Văn hóa hàng ngày với việc kiến tạo và tái kiến tạo bản sắc văn hóa Tây Nam Bộ
38
CHUYÊN MỤC
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO VÀ TÁI
KIẾN TẠO BẢN SẮC VĂN HÓA TÂY NAM Bộ
TRẦN THỊ AN*
Văn hóa – lớp vỏ biểu đạt này đã và đang mang nhiều cái được biểu đạt. Sự
phong phú không chỉ thể hiện ở số lượng vài trăm định nghĩa về nó trên thế giới
mà còn thể hiện ở sự khác biệt trong các lằn ranh quan niệm về nó, từ đó, dẫn
đến những định hướng nghiên cứu khác nhau, những định hướng chính sách
khác nhau gây nên không ít hệ lụy xã hội.
Bài viết này sẽ sử dụng lý thuyết “văn hóa hàng ngày” (everyday culture) vốn đã
được đề xuất từ lâu trong nghiên cứu văn hóa trên thế giới nhưng mới được
quan tâm gần đây ở Việt Nam nhằm tìm hiểu việc kiến tạo và tái kiến tạo bản
sắc văn hóa Tây Nam Bộ, từ đó làm rõ hơn tính biến đổi và tính đa dạng trong
văn hóa vùng Tây Nam Bộ hiện nay.
Từ khóa: văn hóa hàng ngày, bản sắc, không gian văn hóa, văn hóa sông nước,
chợ nổi, đờn ca tài tử
Nhận bài ngày: 29/11/2020; đưa vào biên tập: 29/11/2020; phản biện: 29/11/2020;
duyệt đăng: 3/11/2020
1. LÝ THUYẾT VĂN HÓA HÀNG NGÀY
Raymond Henry Williams (1958: 54) cho
rằng, cần phải hiểu văn hóa theo hai
khía cạnh, một là toàn bộ đời sống
theo cách hiểu thông thường nhất (a
whole way of life - the common meanings)
và hai là những quá trình đặc biệt của
khám phá và hiệu quả của sáng tạo
(the special processes of discovery and
creative efford). Bài viết của ông về sau
tạo nên một hướng lý thuyết trong
nghiên cứu văn hóa, đó là lý thuyết về
văn hóa hàng ngày (everyday culture).
Quan điểm coi văn hóa là cái thường
ngày được bắt đầu từ bài viết Culture
is Ordinary công bố năm 1958 của
Raymond Henry Williams (1921-1988).
Từ trải nghiệm, R. Williams nhận ra
bên cạnh văn hóa được coi là những
gì tinh túy, cao cấp còn tồn tại một thứ
văn hóa của đời sống bình thường.
* Đại học Quốc gia Hà Nội.
39
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
Quan điểm lý thuyết văn hóa hàng gọi khác như : miền Tây Nam Phần,
ngày đã được nhiều tác giả phát triển miền Tây, châu thổ sông Mê Kông,
thêm, một trong số đó là cuốn Đồng bằng sông Cửu Long.
Everyday Life and Cultural theory: An
Introduction của Ben Highmore, đây
cũng chꢀnh là khung lý thuyết được sử
dụng để phân tích trong bài viết này.
Ben Highmore (2001: 1-16) cho rằng:
cuộc sống hàng ngày là những hành
động sự lặp đi lặp lại (most repeated
actions), nghĩa của nó không ngừng
được tạo thêm ra bởi việc làm quen
thuộc những thứ mới mẻ. Ba bước
của quá trình này gồm: i) văn hóa
hàng ngày khi quen thuộc đủ sẽ kiến
tạo nên bản sắc, ii) khi nhận được yếu
tố mới thì sẽ tạo nên những biến đổi,
iii) khi cái mới đã trở nên quen thuộc
nghĩa là bản sắc được tái kiến tạo.
Về đặc điểm tự nhiên, Lê Bá Thảo
(2001: 254) xem Tây Nam Bộ là “một
vꢁng đồng bằng mênh mông”, với
“những dòng sông bờ xa tít tắp”, là
vꢁng “nửa đất nửa nước”. Đây cũng
chꢀnh là vꢁng đất nhiều kênh rạch lâu
đời mà “các cuộc khai quật từ thời L.
Malleret (1944) đã tìm thấy dấu tích
khoảng 30 „đường nước cổ‟ là các
kênh đào ngang dọc ở vùng thấp
trũng tứ giác Long xuyên” vào thời Óc
Eo (Nguyễn Thị Hậu, 2017).
Từ góc độ lịch sử, các tài liệu sử học
đã khẳng định bằng việc thành lập
phủ Gia Định vào năm 1678, các chúa
Nguyễn đã xác lập chủ quyền trên
vꢁng đất Tây Nam Bộ, phát triển vùng
đất Tây Nam Bộ thành một vꢁng đất
Sử dụng lý thuyết “văn hóa hàng
ngày” làm khung phân tꢀch, bài viết
này xem những hình ảnh của văn hóa trù phú. Trong đó, việc nạo vét kênh
hàng ngày chꢀnh là đời sống văn hóa cũ, đào kênh mới, xây dựng các công
trình tiêu nước được tiến hành trong
nhiều thế kỷ nhằm phục vụ nông
nghiệp trồng lúa (Trần Đức Cường,
2014: 593-594).
ở các lát cắt thời gian; đặt các lát cắt
đó so sánh, ta có thể nhận diện sự
biến đổi của văn hóa, và ở đó, các
khía cạnh bản sắc luôn được kiến tạo,
kết tinh, rồi biến đổi và tái kiến tạo.
Từ góc độ “vꢁng văn hóa”, Tây Nam
Bộ có khi được được nhận diện là một
“tiểu vꢁng” trong vꢁng văn hóa Nam
Bộ (Ngô Đức Thịnh, 2004: 269), và rồi
được coi là một vꢁng (Đinh Thị Dung,
2011; Trần Ngọc Thêm, 2014; Nguyễn
Ngọc Thơ, 2017) với những đặc trưng
riêng biệt.
2. THỰC HÀNH VĂN HÓA HÀNG
NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO MỘT
KHÔNG GIAN VĂN HÓA ĐẶC SẮC
TÂY NAM BỘ
2.1. Văn hóa Tây Nam Bộ: vùng hay
tiểu vùng?
