Đôi nét về tính tẩu của người Tày Tuyên Quang
No.20_Mar 2021|p.37-46
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
SOME BRIEF OF THE ''TINH TAU'' OF TAY ETHNIC
IN THE TUYEN QUANG
Nguyen Thi Thanh Thao1,*
1 Tan Trao University, Viet Nam
Article info
Abstract
Salavan is a province in the South of Lao People’s Democratic Republic, It has a
length of 80 km of border with Vietnam, therefore, besides indigenous residents,
there are also many Vietnamese to live and work in Salavan. In the process of
settling down in Salavan, the Vietnamese brought their traditional culture to Laos,
at the same time, exchanging and learning about the cultural values of the
Laotians. This cultural interchange has formed new cultural values, enriching the
cultural treasures of Vietnamese as well as Lao residents in Salavan province. In
this study, by the ethnographic fieldwork method, synthesis and comparison, we
consider the influence and interchange of culture between Vietnam and Laos in
some typical elements of physical and non-physical culture object.
Recieved:
17/11/2020
Accepted:
22/02/2021
Keywords:
the influence,
interchange of culture,
Laos, Vietnam, Salavan
province.
No.20_Mar 2021|p.37-46
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
ĐÔI NÉT VỀ TÍNH TẨU CỦA NGƯỜI TÀY TUYÊN QUANG
Nguyễn Thị Thanh Thảo1,*
1Trường Đại học Tân Trào
Thông tin bài viết
Tóm tắt
Người Tày Tuyên Quang có nguồn gốc là tộc người Bách Việt di cư từ thời
nhà Mạc. Dân số Tuyên Quang chiếm trên 26,2% tổng dân số trong toàn tỉnh, cư
trú tập trung ở ven các thung lũng, triền núi thấp, lòng chảo, thích nghi với điều
kiện sinh hoạt nông nghiệp lúa nước và chăn nuôi. Mặc dù có nhiều thay đổi
nhưng người Tày vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống qua nhà ở, ngôn ngữ,
chữ viết, sinh hoạt văn hóa văn nghệ cộng đồng, đặc biệt là tín ngưỡng của họ.
Tính tẩu từ xa xưa đã gắn bó rất chặt chẽ với các nghi lễ Then của người Tày
và được coi như đó là một biểu tượng linh thiêng trong đời sống tinh thần của
họ. Câu chuyện về sự ra đời, tính thiêng và quyền năng của tính tẩu trong nghi
lễ Then cứ như vậy truyền từ thể hệ này sang thế hệ sau. Tính tẩu đã dần được
mặc định về sự có mặt của nó như là một vật thiêng trong cuộc sống tín
ngưỡng người Tày. Tại Tuyên Quang hiện nay, Nghệ nhân tính tẩu chuyên hát
Then văn nghệ chiếm số lượng lớn so với nghệ nhân tính tẩu của Then nghi lễ. Họ chủ
yếu là những người có năng khiếu âm nhạc, say mê hát Then – tính tẩu, trưởng thành
trong phong trào văn nghệ quần chúng ở địa phương.
Ngày nhận bài:
17/11/2020
Ngày duyệt đăng:
22/02/2021
Từ khóa:
Văn hóa, người Tày, cộng
đồng, tín ngưỡng, tính tẩu,
Then văn nghệ, Nghệ
nhân…
tài liệu nghiên cứu gọi là “Ăn tính” hoặc “Tàn tính”
1. Đặt vấn đề
Tính tẩu – Đàn tính hay đàn Then đều là cách
gọi phổ thông để chỉ về nhạc cụ đàn trong hoạt
động nghi lễ tín ngưỡng của người Tày, Nùng, Thái
ở Việt Nam và người Choang ở Trung Quốc
[7,tr.51]. Người Tày Tuyên Quang cũng có nhiều
tên gọi khác nhau về cây đàn này, như: “ăn tẩu”
hoặc “ăn tính tẩu”, "đàn tính", "đàn then" “tính
tảu”... Dù là cách gọi nào thì cũng là chỉ về cây đàn
của nhóm tộc người Tày cư trú đan xen với các tộc
người Nùng, người Kinh, người Dao,... ở khu vực
phía Bắc Việt Nam.
với nghĩa đàn tính nhằm giữ nguyên chữ “tính”
theo cách hiểu thông dụng của người Kinh cho
rằng: "tính" là một loại đàn chứ không có nghĩa tính
là “đàn” như cách hiểu của người Tày. Một số cách
gọi rất phổ thông do căn cứ vào đặc thù phục vụ
của tính tẩu trong các nghi thức làm Then nên họ
gọi nó là "đàn Then". Từ những cách gọi trên cho
thấy: Tên gọi có thể khác nhau nhưng nó cùng được
gọi dựa trên một sự vật hiện tượng cụ thể, đó là tính
tẩu. Đặc biệt, cách gọi tính tẩu đã được các nhà
nghiên cứu sử dụng từ những ghi chép đầu tiên. Có
thể thấy tên gọi đàn tính, tính tẩu hay ăn tẩu,... đều
thể hiện rất rõ tính dị bản trong âm nhạc dân gian,
văn hóa dân gian. Để thuận lợi cho việc trình bày,
bên cạnh tên gọi tính tẩu theo tiếng Tày thì chúng
tôi sử dụng thêm cách gọi phổ biến hiện nay là đàn
tính. Bởi vì, tính tẩu hay đàn tính thì chúng đều có
Hiện nay, cách gọi “ăn tính” hay “ăn đàn tính”
vẫn được một số người cao tuổi sử dụng để chỉ tính
tẩu, điển hình là người Tày ở tỉnh Tuyên Quang.*
“Tàn” hay “Đàn” là do "mượn" từ để gọi. Một số
* PV Nghệ nhân Nhân dân Hà Thuấn ngày 6 tháng 2 năm
2011, tại Tân An – Chiêm Hóa – Tuyên Quang.
