũng sống phè phỡn, sung túc,  
ấy vậy mà chúng vẫn chúc nhau những điều  
thừa thãi, giả dối: “chúc trăm tuổi”, “chúc giàu”, nức trẩy hội như Khán Đài hay các danh thắng  
“chúc sang”, “ chúc con”. Cùng cảm hứng phê như động Hương Tích ở Chùa Hương, hang Cắc  
phán đó, nhà thơ đã chửi đổng những kẻ theo  
Tây đón Tết dân tộc với những hành vi lai căng,  
khoe khoang, kệch cỡm: “Khăn là bác nọ to tầy  
rế/ Váy lĩnh cô kia quét sạch hè/ Công đức tu  
hành, sư cô lọng/ Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi  
xe/ Phong lưu rất mực ba ngày Tết” (Năm mi).  
Nói như thế không có nghĩa là Tú Xương “vơ  
đũa cả nắm”. Ông đâu dám chê bai tục lệ chúc  
Cớ, hang Thánh Hóa ở Chùa Thầy... Tinh thần  
du hí của người tài tử đã kéo nữ sĩ đi đây đi đó  
và ghi lại kí ức ngày xưa: “Êm ái chiều xuân  
tới Khán Đài,/ Lâng lâng chẳng bợn chút trần  
ai” (Chơi Khán Đài). Qua cảnh chiều xuân êm  
đẹp như chốn bồng lai và niềm vui du xuân nhẹ  
nhàng ở hai câu đề, nhà thơ cũng gửi gắm vào  
những câu thơ sau những nỗi niềm tâm sự của  
107  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
hiện tại với phong cách rất Xuân Hương: “Bốn đời sống tốt đẹp hơn và văn hóa dân tộc được  
gìn giữ, phát triển bền vững.  
mùa triêu mộ, chuông gầm sóng,/ Một vũng tang  
thương, nước lộn trời/ Bể ái ngàn trùng khôn tát  
cạn,/ Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi” (Đỗ  
Lai Thúy, 1999).  
3. Kết luận  
Văn học trung đại Việt Nam đã ghi lại dấu  
ấn các phong tục Tết cổ truyền của người Việt  
khá đặc sắc qua nhiều tác phẩm của các tác giả  
tiêu biểu. Việc khảo sát tư liệu phong phú, đa  
dạng, sinh động của văn học trong đại về phong  
tục lễ Tết cổ truyền cho thấy mối quan hệ gắn  
bó giữa hai lĩnh vực. Các tác phẩm ghi lại phong  
tục lễ Tết dân tộc dù được sáng tác một cách chủ  
quan hay khách quan cũng đã giúp người viết có  
cái nhìn toàn diện về những giá trị truyền thống  
của văn hóa Việt trong dòng chảy văn học trung  
đại. Qua đó, ta có thể thấy, trong tâm thức của  
người Việt, văn hóa là mạch nguồn không bao  
giờ vơi cạn, đặc biệt nó luôn tràn chảy trong văn  
chương từ thời trung đại đến hiện đại.  
Lễ hội xuân là minh chứng cho sự gắn kết  
của cộng đồng làng xã, minh chứng cho nét đẹp  
văn hoá ngàn đời của ông cha ta. Bằng vài nét  
phác hoạ, nhà thơ đã giúp ta hình dung một cách  
đầy sinh động không khí sinh hoạt văn hoá của  
dân gian - trò chơi đánh đu - trong hội xuân:  
“Trai đu gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng  
cong ngửa ngửa lòng/ Bốn mảnh quần hồng  
bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song  
song” (Đánh đu). Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy  
từng cho rằng: “Thiên tài Hồ Xuân Hương là  
miêu tả cảnh đánh đu rất đẹp, đầy hình ảnh, màu  
sắc, động tác gợi được không khí xuân... Đồng  
thời, bằng tài nghệ của mình, nhà thơ đã dựng  
lên nghĩa lấp lửng, phục nguyên được ý nghĩa  
phồn thực của trò chơi đánh đu” (Đỗ Lai Thúy,  
1999, tr. 15). Đối với nam nữ thanh niên lúc bấy  
giờ, chỉ có trong ngày hội dân gian ngắn ngủi  
ấy họ mới được đứng gần nhau mà tung bay  
với nhau giữa không gian xuân sắc, tận hưởng  
khoảnh khắc hạnh phúc nhỏ nhoi ấy mà không  
phải ngần ngại lễ giáo. Cho nên, kết thúc bài  
thơ, tưởng chỉ là lời nghịch ngợm của tác giả  
song cũng là niềm luyến tiếc bâng khuâng về  
ngày xuân trôi qua, cuộc vui không còn: “Chơi  
xuân đã biết xuân chăng tá/ Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ  
không!”. Từ phong tục chơi Tết trong thơ trung  
đại ta thấy nhân dân không chỉ làm lụng vất vả  
quanh năm mà họ còn biết hưởng thụ cuộc sống  
với thế giới bên ngoài một cách phóng khoáng  
để vơi bớt những nỗi lo toan, buồn phiền của  
nghiệp nhà nông.  