Tây Nam Bộ là tên gọi chỉ một vùng
2.2. Nhận diện đặc trưng văn hóa
vùng Tây Nam Bộ
đâ
́t nằm ơ phia tây cua Nam Bộ , Viêṭ
́
̉ ̉
Nam. Nơi đo có những nét đặc trưng
́
riêng về không gian, lịch sử và văn Về đặc trưng văn hóa, vꢁng Tây Nam
hóa vꢁng. Vùng đât này có nhiều tên Bộ được nhận diện là vꢁng “văn hóa
́
40
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
sông nước”, “văn hóa kênh rạch”, “văn Trong công trình Văn minh sông nước
hóa miệt vườn” (Sơn Nam, 1992: 11; miền Nam – các suy tưởng về ý niệm
Bourdeaux, 2009). Về tính chất đặc „văn minh sông nước‟ và về lịch sử
trưng của vꢁng văn hóa này, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, đặc điểm
của vꢁng đất là thể hiện tập trung ở
“tꢀnh mới” và “tꢀnh giao lưu” (Ngô Đức
Thịnh, 2004: 269; Lê Bá Thảo, 2001:
254; Sơn Nam, 1992: 11) và các hiện
thể văn hóa cũng như bản sắc của nó
đều gắn với tính mới này mà ra. Nhà
Nam Bộ học Sơn Nam trong công
trình Văn minh miệt vườn, sau khi thể
hiện thái độ với các các nhà nghiên
cứu khác quan niệm Nam Phần là
vꢁng đất “lai căng”, “tạp nhạp”, không
có di tích hay phong tục lâu đời,
không thể so sánh với Trung Phần và
Bắc Phần thì đã đề nghị một hướng
nghiên cứu đặc điểm của vꢁng đất, cá
tính của con người Nam Phần để
nhận diện những nét đặc sắc của con
người và vꢁng đất này. Không khó
nhận ra trong lập luận của Sơn Nam
sự xuất hiện 2 quan điểm về văn hóa:
văn hóa là cái ổn định, tinh túy, giá trị
và văn hóa là cái sống động đang diễn
ra hàng ngày như lý thuyết “văn hóa là
cái thường ngày” của R. Williams đã
nhắc tới ở trên. Từ những dữ liệu của
Sơn Nam về vꢁng đất Tây Nam Bộ
trong các công trình của ông, sẽ thấy
hiện ra một vꢁng đất chẳng những là
sinh động, độc đáo mà còn là vꢁng
đất có sức mạnh thu hút và hòa đồng
châu thổ sông Cửu Long nhìn qua một
vài khía cạnh của cuộc định cư tại xã
Sóc Sơn (1920-1945) Pascal Bourdeaux
(2009) đã cung cấp những dữ liệu làm
hiện thể một bức tranh sinh động và
muôn màu về đời sống của các tộc
người ở Tây Nam Bộ. Bằng việc khảo
sát một số cư dân đầu tiên định cư
bên bờ con kênh Rạch Giá - Hà Tiên
(được đào giữa các năm 1926 và
1930) và những đoạn kênh nhỏ lấy
nước từ kênh lớn này ở Tri Tôn giữa
các năm 1927 và 1942, P. Bourdeaux
đã tái hiện “phong trào di dân” từ thế
kỷ XVII của những người Việt tiên
phong vào Tây Nam Bộ. Phân tích các
nguồn tư liệu, P. Bourdeaux đã mô tả
quá trình tiếp cận và thích nghi khá
nhọc nhằn của những di dân người
Việt trên vꢁng đất mới, và bằng việc
sử dụng “các quan hệ liên văn hóa”
với nông dân Tây Nam Bộ, người Việt
đã góp phần sáng tạo nên “văn hóa
sông nước” ở vꢁng đất này. Chính
trong quá trình đó vừa thꢀch nghi để
sinh tồn vừa giữ gìn bản sắc của cố
hương, các cộng đồng dân cư ở Tây
Nam Bộ sáng tạo nên một kiểu văn
hóa mới. Trong Văn minh miệt vườn,
Sơn Nam cũng dẫn lời của nhà văn
Dương Nghiễm Mậu để cho rằng,
người miền Tây có một lối ứng xử của
một “trật tự hồn nhiên”, “không hình
thức lễ nghi”; Sơn Nam (1992: 14)
cũng dẫn thêm Trương Vĩnh Ký nhận
định về ngôn ngữ của người miền Tây
vơi các nền văn hóa khác để tạo nên
́
một bản sắc văn hóa Tây Nam Bộ.
Tây Nam Bộ còn được biết đến là một
vꢁng đất thu hút nhiều dòng di dân.
41
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
là nói và viết đều sử dụng “tiếng An bản sắc văn hóa của một vꢁng đất
mới. Bản sắc này được hình thành
trên một tiểu vꢁng văn hóa có đặc
điểm là một “không gian địa lý liền kề”
(Đinh Thị Dung, 2011) mà tính mới
của nó thể hiện ở “quần cư theo
tuyến” (Lê Bá Thảo, 2001: 254), được
nhận diện bởi đặc điểm “giao lưu sống
động”, “quan hệ cá nhân mạnh hơn
quan hệ cộng đồng huyết thống”, là
mảnh đất “xuất hiện nhiều tôn giáo
mới” (Ngô Đức Thịnh, 2004: 265-291).
Sự thừa nhận 2 đặc điểm chung của
văn hóa miền Tây ở “tꢀnh mới”, “tꢀnh
giao lưu” ở nhiều công trình nghiên
cứu về Tây Nam Bộ vừa cho thấy tính
thống nhất cao của các nhà nghiên
cứu nhưng cũng cho thấy sự chững
lại trong nhận định, và trong một
chừng mực nào đó, mới thể hiện một
cái nhìn tĩnh tại và đơn giản hóa về
không gian văn hóa và chủ thể văn
hóa của vꢁng văn hóa này.
Nam ròng” với ý thức “chống lối văn
đài các miền Bắc”.
Quá trình xung đột - dung hòa diễn ra
trên vꢁng đất Tây Nam Bộ cũng là sự
minh chứng cho quan điểm lý thuyết
về sự hiện hữu của văn hóa hàng ngày,
ở đó, việc quen thuộc hóa những
nhân tố xa lạ là một quá trình thường
xuyên, liên tục, ở đó, “cái không
thường ngày (cái đặc biệt) ở đó được
tìm thấy trong trái tim của hàng ngày”
[The non-everyday (the exceptional) is
there to be found in the heart of the
everyday], và lối quan sát “nhân học
phổ biến làm cho các thực hành hàng
ngày của các nền văn hóa khác cꢁng
một lúc vừa xa lạ vừa thuần thục”
(Popular anthropology renders the
daily practices of other cultures as at
once both strange and mastered)
(Highmore, 2001: 3, 4).