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
ý nghĩa chỉ định cây đàn dùng trong nghi lễ Then
các tỉnh trong khu vực Đông Bắc Việt Nam để cư
trú. Văn hóa Tày cũng từ đây được giữ gìn, phát
triển và ảnh hưởng tới các tộc người khác cùng sinh
sống, tạo nên một văn hóa Tày ngày càng đa sắc,
phong phú. Với những người lớn tuổi như Nghệ
nhân Nhân dân Hà Thuấn cũng cho biết về nguồn
gốc người Tày Tuyên Quang do cuộc di cư từ thời
nhà Mạc†.
và hát Then của người Tày.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đôi nét về người Tày Tuyên Quang
2.1.1. Người Tày Tuyên Quang trong mối liên
hệ lịch sử với người Tày ở Việt Nam
Người Tày nằm trong cộng đồng nhóm ngôn
ngữ Tày - Thái, trong đó có nhóm ngôn ngữ Tày -
Thái thuộc "khối Bách Việt"[8,tr.24], có "cùng
nguồn gốc, gồm hai ngành: ngành phía Tây và
ngành phía Đông" [8,tr.24]. Người Tày, Nùng cư
trú ở khu vực thượng du Bắc bộ thuộc về phía
Đông. Căn cứ vào các đặc điểm văn hóa của người
Tày - Nùng thì các nhà nghiên đã phân tích và dự
đoán: "Có thể vào khoảng thế kỷ thứ VI đến thế kỷ
XI-XII, từ khối tộc người Tày - Thái đã có sự phân
tách ra từng nhóm nhỏ riêng biệt với các tên gọi
riêng và có những đặc trưng văn hóa riêng"
[7,tr.16]. Theo Nguyễn Thị Yên thì người Tày ở
Việt Nam có nguồn gốc từ một bộ phận tộc người
có tên gọi là Man - Lão thuộc bộ phận người
Choang ở khu vực Lưỡng Quảng Trung Quốc. Năm
1085 được xem như là cái mốc phân tách khối Tày
- Choang và dần hình thành khối Tày - Nùng ở Việt
Nam, bởi vì: sau khi biên giới hai nước Trung Quốc
và Việt Nam được xác định thì người Choang ở
Trung Quốc và người Tày ở Việt Bắc Việt Nam
được hình thành và phát triển trong những điều kiện
khác nhau. Từ đó hình thành và phát triển văn hóa
dưới sự chi phối của hai triều đại khác nhau
[7,tr.15-17] [6]. Bên cạnh số người Tày bản địa còn
có một bộ phận người Tày gốc Kinh, một bộ phận
người Nùng hóa Tày, một bộ phận người Tày thuộc
các nhóm cộng đồng tộc khác đến từ Trung Quốc.
Có nhiều nguyên nhân trong biến cố lịch sử để họ
trở thành người Tày và do quá trình sinh tồn lâu
năm, qua nhiều thế hệ nên về cơ bản, văn hóa hóa
của họ bị Tày hóa, lâu dần đều được xác định: Đó
là người Tày.
Tày có số dân đông thứ hai, đứng sau người
Kinh (Việt). Người Tày cư trú chủ yếu tại các tỉnh
Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Thái
Nguyên, Lào Cai, Tuyên Quang ... Về cơ bản người
Tày sinh sống chủ yếu ở ven núi, gần khe suối –
ruộng, rất thuận tiện cho lao động sản xuất là vừa
trồng lúa nước vừa trống lúa trên đồi; chăn thả gia
súc, gia cầm,...
2.1.2. Một số nét văn hóa của người Tày Tuyên
Quang
Người Tày tại Việt Nam có khoảng 205624 người.
Dân số Tuyên Quang theo thống kê đến tháng 4 năm
2019, có 784811 người, chiếm trên 26,2% tổng dân số
trong toàn tỉnh [1]. Người Tày ở đây cư trú tập trung
thành làng, bản, ở ven các thung lũng, triền núi thấp
khu vực núi cao, lòng chảo huyện Lâm Bình, Na Hang
và Chiêm Hóa - thích nghi với điều kiện sinh hoạt
nông nghiệp lúa nước và chăn nuôi.
Do sinh sống ở địa hình đồi núi nên nhà ở
truyền thống của người Tày Tuyên Quang trước
đây là nhà sàn, đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất và
điều kiện sống nông nghiệp miền núi. Quá trình
tiếp biến văn hóa, giao thông đi lại thuận tiện,
người Tày đã thích nghi với việc ở nhà sát mặt đất,
nhà xây cho thuận tiện với sinh hoạt. Việc thay đổi
mô hình nhà ở cũng là một nguyên nhân khiến cho
sinh hoạt nghi lễ Then mất đi không gian văn hóa
của các nghi lễ Then truyền thống gắn với tính tẩu.
Hiện nay, một số gia đình có điều kiện kinh tế đã
xây nhà sàn, nghĩa là xây mô hình nhà truyền thống
với các tiện nghi hiện đại, vừa kiên cố, vừa giữ gìn
được không gian nhà sàn ba gian hai trái, sân sàn
chắc chắn, an toàn cho việc sinh hoạt.
Về vấn đề này Trần Quốc Vượng cũng cho biết:
Người Tày và người Nùng có nguồn gốc là tộc
người Bách Việt, sau, trong tiến trình lịch sử, họ
dần dần phân hóa và và trở thành hai tộc người
riêng biệt, Người Tày chịu nhiều ảnh hưởng của
văn hóa Việt hơn còn người Nùng chịu nhiều ảnh
hưởng của văn hóa Hán hơn" [5,tr.207].
Trang phụ truyền thống của người Tày được
làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, đồng
nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không
có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ
cao, năm thân, cài năm khuy ở cổ và sườn bên
Nhiều nguồn tài liệu về tộc người Tày cho rằng:
Người Tày nhà Mạc chạy loạn từ Cao Bằng sang
† Điền dã ngày 6 tháng 2 năm 2011, tại Tân An – Chiêm
Hóa – Tuyên Quang.