Trong nhiều phong tục Tết của dân tộc, bài  
viết đã khảo sát được một số phong tục tiêu biểu  
giàu giá trị văn hóa như thưởng hoa, sắm Tết,  
dựng cây nêu, đốt pháo, đón giao thừa, mừng  
xuân, chúc tết, chơi xuân trong thơ văn của  
những tên tuổi lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn  
Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ,  
Cao Bá Quát... Dấu ấn của các phong tục Tết  
cổ truyền được thể hiện đa dạng trong các yếu  
tố như nhan đề, nội dung, ngôn từ, thể loại văn  
học. Một số phong tục Tết khác hoặc không thấy  
xuất hiện hoặc mức độ phản ánh thoáng qua với  
số lượng tác phẩm hạn chế đã không được bài  
viết khai thác.  
Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam  
từ góc nhìn văn hoá dân gian là cách tiếp cận  
văn học cần thiết và nhiều ý nghĩa cho bài viết.  
Trước hết, cách nghiên cứu này làm phong phú  
thêm cách nhìn về văn học trung đại - vốn khó  
hiểu, khó cảm, đồng thời có thể tương tác đến  
sự phát triển của văn học thời kì này. Những giá  
trị văn hóa về phong tục lễ Tết cổ truyền là sức  
mạnh góp phần làm nên chiều sâu và sức sống  
cho văn học trung đại Việt Nam. Ngược lại qua  
Qua những bức tranh Tết có dư vị hơi buồn  
nhưng ấm áp tinh thần cộng đồng, các tác giả  
trung đại cũng muốn phản ánh bức tranh nhiều  
biến động của xã hội phong kiến Việt Nam,  
nhất là thời kì khủng hoảng, với mong muốn  
108  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 1, 2021, 97-109  
các sáng tác, người nghiên cứu có thể soi rọi lại Huỳnh Như Phương. (2009). Văn học và văn  
những giá trị văn hoá dân gian trong văn học.  
Các tác phẩm trên giúp người đọc hiểu hơn về  
đời sống tinh thần của nhân dân ta thời kì phong  
kiến. Qua đó góp phần đắc lực cho việc phục  
hồi các nét đẹp lễ Tết dân tộc đang mất dần do  
cuộc sống thay đổi và quá trình giao lưu tiếp  
biến. Đặc biệt hơn, trong thời kì hội nhập, trước  
nguy cơ văn hóa dân tộc ngày càng bị mai một  
thì hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá  
là một cách để giữ gìn và phát triển những giá  
trị văn hóa truyền thống Việt Nam./.  
hoá truyền thống. Tp chí Nhà văn, s10.  
Nguyễn Duy Bắc. (2006). Cm nhn vvăn hoá  
và văn hc trong hành trình đổi mi. Hà  
Nội: NXB Văn hóa Dân tộc.  
Trần Đình Sử. (06/3/2017). Giá trị văn hóa của  
Văn học Việt Nam. Blog Trn Đình S.  
com.  
Trần Ngọc Thêm. (1998). Cơ svăn hóa Vit  
Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB  
Giáo dục.  
Tài liệu tham khảo  
Trần Nho Thìn. (2007). Văn hc trung đại Vit  
Nam dưới cái nhìn văn hóa. Hà Nội: NXB  
Giáo dục.  
Đinh Gia Khánh (chủ biên). (2007a). Văn hc  
Vit Nam (Thế kX - na đầu thế kXVIII).  
Hà Nội: NXB Giáo dục.  
Trần Quốc Vượng. (2000). Văn hóa Vit Nam  
tìm tòi và suy ngm. Hà Nội: NXB Văn  
hóa Dân tộc.  
Đinh Gia Khánh (chủ biên). (2007b). Văn hc  
Vit Nam (Na sau thế kXVIII - hết thế kỉ  
XIX). Hà Nội: NXB Giáo dục.  
Vũ Ngọc Khánh. (2007). Nghiên cu văn hóa cổ  
truyn Vit Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.  
Đỗ Lai Thúy. (1999). HXuân Hương - hoài  
nim phn thc. Hà Nội: NXB Văn hóa  
Thông tin.  
109  
pdf 13 trang yennguyen 21/04/2022 740
Bạn đang xem tài liệu "Phong tục lễ tết cổ truyền của người Việt trong văn học trung đại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphong_tuc_le_tet_co_truyen_cua_nguoi_viet_trong_van_hoc_trun.pdf