Văn hóa luôn luôn biến đổi. Sau 300
năm biến đổi để thích ứng, hội nhập
để giữ gìn bản sắc của từng tộc người
ở Tây Nam Bộ, nếu nói đặc trưng văn
hóa vùng Tây Nam Bộ là “mới” e là
chưa đủ; đồng thời, nếu coi tính chất
“giao lưu” như là nét đặc trưng của
vꢁng văn hóa này thì ở bối cảnh toàn
cầu hóa đặc điểm này không chỉ dành
cho vꢁng đất Tây Nam Bộ.
Về không gian văn hóa, P. Bourdeaux
(2009) cho rằng, châu thổ sông Mê
Kông là một danh xưng đa nghĩa bao
hàm trong nó một sự phong phú về
cảnh quan thiên nhiên và sự đa dạng
của môi trường xã hội bao gồm “nhiều
góc cạnh khác nhau về chủng tộc, các
ranh giới hành chính gần đây và quá
khứ, các đức tin tôn giáo và các sự
hành đạo, các biến cố lịch sử, cách
sống”, khiến cho “châu thổ sông Mê
Kông khác xa với một đồng bằng
buồn bã và đơn điệu, mà ngược lại, là
một không gian thực sự biến hóa”.
2.3. Đi tìm tên gọi bản sắc văn hóa
vùng Tây Nam Bộ
Những tư liệu hồi cố và thư tịch cách
đây hàng trăm năm cho thấy quá trình
thích nghi, hòa nhập của người Việt
với văn hóa Tây Nam Bộ; và đến lượt
mình, họ đã góp phần kiến tạo nên
Về tính chất của văn hóa Tây Nam Bộ,
được gợi ý từ các công trình của Sơn
42
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
Nam, thông qua cách người Tây Nam viết này thử phác họa một số nét của
Bộ gọi tên vꢁng đất của mình, Pascal văn hóa thường ngày từ một vài khía
Bourdeaux đi đến một nhận xét thú vị: cạnh để bước đầu nhận diện sự tái
“Các cách nói và các thành ngữ địa kiến tạo bản sắc văn hóa vꢁng Tây
phương này – đôi khi – cho phép xác Nam Bộ trong một không gian xã hội
định không gian châu thổ với các dấu đổi thay.
hiệu ranh giới biểu trưng, phát sinh từ
một văn hóa bình dân sống động”.
3.1. Chợ Nổi - sinh kế, văn hóa
thương hồ và di sản văn hóa phi
vật thể cấp Quốc gia
Như vậy, trải qua hơn 3 thế kỷ đầy
biến động, các chủ thể văn hóa, bằng
những thực hành văn hóa hàng ngày
thường xuyên, liên tục đã kiến tạo nên
một tiểu vꢁng văn hóa Tây Nam Bộ
đậm đà bản sắc. Các nét bản sắc
mang tính giá trị đó được kết tinh như
các nét vẽ được bổ sung qua thời
gian tạo nên một bức tranh đặc sắc
Tây Nam Bộ. Nhưng đó không phải là
một bức tranh ổn định và tĩnh tại, bởi
nó được dệt nên từ những hoạt động
sống động của cuộc sống hàng ngày.
Bức tranh ấy sẽ liên tục thay đổi theo
thời gian, dưới tác động của các nhân
tố chủ quan và khách quan mà mọi
mô tả về nó chỉ mang tính chính xác
tương đối trong những lát cắt đương
đại.
Từ một hoạt động sinh kế, chợ nổi đã
trở thành một nét văn hóa của cuộc
sống hàng ngày đặc trưng của vùng
Tây Nam Bộ. Hoạt động tấp nập trên
bến dưới thuyền, và hình ảnh các
ghe/thuyền chở đầy trái cây đã làm
nên một hình ảnh sinh động của miền
Tây không lẫn vào đâu được. Tư liệu
sử học cho biết, các trung tâm buôn
bán lớn dưới thời các chúa Nguyễn
như Cꢁ lao Phố (trên sông Đồng Nai),
Mỹ Tho trên sông Tiền, Hà Tiên bên
bờ vịnh Thái Lan được hình thành từ
thế kỷ XVII và hoạt động nhộn nhịp
vào thế kỷ XVIII (Trần Đức Cường,
2014: 149). Sách Gia Định thành
thông chí (2005, Q. 4 ) chép: “Ở Gia
Định chỗ nào cũng có ghe thuyền,
hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để
đi chợ, hay để đi thăm người thân,
hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện
lợi mà ghe thuyền đi lại chật sông suốt
ngày đêm nối đuôi nhau. Sách này
cũng đã chép về các khu chợ tấp nập
ở các ngã ba sông hoặc bên các sông
Long Hồ, sông Mỏ Cày, sông Cổ
Chiên, sông Sa Đéc, sông Cần Thơ,
sông Trà Ôn (Gia Định thành thông
chí, 2005, Q. 2). Như vậy, căn cứ vào
thời điểm Gia Định thành thông chí
3. THỰC HÀNH VĂN HÓA VÀ VIỆC
TÁI KIẾN TẠO BẢN SẮC TRONG
MỘT KHÔNG GIAN XÃ HỘI THAY
ĐỔI
Tây Nam Bộ là một vꢁng đất mới và
cũng là một vùng đất có một tốc độ
đổi thay nhanh. Sự biến đổi liên tục
của tự nhiên - xã hội - văn hóa qua
thời gian chắc chắn sẽ làm xô lệch
các nhận định về “đặc trưng” hay “bản
sắc” văn hóa Tây Nam Bộ vốn đã
được coi như những mặc định. Bài
43
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
hoàn thành (thời Gia Long, khoảng 2 lưới xã hội, tạo nên “đặc trưng văn
thập niên đầu thế kỷ XIX), có đoán
định thời điểm ra đời và hoạt động
nhộn nhịp của chợ nổi ở Tây Nam Bộ
là vào khoảng thế kỷ XVIII. Trong một
nghiên cứu về chợ nổi Cái Bè, Lâm
Nhân (2014: 250) cũng đã đồng tình
với nhận định này.
hóa độc đáo của hoạt động giao dịch
ở chợ nổi, được lưu truyền từ đời này
sang đời khác”. Các khái quát về
truyền thống văn hóa, đặc trưng văn
hóa của chợ nổi Tây Nam Bộ của hai
công trình nghiên cứu này đã tô đậm
thêm điểm nhấn về một nét đặc trưng
văn hóa sông nước Tây Nam Bộ từ
chợ nổi.