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Trang phục của
dần với khái niệm trang phục truyền thống.
Những bộ trang phục cổ truyền đó chỉ xuất hiện
vào những dịp lễ Tết và khi lên sân khấu. Ngày
nay sự kết hợp bộ trang phục truyền thống với
hát then, tính tẩu vào những dịp như vậy chính là
cách mà người Tày thể hiện bản sắc tộc người
của họ.
nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa,
áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng
có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá
đầu gối. Đồ trang sức có vòng cổ, vòng tay, vòng
chân và dây xà tích bằng bạc. Ngày thường họ
mặc những trang phục phổ biến trong xã hội, xa
Trang phục của người Tày Tuyên Quang
Thầy Then trong lễ Cấp sắc cho thầy Phù thủy xã Hòa An – huyện Chiêm Hóa
Làm Then Cốm mới của người Tày xã Tân An, huyện Chiêm Hóa
Tín ngưỡng của người Tày Tuyên Quang được
nghi lễ như: Thờ cúng, cưới xin, sinh đẻ, ma chay,...
thể hiện qua các phong tục truyền thống gắn với các
đặc biệt là tín ngưỡng thờ thờ Mẻ Va vẫn được
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
người Tày giữ gìn, lưu truyền từ thế hệ này sang thế
Đây là một nghi thức truyền thống trong văn hóa
người Tày để tưởng nhớ đến những người đã khuất.
Đây cũng là ngày mà anh em trong gia đình tập trung
lại để cùng tổ chức làm bánh thắp hương cho người
đã mất, sau đó chia cho con cháu, họ hàng.
hệ khác tuy đã đơn giản hóa, thay đổi phù hợp với sự
tiến bộ của thời đại. Người Tày thờ Phật Bà Quan
thế âm bồ tát và thờ tổ tiên. Người Tày thờ Phật nên
vị trí được đặt ở trên cao nhất gian tại chính giữa
ngôi nhà. Thấp hơn một chút là bàn thờ tổ tiên với
một không gian riêng và được cung kính hết mực.
Các nghi thức làm bánh, lễ cúng như Tết Nguyên
đán của người Việt. Các nghi thức lễ cầu cúng quan
trọng còn lưu giữ là ngày tết Nguyên tiêu rằm tháng
giêng. Cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, ngày
tết như cúng các thần linh khác; ngày cúng chúng
sinh rằm tháng bảy, ngày Tết thanh minh; ngày tết
cúng lúa mới vào rằm tháng tám. Những ngày này,
người Tày dù ở đâu đều nhớ và hướng về gia đình, tổ
tiên tập trung làm lễ để tỏ lòng thành kính.
Người Tày quan niệm, người chết linh hồn tiếp
tục sống ở thế giới bên kia nên nghi thức tang ma chỉ
làm một lần, chôn vĩnh viễn. Trong nghi lễ tang ma
của người Tày không thể thiếu được việc cúng nhà
táng cho người chết mang theo. Họ cho rằng, nếu khi
chết mà chưa đốt nhà táng cùng khi chôn thì sang thế
giới bên kia họ không được gia nhập với dòng tộc.
Chính vì vậy, khi trong gia đình có người chết, gia
đình phải làm thêm nhà táng để người chết mang
theo. Việc làm nhà táng trước đây thường do những
người hàng xóm giúp đỡ. Để hoàn thành một cái nhà
táng trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có nhiều người
cùng tham gia, làm liên tục trong 2 ngày để kịp cho
người chết mang theo. Ngày nay, do sự thâm nhập
của nền kinh tế thị trường, việc trang bị một cái nhà
táng cho người chết được bán sẵn, rất thuận tiện,
nhanh chóng. Sau khi chết, quan niệm của người Tày
là họ được về với tổ tiên nên hàng năm phải không tổ
chức cũng giỗ. Tuy nhiên, Tết Thanh Minh (ngày 3/3
âm lịch) hàng năm, Người Tày lại tổ chức lễ tảo mộ.
Hôn lễ truyền thống của người Tày cũng được
tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ
sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa
dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người.
Tuy nhiên, nhiều thủ tục nghi lễ đã được giảm nhẹ
hoặc lược bỏ cho phù hợp với hiện tại, như: Đồ
dùng cô dâu mang về nhà chồng được mua sẵn, đón
dâu bằng xe máy, cô dâu mặc váy cưới nhiều
tầng,... Tuy nhiên, ngày rằm tháng bảy cũng là ngày
Tết con rể đưa vợ con về tạ lễ bố mẹ vợ nên ngày
này cũng được người Tày coi trọng và tổ chức rất
to. Những ngày này, dù ở xa họ đều hướng sắp xếp
công việc để về với tổ tiên, gia đình.
Đám cưới người Tày xã Khuôn Hà, huyện Lâm Bình
(Nguồn: Hoàng Giang)
Người Tày có chữ viết riêng, bao gồm "cả hệ
chế tác đầu tiên là Lê Thế Khanh, một túc nho, tri
thức Tày ở Cao Bằng" [4,tr.20]. Mặc dù chữ Latinh
có sau nhưng chữ Nôm Tày vẫn được lưu hành trong
cộng đồng. Việc lưu giữ và truyền dạy chữ Nôm Tày
thống chữ viết cổ và chữ viết mới theo hệ chữ
Latinh" [4,tr.9]. Chữ Nôm Tày được ghi nhận từ
những bản thảo ghi chép cổ "từ thế kỷ V, với người
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
không có tính hệ thống. Sau những đợt thiên di, lan
2.2. Đôi nét về Tính tẩu trong đời sống văn hóa
người Tày Tuyên Quang
tỏa, người Tày ở mỗi địa phương lại biên soạn, chỉnh
sửa nó sao cho phù hợp với tình hình địa lý, giao
thoa văn hóa trong khu vực. Chính vì vậy mà chữ
Nôm Tày ở mỗi vùng miền lại có những đặc điểm
riêng. Hiện nay, chữ Nôm Tày được lưu truyền trong
những gia đình có truyền thống dạy chữ; những
người làm nghề Then, Tào, Mo do làm nghề thì học
và lưu giữ, truyền đời; đặc biệt, trong công tác quản
lý, ngôn ngữ Tày còn được đưa vào đào tạo tại một
số cơ sở dạy học như: Văn hóa nghệ thuật, Quản lý
nhà nước. Điều này cho thấy "công sức sáng tạo và ý
thức giữ gìn, lưu truyền những giá trị tốt đẹp" [4,tr.9]
của người Tày được trao truyền liên tục, từ thế hệ
trước cho thế hệ sau. Ngày nay phần lớn người Tày
dùng chữ Quốc ngữ để lưu giữ văn bản. Bên cạnh
việc sử dụng chữ Nôm Tày, họ sử dụng chữ Nho
trong truyền giáo vào truyền giáo và thực hành tín
ngưỡng, dựa vào hệ thống chữ tượng hình làm căn
cứ để suy luận ý nghĩa của các câu khấn cổ.
2.2.1. Tính tẩu trong nghi lễ Then người Tày
Tuyên Quang
Tính tẩu từ xa xưa đã gắn bó rất chặt chẽ với
các nghi lễ Then của người Tày và được coi như đó
là một biểu tượng linh thiêng trong đời sống tinh
thần của họ. Sự tích cây tính tẩu kể rằng chàng
Xiên Cân sau giấc mơ đã chế tác ra cây đàn 12 dây,
tiếng đàn làm đắm say làm cho con người quên ăn,
quên ngủ, quên làm,... dân chúng đói khát, lầm than
dẫn đến việc cầu cứu. Pụt Luông thấy vậy sai người
xuống hạ giới cắt dây đàn đi. Xiên Cân cầu xin giữ
lại 3 dây đàn để bầu bạn và hứa sẽ làm việc thiện
giúp bà con để chuộc tội. Pụt Luông đồng ý và yêu
cầu Xiên Cân phải hứa dùng đàn vào những việc có
ích phục vụ cho nhân gian. “Đồng ý” được hiểu
như là được Pụt Luông ban lệnh sắc phong làm
quan nhà trời. Có thể hiểu lễ “Cấp sắc” đối với thầy
Then là nghi thức được nhà trời công nhận là Quan
nhà trời. Thầy Then cùng tiếng tính tẩu là sợi dây
kết nối giữa nhân gian với thần linh, thượng giới,
dùng tiếng đàn giúp dân tấu lên trời cho Pụt Luông
thấu tỏ. Tính tẩu từ có mặt cùng các nghi lễ Then
cầu mùa màng, cầu bình yên, cầu sống lâu – nối số,
cầu xin sinh con, cầu con ngoan con khỏe, lễ hội,
mùa màng… Người làm Then, khi ở mường Đất
phải được cấp sắc vừa để hành nghề, vừa đảm bảo
việc khi chết, lên mường Trời mới được công nhận
là quan nhà trời.
Người Tày rất chú trọng tới bảo vệ bản sắc văn
hóa của dân tộc mình. Đặc biệt là những người dân
nơi đây giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng Tày,
kể cả những người Kinh, Dao hay Cao Lan. Việc sử
dụng ngôn ngữ Tày và duy trì ngôn ngữ của họ
trong giao tiếp hàng ngày. Đây cũng chính là yếu tố
thúc đẩy phát triển các loại hình dân ca của họ
Văn hóa nghệ thuật của người Tày Tuyên Quang
đa dạng, phong phú, như: Lượn, Phong slư. Lượn
gồm: Lượn cọi (ở Tuyên Quang gọi là Cọi; Hà
Giang gọi là Ién), Lượn slương, Lượn Then, Lượn
nàng ới,... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng
rãi ở nhiều vùng trong đó có người Tày Tuyên
Quang. Người ta thường hát Cọi trong lễ hội. Bên
cạnh đó họ còn tổ chức các trò chơi dân gian: ném
còn, đánh pao, đánh yến, chơi ô,... trong các buổi lễ
hội. Ngày nay, trong các hoạt đông văn hóa văn
nghệ, phong trào của trường học, địa phương ở
Tuyên Quang có Hát Then cùng tính tẩu là một nội
dung trong chương trình hoạt động của họ. Họ hát
dịp Tết, hội, lễ, chúc thọ, khai giảng, giao lưu,... Một
số nghệ nhân đi làm xa cũng mang theo tiếng hát,
câu nhạc để thể hiện văn hóa truyền thống của mình.
Có thể thấy, giống như ở các địa bàn cư trú
khác, văn hóa của người Tày Tuyên Quang là được
hình thành trong quá trình thiên di, lan tỏa, tiếp
biến văn hóa mà tạo nên sự đa dạng, đa sắc màu
giữa các vùng cư trú khác nhau.
Câu chuyện về sự ra đời, tính thiêng và quyền
năng của tính tẩu trong nghi lễ Then cứ như vậy
truyền từ thể hệ này sang thế hệ sau. Tính tẩu đã
dần được mặc định về sự có mặt của nó như là một
vật thiêng trong cuộc sống tín ngưỡng người Tày.
Vì vậy, trong quan niệm của thầy Then, tính tẩu là
vật kết nối với thế giới tâm linh, biểu tượng cho thế
giới quan, nhân sinh quan của thầy Then, thầy Then
dùng lời hát và âm nhạc của tính tẩu để điều binh
khiển tướng dâng lễ vật lên mường Trời.
Để có thể làm được cho các nghi lễ Then đòi
hỏi đầu tiên phải là người có căn Then, được tổ tiên
lựa chọn làm nghề Then mới có cơ hội học đàn và
đánh đàn. Các kỹ thuật chơi đàn, gảy đàn, múa đàn
phải đạt yêu cầu mới được cấp sắc, làm thầy.