Hơn 300 năm thế sự nổi trôi, chợ nổi
gắn bó với con người và vꢁng đất Tây
Nam Bộ, ban đầu là một loại sinh kế,
dần dần trở thành một nét văn hóa
thương hồ của vꢁng sông nước miền
Tây đã góp phần kiến tạo bản sắc
“văn minh sông nước” của vꢁng đất
này. Các chợ nổi nổi tiếng như Cái Bè
(Tiền Giang), Cái Răng (Cần Thơ),
Phong Điền (Cần Thơ), Ngã Bảy
(Phụng Hiệp, Hậu Giang)… được biết
đến không chỉ ở phạm vi toàn quốc
mà còn với cả các du khách quốc tế.
Nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm
(2014: 458) về văn hóa của người Việt
ở Tây Nam Bộ cho biết, việc tận dụng
môi trường nước và nhu cầu trao đổi
hàng hóa của người Việt ở Tây Nam
Bộ đã hình thành nên một truyền
thống văn hóa, và chꢀnh truyền thống
văn hóa đó phát triển nghề thương hồ
và hệ thống chợ nổi, “một sự phát
triển không có gì ngăn cản được”.
Khảo sát chợ nổi Cái Bè về chủ thể,
nguồn hàng, mạng lưới mua bán và
mạng lưới gia đình/dòng họ trong hoạt
động buôn bán ở chợ nổi, nghiên cứu
của Lâm Nhân (2014: 250-263) cho
Tuy nhiên, trong dòng chảy nhanh của
cuộc sống, vào thập niên thứ 2 của
thế kỷ XXI, nhìn từ thực hành văn hóa
hàng ngày, chợ nổi như là một điểm
nhấn của “văn hóa sông nước” Tây
Nam Bộ đang đứng trước nguy cơ
mai một. Ngoại trừ chợ nổi Cái Răng
là một trường hợp đặc biệt còn giữ
chân được số ghe thuyền tới 300-400
chiếc mỗi ngày (AFP, 2017; Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Cần Thơ,
2020), hầu hết các chợ nổi còn lại của
Tây Nam Bộ bị rơi vào cảnh đìu hiu.
Chợ nổi Cái Bè vốn là một chợ trung
chuyển sầm uất thì nay chỉ còn vài
chục ghe thuyền hoạt động. Theo số
liệu điều tra của Lâm Nhân (2014: 268)
vào năm 2013 hay số liệu quan sát
của nhóm phóng viên Đồng bằng
sông Cửu Long năm 2017 đều cho
biết chỉ còn khoảng 30 ghe thuyền
hoạt động mỗi ngày (Phiên An, 2017).
Còn tại chợ Ngã Bảy - Phụng Hiệp,
theo quan sát của chúng tôi lúc 5 giờ
sáng ngày 21/8/2020, số thuyền ghe
chở trái cây và hàng hóa qua lại khúc
sông bến Ba Ngàn (địa điểm mới của
chợ nổi Ngã Bảy - Phụng Hiệp) chỉ
chưa đến 10 chiếc, hoạt động mua
biết, hoạt động này diễn ra dựa trên
cơ sở lòng tin giữa các thành viên của
cộng đồng và hình thành nên mạng
44
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
bán hầu như không diễn ra, khách đi nổi đi một địa điểm khác với chợ
chợ gần như không có (Tư liệu điền truyền thống cũng xảy ra đối với hầu
dã, 2020).
hết các chợ nổi từ cuối thế kỷ XX cho
đến hết thập niên đầu của thế kỷ XXI
ở chợ nổi Cà Mau (tỉnh Cà Mau), Cái
Răng (thành phố Cần Thơ), Châu Đốc
(tỉnh An Giang), Ngã Năm (tỉnh Sóc
Trăng), và đầu thế kỷ XXI với chợ Ngã
Bảy (tỉnh Hậu Giang), chợ Long
Xuyên (tỉnh An Giang), chợ Trà Ôn
(tỉnh Vĩnh Long), chợ Vĩnh Thuận (tỉnh
Kiên Giang), chợ Cái Nước (tỉnh Cà
Mau). Phân tích từ góc độ người mua
(khoảng cách từ nơi cư trú đến chợ
xa), người bán (mất vị trí quen thuộc,
xáo trộn bạn hàng), Nguyễn Trọng
Nhân 2018: 34-37) cho rằng, việc dời
chợ có thể giải quyết được vấn đề hệ
sinh thái nhưng lại gây ra một hệ lụy
nhân văn rất lớn, khiến cho các chợ
nổi có nguy cơ biến mất. Các nghiên
cứu cho thấy, yếu tố địa lý để hình
thành chợ nổi gồm: i) nơi giao nhau
của các con sông (ngã ba, ngã bảy), ii)
khoảng tương đối rộng, iii) nước
không quá sâu và cũng không quá
nông để có thể neo đậu khi nước lớn
và không mắc cạn khi nước ròng
(Trần Ngọc Thêm, 2013: 448). Trải
Tình trạng mai một rõ nét của chợ Cái
Bè, chợ Phụng Hiệp và các chợ nổi
khác ở Tây Nam Bộ xuất phát từ
nguyên nhân đầu tiên là do giao thông
đường bộ ở Tây Nam Bộ phát triển
trong vài thập niên trơ laị đây . Các
̉
sản phẩm chủ lực của Đồng bằng
sông Cửu Long như trái cây, lúa gạo,
thủy sản được thương lái tiếp cận tại
nơi sản xuất, đưa thẳng về chủ vựa.
Tuy nhiên, còn một nguyên nhân khác,
đến sớm hơn và tác động mạnh hơn,
đó là việc chuyển chợ nổi khỏi địa
điểm truyền thống để tránh ách tắc
giao thông và giảm nguy cơ ô nhiễm.
Chợ nổi Phụng Hiệp được dời từ Ngã
Bảy xuống kênh Ba Ngàn, một đoạn
ngã ba sông cách đó chừng 3 cây số.
Trên bờ chợ nổi Ngã Bảy nức tiếng
một thời hiện chỉ còn mô hình chiếc
ghe lớn, du khách có thể mang cà phê
của quán bên cạnh lên đó uống để
ngắm cảnh dòng sông Ngã Bảy nay
đã thực sự thông thoáng vì hết thuyền
ghe mà tưởng tượng ra cảnh “ghe
chiếu Cà Mau năm xưa cắm sào bên
bờ kinh Ngã Bảy” (bài Tình anh bán qua hàng trăm năm, vị trꢀ địa lý đã
chiếu, tác giả Viễn Châu) đã thực sự thành địa điểm văn hóa, việc di dời, có
đi vào tâm cảm của biết bao thế hệ thể đảm bảo được yếu tố địa lý nhưng
người miền Tây.
chắc chắn đã bứng hiện tượng văn
hóa khỏi địa điểm văn hóa đã kết tinh
thành truyền thống. Sự tiện lợi ở đây,
rõ ràng không song hành với cảm xúc
văn hóa.
Quan sát của nhóm phóng viên Đồng
bằng sông Cửu Long của báo Tuổi trẻ
cũng cho thấy một tình trạng tương tự
diễn ra từ 2017 (Chí Quốc, 2017).
Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nhân Tuy nhiên, vẫn còn một lý do khác
(2018: 34-37) cho biết, việc dời chợ
nữa, đến từ quy hoạch và quản lý của
45
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
Nhà nước với ý chí tập trung hàng mà được nhấn đậm hơn yếu tố là một
sản phẩm du lịch văn hóa, và khi trở
thành một sản phẩm văn hóa, rất
nhanh chóng, nó trở thành một sinh
kế mới. Nhờ trở thành sản phẩm du
lịch, chợ nổi Cái Răng đã xuất hiện
trên một số tạp chí du lịch và trang
web du lịch của các nước trên thế giới
(Báo Pháp luật online, 2019). Sự vào
cuộc kịp thời của chính quyền trong
trường hợp này đã có tác động tích
cực và hiệu quả trong việc giữ gìn nét
văn hóa đặc trưng của vꢁng đất và
con người nơi đây (Cổng thông tin Sở
Văn hóa, Thể thao, Du lịch Cần Thơ).
hóa từ chợ dưới sông lên bờ để tốt
hơn trong quản lý. Khi chúng tôi đến
bến sông Ba Ngàn (vị trí mới cho chợ
nổi Ngã Bảy - Phụng Hiệp) thì chị bán
hàng tạp hóa và giải khát ở cạnh bến
sông chỉ cho chúng tôi một khu chợ
bỏ hoang ngay cạnh bến sông, và cho
chúng tôi biết thêm kể từ khi chính
quyền yêu cầu các chủ thuyền tập kết
hàng hóa lên khu chợ trên bờ này để
mua bán thì chợ nổi cũng tan luôn, mà
từ khi xây dựng khu chợ trên bờ,
chưa một lần được sử dụng, “cả chục
năm rồi đó” (Tài liệu điền dã, 9/2020).
Sự mai một đến mức có thể biến mất
nhiều chợ nổi – vốn gắn chặt và làm
hiện hữu một cách sống động đặc
trưng văn hóa sông nước Tây Nam
Bộ - chỉ ra tính tự quản với nghĩa là
vai trò cộng đồng người dân trong
việc duy trì sinh kế và bảo tồn văn hóa
là hết sức quan trọng. Sự can thiệp
hành chꢀnh khi chưa tꢀnh đến các tác
động đến kinh tế, đặc biệt là truyền
thống văn hóa, sẽ gây ra những hậu
quả khó lòng cứu vãn. Vì thế, kế
hoạch trong năm 2018 di dời chợ nổi
Ngã Bảy về vị trꢀ cũ (Chí Quốc, 2017)
là không thực hiện được.
Một sự điểm xuyết các mốc thời gian,
các địa điểm chợ nổi cho thấy lịch sử
chợ nổi gắn với thực hành văn hóa
của các chủ thể vꢁng sông nước miền
Tây. Và trong cái “không gian đầy biến
hóa” (Bourdeaux, 2019) này, chꢀnh
thực hành văn hóa hàng ngày của
người dân mới là yếu tố quyết định
kiến tạo và duy trì bản sắc văn hóa.
Kết quả phỏng vấn của Lâm Nhân vào
năm 2013, nhóm phóng viên báo Tuổi
trẻ năm 2017, Nguyễn Đăng Hai vào
tháng 12/2019 (Tài liệu điền dã, 2019),
và của chꢀnh tác giả vào tháng 9/2020
(Tài liệu điền dã, 9/2020) đều có
chung một kết quả là mong muốn
được “lên bờ” của những người nhiều
năm, nhiều thế hệ gắn bó với chợ nổi.
Do người dân vốn duy trì sinh kế một
cách tự nhiên giờ phải phụ thuộc vào
sự điều tiết của các công ty du lịch, do
thu nhập ngày càng thấp bởi tính cạnh
tranh ngày càng cao, do không có
điều kiện cho con cháu học hành vì
Và để giữ lại một truyền thống văn
hóa ở một không gian có nhiều biến
động về kinh tế và xã hội, giải pháp
chuyển đổi nó qua mô hình kết hợp
sinh kế văn hóa với du lịch như
trường hợp chợ nổi Cái Răng (Cần
Thơ) là mang tꢀnh hiệu quả. Trong
trường hợp này, chợ nổi không chỉ
đơn thuần là một hoạt động sinh kế
46
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
lênh đênh trên sông nước. Thực trạng Lăm liêu, Saravan..). Bên cạnh đó,
người Khmer sử dụng loại hình âm
nhạc khác như Dꢁ kê (trong biểu diễn
ca kịch Dù kê), nhạc Môhôri (phục vụ
sinh hoạt dịp sinh hoạt cộng đồng),
nhạc Dì kê (thường chỉ khi biểu diễn),
nhạc Aday (khi biểu diễn). Vì những
giá trị nghệ thuật đặc sắc, Nghệ thuật
đàn hát Chầm riêng Chà pây của
đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ và
Nghệ thuật sân khấu Dù Kê của người
Khmer đã được vinh danh là Di sản
văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia vào
năm 2013 và 2014.
này cho thấy các cảnh báo về “chợ
nổi sẽ chìm”, “chợ nổi sống mòn”,
“chợ nổi trước nguy cơ tan rã” mà các
báo đưa tin là rất đáng lưu ý.