Những người làm thầy là những người được dòng
Tổ Then công nhận và được minh chứng bằng các
lễ cấp sắc qua các cấp bậc. Cấp bậc là thể hiện trình
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
độ, quyền năng của người làm thầy. Cấp càng cao
Để thỏa mãn nhu cầu giải trí, người dân đã sáng
tác những lời hát mới để hát cho nhau nghe. Từ
những lời Then, điệu nhạc chứa đựng yếu tố tín
ngưỡng, một số người vì yêu thích câu hát, điệu nhạc
mà đã tự sáng tác những câu hát mới, thích hợp với
điều kiện văn hóa xã hội hiện tại. Từ đó, những lời
Then mộc mạc, mang hơi thở cuộc sống dần len lỏi có
mặt trong đời sống của người dân. Hàng đêm,
quanh bếp lửa, âm nhạc tính tẩu lại vang lên cùng
những lời hát Then mới. Dần dần những lời hát
mới lan rộng khắp trong đời sống của họ. Tính tẩu
cứ thế có mặt ở khắp các ngôi nhà sàn đến các sân
khấu biểu diễn.
càng thể hiện là người có quyền năng tiếp xúc với
thế giới khác ngoài thế giới thực tại mà con người
đang sống. Liên quan đến sự linh thiêng của tính
tẩu họ có những quy định khá nghiêm ngặt.
Đầu cần đàn là tượng trưng cho những vị thần
có uy quyền ở trên Trời nên càng chế tác cầu kỳ
bao nhiêu càng thể hiện quyền uy của người làm
Then bấy nhiêu. Chính vì vậy họ rất coi trọng bộ
phận này. Khi chế tác đàn họ thường lưu ý đến vị
thế cũng như cung mệnh của người sử dụng nên
đầu cần đàn thường là những hình hoa sen, song
mã, con phượng, đầu rồng, mũ Phật.... Nhưng phần
lớn là hình đầu rồng. Thân đàn tuy nhỏ nhưng lại
chứa đựng sự thay đổi, biến hóa khôn lường của
giai điệu, âm sắc, nhịp điệu... của cây đàn.
Đại hội đại biểu lần thứ VI (năm 1986) đánh
dấu sự đổi mới về văn hóa của Đảng. Tại Đại hội
này, bản phương hướng, nhiệm vụ cũng đã đề cập
rất rõ ràng về hoạt động văn hoá, văn nghệ. Đó là:
"Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được
nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hoá, văn
nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt
đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ
giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của
nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành
mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi"[2], đó
là: sự đổi mới tư duy, coi văn hóa là nền tảng tinh
thần, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
của Ban chấp hành Trung ương Đảng đề cập đến vấn
đề "Cải tiến chính sách đối với người làm công tác
nghệ thuật" và “xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” năm 1998
thì hoạt động truyền dạy tính tẩu và hát Then ở Việt
Bắc nói chung và ở Tuyên Quang nói riêng mới thực
sự đi vào cuộc sống của người dân.
Quan niệm của thầy Then về sự linh thiêng của
tính tẩu cho thấy được giá trị, cấp bậc, sự tôn
nghiêm của thầy Then đối với nghề khi sử dụng cây
đàn dẫn âm binh đến Tam giới. Người Tày cho
rằng: Tiếng đàn "là linh hồn của thầy Then, là lời
cẩn báo của thầy Then tới các cửa thần thành ở các
mường khi thầy dẫn quân âm binh âm tướng đa, lễ
vật đi dâng hiến" [3,tr,73]. Căn cứ vào cấp bậc, hay
dòng Then mà họ có những yêu cầu về chế tác đầu
đàn khác nhau để thể hiện quyền uy của họ trong xã
hội. Với nghệ nhân, đó vừa là quy định về hình
tượng nhưng là cơ hội họ được thỏa trí sáng tạo và
thỏa mãn mong muốn thể hiện bản thân thông qua
cây đàn.
2.2.2.Tính tẩu trong đời sống văn nghệ người
Tày Tuyên Quang
“Then văn nghệ” là những bài hát mới dựa trên
làn điệu của các bài Then cổ được sáng tác từ tự
phát đến chuyên nghiệp; biểu diễn trên sân khấu
cùng các loại hình nghệ thuật khác để phục vụ nhu
cầu biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật của người
Tày dưới nhiều hình thức khác nhau. Đi kèm với
“Hát Then” là cây tính tẩu - nhạc cụ đệm cho lời
hát. Vì vậy nói đến “Then văn nghệ” là nói đến
nghệ thuật trình diễn hát Then – tính tẩu được khai
thác chất liệu từ nghệ thuật diễn xướng trong Then
nghi lễ. Từ đó hát “Then văn nghệ” cùng tính tẩu
có mặt khắp nơi để phục vụ nhu cầu thưởng thức
nghệ thuật của người Tày và nhân dân dưới nhiều
hình thức biểu diễn.
Có thể thấy, trong Then văn nghệ, tính tẩu vừa
đệm cho lời Then, vừa dần ứng dụng vào các hình
thức trình diễn, như: Là nhạc cụ độc tấu, hòa tấu,
hòa tấu với các nhạc cụ khác. Điều này cho thấy,
bản thân tính tẩu ngoài không gian trình diễn nghi
lễ còn được dùng linh hoạt trong sinh hoạt văn hóa
đời thường.