3.2. Dân nhạc – thanh âm của đời
sống hàng ngày
Có thể nói không quá rằng, không
gian sinh hoạt đời thường của cư dân
vùng Tây Nam Bộ vang rộn tiếng đàn
ca. Ngươi ta g ặp nhau chơi cũng có
̀
thể ca vài câu tài tử. Trong các lễ hội,
âm thanh của các nhạc cụ, các làn
điệu dân ca của người Khmer, người
Hoa, người Chăm tạo nên một không
gian văn hóa đặc sắc. Những lời ca,
tiếng đàn đó dường như không chỉ
thuần túy là nghệ thuật mà đã thực sự
là thanh âm của cuộc sống, thể hiện
nhu cầu cảm xúc, nhu cầu giao lưu,
nhu cầu lưu giữ giá trị văn hóa cộng
đồng của các chủ thể văn hóa miền
Tây. Phần viết này chỉ phân tích dẫn
Cùng với những thay đổi môi trường
xã hội trong bối cảnh kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, sự phức
tạp trong thực hành dân nhạc Khmer,
sự khó khăn trong trao truyền các loại
hình dân nhạc này đã dẫn đến tình
trạng giảm dần theo thời gian các
thực hành diễn xướng dân nhạc trong
đời sống hàng ngày của người Khmer.
chứng từ thực hành dân nhạc của Theo thời gian, một số loại hình dân
người Khmer và người Việt để hiểu
việc tái kiến tạo bản sắc qua hoạt
động văn hóa thường ngày này.
nhạc Khmer như Dì kê, Aday, Chầm
riêng Chà pây không còn được biểu
diễn phổ biến trong cộng đồng do
càng ngày càng có ít nghệ nhân có
khả năng múa hát hai loại hình này.
Hiện chỉ có một số nghệ sĩ trong các
đoàn nghệ thuật Nhà nước có thể
biểu diễn khi có hội diễn hoặc thu
sóng truyền hình (Trần Hồng Chinh,
2016). Sehas Kiên, giảng viên Trường
Đại học Trà Vinh cho chúng tôi biết,
loại hình Dì kê đang đối mặt với nhiều
khó khăn. Hiện nay, trên địa bàn Nam
Với người Khmer, các loại hình âm
nhạc khá phong phú và đặc sắc.
Trong số đó, dàn nhạc ngũ âm là phổ
biến và không thể thiếu được trong
đời sống người Khmer vì loại hình âm
nhạc này gắn liền với lễ tục: lễ xuất
gia, an vị Phật, lễ tang, lễ Dâng y Cà
sa... Ngoài ra, nhạc ngũ âm còn phục
vụ loại hình nghệ thuật múa cổ điển.
Trong lễ cưới, người Khmer chuộng
loại nhạc cưới để cử hành lễ và nhạc
Bộ chỉ có huyêṇ Tri Tôn (An Giang) là
tân (múa hát cộng đồng: Romvong, có đội văn nghệ quần chúng hoạt
47
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
động trên lĩnh vực Dì kê nhưng do nó tạo nên điểm khác biệt trong không
gian văn hóa, không gian xã hội của
họ.
điều kiện kinh tế khó khăn nên đa số
nghệ nhân, nghệ sĩ đành bỏ nghề để
đi mưu sinh bằng các nghề khác. Kết
quả khảo sát mới đây của nhóm tác
giả nghiên cứu âm nhạc Khmer (Phạm
Tiết Khánh - Nguyễn Đăng Hai - Phạm
Thị Tố Thy, 2019) phần nào cho thấy
độ phức tạp của các loại hình dân
nhạc Khmer đang tồn tại; chúng đòi
hỏi một trình độ chuyên môn cao trong
thực hành dân nhạc trong đời sống
hàng ngày.
Với người Việt, những lưu dân trên
miền đất mới, thanh âm cuộc sống
hàng ngày là những làn điệu dân ca
vọng cố hương. Trải qua thời gian,
vốn cổ phôi phai, họ đã bắt nhịp với
vꢁng đất mới bằng những sáng tạo
mới. Đờn ca tài tử ra đời, trở thành
một món ăn tinh thần quan trọng trong
đời sống hàng ngày. Với nội dung là
những câu chuyện thương ngày, với
̀
giai điệu diết da, xoáy sâu nỗi buồn lữ
thứ, với các nhạc cụ không quá cầu
kỳ, đờn ca tài tử như một thông điệp
mạnh mẽ bật lên của đời sống văn
hóa bình dân của người Việt ở miền
Tây. Trải qua bao thăng trầm, hiện
nay, đờn ca tài tử là một phần không
thể thiếu của văn hóa hàng ngày của
người Việt ở đây. Đồng thời, trong
thực hành văn hóa hàng ngày, loại
hình nghệ thuật này đang hiện hữu
với nhiều màu sắc hết sức đa dạng.
Nhưng dꢁ phức tạp, người Khmer đã
luôn nỗ lực gìn giữ và trao truyền các
sản phẩm âm nhạc đặc sắc tộc người.
Trong các nhạc cụ, dàn nhạc ngũ âm
được giữ gìn và trao truyền rất tốt, bởi
đối với người Khmer, nhạc ngũ âm là
phổ biến nhất và không thể thiếu vì nó
gắn liền với các hoạt động văn hóa,
nghi lễ tộc người. Cộng đồng người
dân Khmer đã thể hiện vai trò quan
trọng trong việc gìn giữ và trao truyền
sản phẩm âm nhạc mang đậm bản
sắc tộc người này. Trong các phum,
Sự phổ biến trong sinh hoạt văn hóa
srok, các hoạt động truyền dạy nhạc hàng ngày, sự tồn tại trong các sinh
ngũ âm từ nghệ nhân dân gian cho hoạt cộng đồng của đờn ca tài tử là
các thế hệ trẻ theo hình thức truyền một thực tế có thể thấy ở nhiều nơi.
nghề, truyền ngón được thực hành Ông Nguyễn Quốc V. và ông Lê Hồng
Th. ở ấp Doanh Điền, xã Điền Hải,
thường xuyên. Đồng thời, trong sinh
hoạt hàng ngày, các nghệ nhân đã giữ huyện Đông Hải (tỉnh Bạc Liêu) cho
được nghề bằng việc biểu diễn âm chúng tôi biết, 70% người dân trong
nhạc cho cộng đồng khi cộng đồng có xã biết ca tài tử, mọi người hát theo
nhu cầu. Chính vì vậy, sự biến động các clip trên mạng, ca cổ, ca mới, tân
nhanh của kinh tế và xã hội không làm cổ giao duyên đều hát được. Xã Điền
Hải đã thành lập một câu lạc bộ đờn
ca tài tử, mỗi ấp có một nhóm. Vào
biến mất đi thanh âm cuộc sống vẫn
ngân nga trong đời sống cảm xúc của
người Khmer Tây Nam Bộ, và chính các dịp lễ như ngày hội Đại đoàn kết
48
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
toàn dân, ngày truyền thống của thanh Long (tỉnh Trà Vinh), ông cho chúng
niên, phụ nữ, hoặc các sinh hoạt cộng
đồng như đám giỗ, đám cưới, đám
tiệc nói chung đều có tổ chức hát đàn
ca tai tư . Các đoàn thể trong xã tổ
tôi biết, đờn ca tài tử là một phần
không thể thiếu đối với gia đình ông.
Giữa buổi nói chuyện, ông gọi điện
cho con trai mang đàn kìm đến đệm
cho vợ chồng ông cùng ca cho chúng
tôi nghe. Ông kể nhiều về các nghệ
nhân bậc thầy về đờn ca tài tử miền
Tây và trăn trở nhiều về sự pha tạp
của các kiểu ca, sự giảm dần chất
lượng của các ngón đàn trong loại
hình âm nhạc này. Những trăn trở của
nghệ nhân Tám Dấu cũng như trăn
̀
̉
chức các phong trào “tiếng hát thanh
niên”, “tiếng hát phụ nữ”, “hát cho
nhau nghe”. Ngoài ra hàng năm còn
cử một vài người hát hay đi tham dự
các giải trong huyện.
Anh Ngọc T., một nghệ nhân đờn ca
tài tử ở thành phố Trà Vinh cho biết ,
“đờn ca tài tử không biết thì thôi, biết
là nghiền; mỗi khi đi đâu qua chỗ có
đám hát tài tử là nhào vô hát vài câu”.
Chiều 20/6/2020, anh rủ chúng tôi
xuống nhà một người bạn ở huyện
Châu Thành (tỉnh Trà Vinh) nhậu lẩu
cá khoai và ca tài tử. Chúng tôi đến
Châu Thành tầm 5 giờ chiều, nồi lẩu
cá khoai đã xong, đặt lên bàn. Ban
đầu, chủ và khách đꢁn đẩy nhau,
không ai chịu ca trước, cho đến khi
trơ cua anh Hoài P. (phường 7, thành
̉
̉
phố Bạc Liêu) và anh Quách B.
(phường 8, thành phố Bạc Liêu) (PVS,
tháng 12/2019). Anh P. có một quán
cà phê trong hẻm nhỏ, hàng ngày bạn
bè đến chơi, trò chuyện chuyên môn
và đờn ca cho thỏa dạ yêu nghề.
Trong buổi chuyện trò với chúng tôi,
anh B. nay giọng đã hơi yếu nên đã
mang theo băng catsset thu âm giọng
trời chợt đổ mưa, chủ nhà bỗng nhiên hát của mình từ trước để mở cho
cất giọng ngọt lịm 1 câu trong vở cải chúng tôi nghe giọng chuẩn. Hai anh
lương Lan và Điệp (tác giả Loan mở băng, ca câu vọng cổ Dạ cổ hoài
Thảo): “Mỗi khi thấy trời bắt đầu lất lang và giảng kỹ sự ngắt nhịp, nhả
phất hạt mưa...”. Không gian chùng
xuống trong một sự cảm thông, xúc
cảm trào dâng qua giọng ca da diết.
Thế là mọi người cùng cất lời ca, lời
tiếp lời, giọng tiếp giọng. Cuộc ca kéo
đến nửa đêm, khi ra về vẫn lưu luyến
dùng dằng.
chữ của từng câu.
Khác với dân nhạc Khmer đòi hỏi sự
chuyên sâu về giọng và đàn, đờn ca
tài tử có tính phóng khoáng trong thể
hiện, tính mời gọi sự đồng cảm của
xúc cảm và tính dễ kết nối. Vì thế,
không gian dành cho thực hành dân
nhạc đờn ca tài tử rộng rãi hơn nhiều.
Các điểm tập trung khách du lịch
thường có những tốp ca sĩ không
Tuy nhiên, lại có một hình ảnh khác về
sự hiện hữu của đờn ca tài tử ở Tây
Nam Bộ. Tháng 12/2019, trong cuộc
trò chuyện với ông Tám Dấu, nghệ chuyên ca tài tử phục vụ. Theo các
nhân ưu tú (2015) ở thị trấn Càng nghệ nhân chuyên nghiệp, nhiều
49
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
người trong số họ ca sai, đờn sai hóa là chợ nổi và dân nhạc ở Tây
nhưng không sao, khi tiếng đờn kìm
và giọng vọng cổ cất lên, thực sự là
một không gian văn hóa miền Tây
hiện ra, mời gọi và níu giữ. Tuy nhiên,
trong cuộc trò chuyện với anh Hoài P.,
anh Quách B. (Bạc Liêu) hay các thành
viên trong câu lạc bộ của anh Võ
Thành H. ở ấp Chợ, xã Tân Hoàng,
huyện Tiểu Cần (tỉnh Trà Vinh) vào
ngày 18/8/2020, các nghệ nhân đã
bày tỏ sự quan ngại khi đờn ca tài tử
hiện nay được hát theo các clip tràn
lan trên mạng internet, bỏ qua các
kiểu ngắt nhịp chuẩn, làm mất đi tꢀnh
đặc sắc của loại hình nghệ thuật này.
Đồng thời, việc truyền dạy ca tài tử
trong cộng đồng hiện đang gặp khó
khăn bởi ca tài tử phải học 3 năm mới
thấm, việc học mất thời gian mà biết
ca biết đàn cũng không sống được với
nghề nên lớp trẻ không mặn mà với
loại hình nghệ thuật này. Như vậy thì,
mặc dù nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam
Bộ được UNESCO vinh danh là di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại (2013) và mặc dù lối hát này
không quá khó nhưng có thể nói, việc
giảm chất lượng nghệ thuật và tình
trạng mai một nó trong đời sống hàng
ngày đang chầm chậm diễn ra.
Nam Bộ, bài viết đi tới các kết luận
sau:
1. Sau hơn 300 năm hình thành và
phát triển, đặc trưng văn hóa vꢁng đất
Tây Nam Bộ không chỉ dừng lại ở các
cụm cố định là không hoàn toàn giữ
nguyên nghĩa. Dưới tác động của kinh
tế thị trường, sự phát triển kinh tế đã
làm thay đổi không gian xã hội, ở đó,
các nghĩa của văn hóa không ngừng
được bổ sung, mà khi nghĩa mới đã
trở thành quen thuộc thì các nét đặc
trưng hay bản sắc đã được nhận diện
cũng thay đổi. Mặc định “văn hóa
sông nước” gắn với chợ nổi hay “văn
hóa bình dân sống động” gắn với thực
hành đờn ca tài tử cũng đang thay đổi
từng ngày.