Từ năm 2002, các nội dung liên quan đến bảo
tồn văn hóa các dân tộc nói chung được Lãnh đạo
tỉnh và Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch hết sức
quan tâm. Các hoạt động bảo vệ tính tẩu cùng hát
Then của người Tày được đẩy mạnh, từ việc phát
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
động các phong trào ca hát, giữ gìn bản sắc văn hóa
giúp cho nhiều người hiểu biết thêm về yếu tố tín
ngưỡng trong nghi lễ Then người Tày.
dân tộc đến Liên hoan hát then – đàn tính toàn
quốc. Hoạt động này đã thu hút được sự quan tâm
và tham gia của đông đảo của người dân. Những
người có đóng góp tích cực cho Hát Then và cũng
được gọi là Nghệ nhân, trong đó có cả các nghệ
nhân Then nghi lễ. Từ các trích đoạn Then nghi lễ
cùng với tính tẩu của các thầy Then ở các địa
phương dần được thoát khỏi không gian diễn xướng
diễn xướng nhà sàn và đưa lên sân khấu, trong đó
có sự tham gia đóng góp của các thầy Then, từ đó
Người có đóng góp tích cực cho phong trào đưa
tính tẩu ra cộng đồng ở giai đoạn này là của cố
Nghệ nhân dân gian Hà Phan và em trai là Nghệ
nhân Nhân dân Hà Thuấn. Đặc biệt là Nghệ nhân
Nhân dân Hà Thuấn, người đã bỏ nhiều công sức
sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn các bài Then cổ
để truyền dạy. Bên cạnh đó ông còn sáng tác
nhiều bài Then mới gắn liền với các phong trào
lao động sản xuất cũng như ca ngợi Bác Hồ, quê
hương, đất nước.
Nghệ nhân Nhân dân Hà Thuấn truyền dạy hát then
Từ truyền dạy tự nguyện tại địa phương, dần
dần đã lan rộng khắp các xã trên địa bàn huyện
Chiêm Hóa. Dần dần đã có nhiều người nghe, yêu
thích và theo học. Hiện nay ở Tuyên Quang nghệ
nhân biết hát Then và sử dụng tính tẩu rất đa dạng
thành phần và độ tuổi, nghề nghiệp: Người già,
người trẻ, người lao động, người trí thức, lao động
tự do, người đã nghỉ chế độ, nghệ nhân kiêm thầy
Then,... Tuy nhiên về cơ bản thì gồm hai nhóm:
Nghệ nhân tính tẩu chuyên hát Then văn nghệ và
nghệ nhân tính tẩu Then văn nghệ kiêm thầy Then.
Nông Quốc Vạn, Nguyễn Thị Hiếu, Nguyễn Thị
Cánh, Hoàng Văn Sơn, Ma Văn Chủ, Bùi Thị Thu
Hồng, Dương Văn Quyền, Ma Đức Hiền, Phúc
Thị Xuyên, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Chung,
Ma Thị Lan,... Họ là những hạt nhân phong trào
hát Then cùng tính tẩu tại địa phương, cơ sở,
trường học.
Hát Then lan rộng tác động không nhỏ tới nhu
cầu sử dụng tính tẩu. Việc chế tác đàn từ thủ công,
phụ thuộc vào tài hoa của người nghệ nhân, hạn chế
đàn phục vụ nhu cầu sử dụng đàn. Có người đam
mê công việc chế tác đàn mà đã dành nhiều tâm
huyết cho việc sưu tầm nguyên liệu để làm ra
những cây đàn phục vụ các thầy Then. Từ những
cây đàn thô sơ, thẩm mĩ người làm đàn dần định
hình rõ ràng về chất lượng âm thanh của bầu đàn,
yêu cầu về độ dài của cần đàn, dây đàn, màu sắc
cây đàn,... Tuy nhiên, với cách thức thủ công thì
đàn làm ra cũng chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của các
thầy Then sống trong khu vực. Đặc biệt là hiệu quả
kinh tế đem lại cũng không cao làm đàn mất quá
nhiều công sức và đối tượng phục vụ không có
nhiều.
Nghệ nhân tính tẩu chuyên hát Then văn nghệ ở
Tuyên Quang hiện nay chiếm số lượng lớn so với nghệ
nhân tính tẩu của Then nghi lễ. Họ chủ yếu là những
người có năng khiếu âm nhạc, say mê hát Then – tính
tẩu, trưởng thành trong phong trào văn nghệ quần chúng
ở địa phương. Phần đông nghệ nhân tham gia đều
biết sử dụng đàn và hát. Tuy nhiên cũng còn một số
ít nghệ nhân vì yêu nghệ thuật hát Then mà tham
gia, mặc dù chỉ thích hát hoặc không có khả năng
hát, chỉ đến để chơi đàn, đệm đàn cho người hát. Có
thể điểm qua các nghệ nhân văn nghệ như: Thàm
Ngọc Kiến, Tạ Văn Thư, Chu Văn Thạch, Hà Đức
Khám, Lý Thị Ngoan, Hoàng Ngọc Huyên, Hoàng
Văn Thuận, Đàm Thị Hiền, Đinh Thị Minh An,
Ngày nay, có sự hỗ trợ của máy móc, đồ dùng
đa dạng, đàn làm ra được nhiều hơn để phục vụ
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
đông đảo người dân. Quy trình chế tác tính tẩu
lên dây, đảm bảo độ cao thấp, quy luật lên dây đàn của
tính tẩu theo quãng 4, quãng 5. Gần đây nhất, Nghệ
nhân Chu Văn Thạch cũng đã chế tác ra cây đàn 6
dây. Anh cho biết: “Làm đàn bên cạnh việc mưu sinh
còn là đam mê và thỏa mãn trí tưởng tượng, sự sáng
tạo của bản thân”‡.
thuận tiện, nhanh chóng, đẹp mắt, chất lượng hơn
rất nhiều. Từ dao gọt, máy gọt, máy cắt, máy bào,
bào, máy ép, mẫu mã, nguyên liệu dán,... đều sản
xuất có quy trình. Việc trồng và hãm cho những
quả bầu vừa già, vừa tròn đẹp, đều nhau và có được
nhiều bầu cùng một thời gian làm nguyên liệu làm
đàn. Việc bỏ ruột và làm khô quả bầu cũng được
đồng loạt. Để có được màu đẹp, các nghệ nhân
dùng Véc-ni để đánh bóng bầu đàn, thân đàn, trục
đàn, ngựa đàn. Việc làm cho trục đàn thẳng, các
thân cây được dùng máy để ép nên đảm bảo thân
đàn thẳng, theo ý muốn và không mất quá nhiều
thời gian, có thể ép một loạt nhiều thân đàn có cùng
nguyên liệu, hình dáng, kích cỡ. Trong số các nghệ
nhân mở xưởng làm đàn có Nghệ nhân Nhân dân
Hà Thuấn là cơ sở đầu tiên chế tác đàn phục vụ
nhân dân. Ông là người đâu tiên làm ra cây đàn từ
các nguyên liệu sẵn có xung quanh nơi ở, không
cầu kỳ. Lúc đầu các công đoạn đều là chế tác thủ
công, sau ông cũng có những đồ cắt, xén hỗ trợ
nhưng chủ yếu vẫn là gọt, giũa thủ công.
Sau khi Then văn nghệ lan rộng khắp trong đời
sống người Tày thì việc sử dụng tính tẩu đệm cho
hát cũng phát triển; các kỹ thuật đàn cũng được
những nghệ nhân Then mới chú trọng. Từ nhu cầu
nâng cao chất lượng biểu diễn thì bên cạnh lời Then
mượt mà, người đệm đàn chú trọng hơn tới kỹ thuật
cho âm thanh chau chuốt hơn; việc dạy đàn cũng
được các nghệ nhân chú ý tới cách thức truyền dạy,
có bài bản, thống nhất từ cách gảy thể hiện phách
mạnh hoặc phần mạnh của phách để tạo sắc thái,
cường độ trong khi trình bày.
Do có nhiều người biết sử dụng đàn nên cũng có
nhiều người tham gia trình tấu, dần dần đã có nghệ
nhân sáng tác tác phẩm riêng cho tính tẩu độc tấu
và hòa tấu. Tính tẩu 12 có âm vực rộng nên chỉ
dùng để trình diễn độc tấu hoặc làm phần đệm cho
hát Then hoặc hòa tấu. Biến đổi Then đã dần làm
cho diễn tấu tính tẩu thay đổi.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang có các
cơ sở làm tính tẩu của các nghệ nhân như: Nghệ
nhân Thàm Ngọc Kiến (Thành phố Tuyên Quang),
Nghệ nhân Chu Văn Thạch (Chiêm Hóa), Nghệ
nhân Tạ Văn Thư (Chiêm Hóa), Nghệ nhân Hà Đức
Khám (Chiêm Hóa), Hoàng Văn Thuận (Na Hang).
Những cơ sở chế tác đàn này không những làm ra
những cây đàn chất lượng phục vụ nhân dân Tuyên
Quang mà còn đáp ứng được yêu cầu trong đào tạo
ở các cơ sở đào tạo và biểu diễn trên sân khấu
chuyên nghiệp
Then Tày cùng tính tẩu trong nghi lễ truyền
thống người Tày là phương thức cố kết cộng đồng
trong địa bàn họ sinh sống. Ngày nay, Then văn
nghệ nó được thực hiện ở nhiều loại hình sân khấu
khác nhau, tuy không kêu gọi sự gắn kết nhưng âm
nhạc Then dù ở đâu cũng có sức hút mãnh liệt với
người Tày. Họ tìm đến với nhau để chia sẻ và cộng
cảm qua câu hát “ới la” và điệu tính tẩu. Từ hình
ảnh tính tẩu mà người dân ở khắp mọi miền đất
nước và nay là ra cả thế giới đều nhận biết được sự
tồn tại của người Tày qua tính tẩu. Đó chính là một
thành công sau quá trình “văn nghệ hóa” và “cải
tiến văn hóa” Then Tày nói chung và Then Tày ở
Tuyên Quang nói riêng.
Cấu tạo của tính tẩu trong Then nghi lễ hay
Then văn nghệ không có gì khác biệt. Vì mục đích
sử dụng không giống nhau nên khi chế tác tính tẩu
phục vụ cho Then văn nghệ, việc lựa chọn nguyên
liệu không cầu kỳ như Then nghi lễ. Việc tính tẩu
là nhạc cụ phổ thông nên nguyên liệu làm đàn cũng
thường đơn giản, như: cần đàn bằng thân cây gỗ
nghiến xẻ, mặt đàn bằng gỗ ép, ngựa đàn cũng có
khi là miếng nhựa nhỏ, các loại keo gắn thay thế
cho sơn để dính các bộ phận lại với nhau,... Đặc
biệt là đầu đàn thường trang trí đơn giản như hình
hoa chuối, cỏ cây hoa lá chứ không chú ý các biểu
tượng tín ngưỡng liên quan đến Then nghi lễ. Chính
vì vậy mà sản xuất tính tẩu thường đại trà, giá rẻ,
đáp ứng nhu cầu mua đàn cho mỗi cá nhân đến học.
Bên cạnh đó, tính tẩu người Tày Tuyên Quang
còn gắn liền với các hình ảnh quảng bá cho các
điểm tham quan du lịch ở Tuyên Quang, như: du
lịch văn hóa huyện Lâm Bình và Na Hang với hình
ảnh lòng hồ thủy điện Na Hang và những chàng
trai, cô gái Tày cùng đàn và hát; Du lịch Thác Bản
Ba (xã Trung Hà, huyện Chiêm Hóa) với hình ảnh
các chàng trai, cô gái ngồi bên các ghềnh đá, bên
thác cùng đàn và hát,…; Đặc biệt ở khu du lịch Tân
Trào, hình ảnh các chàng trai chèo thuyền mảng,
các cô gái Tày vừa đàn vừa hát trên hồ Khuôn Pén
(xã Tân Trào, huyện Sơn Dương) là những hình ảnh
Ngoài việc chế tác ra những cây đàn 2 dây và 3
dây, Nghệ nhân Thàm Ngọc Kiến và Nghệ nhân Chu
Văn Thạch đã nghiên cứu làm được cây tính tẩu 12
dây để khẳng định truyền thuyết tính tẩu có 12 dây là
thật. Tính tẩu 12 dây làm rất khó, đặc biệt là việc luồn
đưa 12 dây qua một lỗ âm rồi mới bắt vào ngựa đàn để
‡ PV ngày 11 tháng 2 năm 2019 tại Thị trấn Vĩnh lộc,
huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
N.T.T.Thao/ No.20_Mar 2021|p.37-46
thu hút được sự quan tâm của rất nhiều người trong
và ngoài nước đến với du lịch Tuyên Quang.