2. Một vấn đề mang tính lý thuyết
trong cách mô tả “văn hóa hàng ngày”
là sự đồng bộ hóa xã hội hậu công
nghiệp thậm chí có thể tꢀnh đến từng
giây từng phút (a synchronization
based on minutes and seconds). Soi
điều này vào văn hóa hàng ngày của
cư dân Tây Nam Bộ, tự nhiên, một
bức tranh các màu sắc đậm nhạt hiện
ra, mà ở đó, tốc độ nhanh chậm của
nhịp điệu cuộc sống giữa các tộc
người là không như nhau. Sự mô tả
thô phác trên đây cho thấy rõ rằng,
trên nền văn hóa Tây Nam Bộ, nổi bật
lên tꢀnh đa dạng của văn hóa tộc
người, và để hiểu được tꢀnh đa dạng
đó, rất cần khám phá từ tính sinh
động, tính khả biến của văn hóa hàng
ngày. Điều này cũng phꢁ hợp với tinh
thần của Công ước Bảo vệ và phát
4. KẾT LUẬN
Việc đưa ra khung lý thuyết văn hóa
hàng ngày với quan niệm rằng, văn
hóa luôn được sản sinh nghĩa trong
các bối cảnh mới, bằng việc điểm lại
các nhận định được thừa nhận về đặc
trưng văn hóa Tây Nam Bộ và qua
khảo sát điền dã hai hiện tượng văn
50
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020
huy sự đa dạng của các biểu đạt văn phức tạp và tân kỳ nhưng đòi hỏi
hóa của UNESCO. Cách tiếp cận “văn những nỗ lực và sự thay đổi một hệ
hóa hàng ngày”, vì thế, tuy không hình nghiên cứu mới.
CHÚ THÍCH
Bài viết trong khuôn khổ đề tài cấp quốc gia: Văn hóa trong phát triển bền vững vùng Tây
Nam Bộ thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia: Khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.
(1) Pascal Bourdeaux dẫn các tài liệu nói về những khó khăn trong hội nhập bước đầu của di
dân người Việt ở miền Bắc vào Tây Nam Bộ ở sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, cách
thức canh tác, phương thức làm thủy lợi, và những trở ngại đối với người miền Bắc vì việc
ly hương đã khiến họ phải rút khỏi hệ thống tái phân chia đất công cũng như đứt sợi dây liên
kết về nghi lễ với tổ tiên và sự thiêng liêng của vꢁng quê cha đất tổ (Bourdeaux, 2009).
(2)
Nguyễn Đăng Hai phỏng vấn ông Nguyễn Văn A., sinh năm 1976, ở khu vực 5, phường
An Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ ngày 10/12/2019.
(3)
Trần Thị An phỏng vấn anh Sáu D., sinh năm 1968 ở khu vực 5, phường An Bình, quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ ngày 22/9/2020.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
2. Bourdeaux, Pascal. 2009. Văn minh sông nước miền Nam – các suy tưởng về ý niệm
“văn minh sông nước” và về lịch sử châu thổ sông Cửu Long nhìn qua một vài khía cạnh
3. Cẩm Giang. 2019. “Chợ nổi Cái Răng lọt vào top 10 chợ ấn tượng nhất thế giới”.
4. Đinh Thị Dung. 2011. “Tây Nam Bộ với tư cách là một vꢁng văn hóa và các tiểu vùng
truy cập ngày 15/10/2020.
5. Highmore, Ben. 2001. Everyday Life and Cultural Theory: An Introduction. UK:
Routledge.
6. Huỳnh Kim. 2020. “Bảo tồn chợ nổi Cái Răng trong yêu cầu phát triển du lịch bền
8. Lâm Nhân. 2014. Chợ nổi Cái Bè – nhìn từ góc độ di sản. trong sách Di sản văn hóa
trong xã hội Việt Nam đương đại. Hà Nội: Nxb. Tri thức.
51
TRẦN THỊ AN – VĂN HÓA HÀNG NGÀY VỚI VIỆC KIẾN TẠO…
9. Lê Bá Thảo. 2001. Thiên nhiên Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
10. Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam. TPHCM: Nxb.
Trẻ.
11. Nguyễn Ngọc Thơ. 2017. Tín ngưỡng Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ. Hà Nội: Nxb.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
12. Nguyễn Thị Hậu. 2017. “Văn hóa sông nước ở Nam Bộ nhìn từ khảo cổ học”, tham
luận đọc tại Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa sông nước Đồng bằng sông
Cửu Long trong quá trình hội nhập và phát triển, Đại học Cần Thơ, 28/11/2017.
13. Nguyễn Trọng Nhân. 2018. “Chợ nổi vꢁng Đồng bằng sông Cửu Long dưới góc
nhìn sinh thái nhân văn”. Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam, số 60(11).
15. Pascal Bourdeaux. 2009. “Văn minh sông nước miền Nam - các suy tưởng về ý
niệm „văn minh sông nước‟ và về lịch sử châu thổ sông Cửu Long nhìn qua một vài khía
16. Phạm Tiết Khánh, Nguyễn Đăng Hai, Phạm Thị Tố Thy. 2019. “Thực trạng bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa âm nhạc dân gian Khmer Nam Bộ trong bối cảnh hiện nay”.
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Trà Vinh, số 35.
18. Sơn Nam. 1992. Văn minh miệt vườn. Hà Nội: Nxb. Văn hóa.
19. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cần Thơ. 2020. Hội thảo Làm gì để bảo tồn chợ
21. Trần Đức Cường (chủ biên). 2014. Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam
Bộ. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
22. Trần Hồng Chinh. 2016. “Nghệ thuật Chầm riêng Chà pây của người Khmer”.
ngày 20/5/2020.
23. Trần Hữu Hiệp. 2003. An Giang – văn hóa một vùng đất. Hà Nội: Nxb. Văn hóa
Thông tin.
24. Trần Ngọc Thêm (chủ biên). 2014. Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. TPHCM:
Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TPHCM.
25. Trịnh Hoài Đức. 2005. Gia Định thành thông chí. Lý Việt Dũng dịch. Đồng Nai: Nxb.
Đồng Nai.
26. UNESCO. 2005. Công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn
hóa. https://UNESCO.
27. Williams, Raymond Henry. 1958, “Culture is ordinary”, In Cultural Theory: An
Anthology, edited by Imre Szeman, Timothy Kaposy, UK: Blackwell Publishing, 2011.
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa hàng ngày với việc kiến tạo và tái kiến tạo bản sắc văn hóa Tây Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- van_hoa_hang_ngay_voi_viec_kien_tao_va_tai_kien_tao_ban_sac.pdf