Hiện nay, công tác quản lý văn hóa đã và đang
khắc phục những hạn chế cũ; xã hội phát triển, chịu
tác động mạnh của kinh tế thị trường và những đổi
mới trong “chiến lược phát triển” con người nông
thôn miền núi,... mà các nghi lễ tín ngưỡng được
hồi sinh, tạo nên một diện mạo văn hóa mới trong
cuộc sống của người dân, đặc biệt là các cộng đồng
sinh sống ở khu vực miền núi, trong đó có tộc
người Tày Tuyên Quang. Từ việc nhận thức tiến bộ
đã hướng các tộc người sinh sống trên địa bàn tỉnh
cùng tham gia vào hoạt động văn hóa cộng đồng,
nhằm hướng tới một mục đích chung là: Duy trì,
bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống. Người Tày sinh sống trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang cũng đang tích cực tham gia cùng các hoạt
động đó để bảo tồn những giá trị văn hóa của mình
và phát triển văn hóa nơi đây./.
Tính tẩu của người Tày vừa là hình ảnh quảng
bá, vừa là một nội dung thu hút du lịch thông qua
chương trình văn nghệ cộng đồng tại điểm du lịch
của mỗi địa phương. Các chương trình văn nghệ địa
phương tuy có sự đa dạng về các nội dung nhưng
điểm nổi trội hơn cả vẫn là pano hình ảnh cô gái
Tày với tính tẩu như là hình ảnh đại diện cho văn
hóa người Tày Tuyên Quang. Tính tẩu dần trở
thành một phương tiện sinh kế cho bà con nơi đây.
Có thể thấy, tính tẩu đã tách ra khỏi nghi lễ tín
ngưỡng và được các nghệ nhân trình diễn qua các
không gian khác nhau. Từ là nhạc cụ đệm trong
nghi lễ Then, tính tẩu đã được biết đến như một
nhạc cụ phổ biến đệm cho Then mới. Đặc biệt, nhờ
có công nghệ 4.0 mà tính tẩu đã dần có mặt ở khắp
mọi nơi và được xã hội nhìn nhận là một đại diện
tiêu biểu trong văn hóa người Tày.
REFERENCES
1. Department of Statistics of Tuyen Quang
province (2019), Report on population data to 2019
of the Statistical Office of Tuyen Quang province,
Tuyen Quang
3. Kết luận
2. Communist Party of Vietnam Documents of
Congress Party VI, VII, VIII, IX, X, XI, Communist
Party
3. National Academy of Music - Institute of
Music and Music (2018), Sing Then of the Tay,
Nung, Thai Vietnam - Book 1, National Culture
Publishing House, Hanoi;
4. Hoang Phuong Mai (2019), Surveying the text
of Nôm Tay poems (currently stored at the Han-
Nom Research Institute), Science Publishing
House, Hanoi;
5. Tran Quoc Vuong (2002), History of
Vietnamese Culture, National University, Hanoi;
6. Nguyen Thi Yen (2004), Some forms of folk
beliefs of the Tay, Nung Vietnamese and Chinese
Choang, Journal of Ethnology, (4), pp.12-23;
7. Nguyen Thi Yen (2006), Then Tay, Social
Science Publishing House, Hanoi;
Người Tày có mặt cùng với sự phát triển của
lịch sử Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Ngày nay, người Tày cư trú không chỉ rộng
khắp khu vực Đông Bắc tổ quốc mà còn phát triển
dân số và văn hóa ở khu vực phía Nam Việt Nam.
Việc thiên di và lan tỏa văn hóa đã làm cho văn hóa
người Tày càng ngày càng đa dạng về màu sắc
nhưng không đánh mất đi sắc thái đặc trưng của
dân tộc mình, đó là: Ngôn ngữ, nhà ở, chữ viết,
trang phục, ca hát,... đặc biệt là tín ngưỡng của
mình. Tín ngưỡng của người Tày thường được nhắc
đến cùng nghi lễ Then, trong đó tính tẩu với vai trò
là một nhạc cụ không thể thiếu khi thực hành tín
ngưỡng và trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật đời
thường của họ.
Tính tẩu cùng phong trào Then văn nghệ ở
Tuyên Quang hiện nay rất chủ động, tích cực và
sáng tạo. Điều này được khẳng định bằng tinh thần
yêu thích nghệ thuật Hát Then và tính tẩu của cộng
đồng người Tày. Từ phong trào giữ gìn, bảo tồn,
trao truyền phục vụ cộng đồng thì tính tẩu và các
bài Then văn nghệ đã trở thành một phương tiện
sinh kế cho cộng đồng. Điều này hoàn toàn sáng tạo
tự nhiên, tự nguyện khi du lịch văn hóa địa phương
phát triển. Đây là một hướng phát triển hoàn toàn
đúng đắn về du lịch, đồng thời vừa đảm bảo được
môi trường giữ gìn, sáng tạo văn hóa truyền thống
của người Tày nơi đây.
8. Nguyen Thi Yen (2009), Tay - Nung folk
beliefs, Social Science Publishing House, Hanoi;
Bạn đang xem tài liệu "Đôi nét về tính tẩu của người Tày Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- doi_net_ve_tinh_tau_cua_nguoi_tay_tuyen_quang.pdf