Một số nguyên nhân của sự “lệch chuẩn” và giải pháp khắc phục trong bảo tồn phát huy giá trị di tích Phật giáo Việt

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA  
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ “LỆCH CHUẨN” VÀ  
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRONG BẢO TỒN PHÁT HUY  
GIÁ TRỊ DI TÍCH PHẬT GIÁO VIỆT  
NGUYỄN XUÂN HỒNG  
Tóm tắt  
“Phật giáo” là một tôn giáo lớn đồng hành và phát triển cùng đất nước ta đã khoảng 2000 năm.  
Hiện nay, tôn giáo này có 14.775 cơ sở thờ tự (chùa, thiền viện, tịnh xá, tịnh thất, tụng niệm đường) trên  
cả nước. Trong số các cơ sở thờ tự đó, có hàng nghìn địa điểm là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật,  
danh lam thắng cảnh đã được Nhà nước xếp hạng, với hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ, thu hút cả chục vạn  
du khách thập phương, cùng tín đồ đến hành lễ hàng năm cứ mỗi độ Tết đến xuân về. Ai cũng biết hầu  
hết các cơ sở thờ tự, đâu đâu cũng muốn trang hoàng hoành tráng, cờ phướn rùm beng, quảng bá ồn  
ào, làm sai đi mục đích vốn có của lễ hội. Những hiện tượng trùng tu, xây sửa tràn lan thiếu nguyên  
tắc đã và đang làm biến dạng hình hài các di tích văn hóa Phật giáo mà cha ông ta để lại. Vậy những  
nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng vừa nêu? Chúng ta cần làm gì để khắc phục những hạn chế, yếu  
kém trong bảo tồn và phát huy giá trị các di tích văn hóa Phật giáo và các di tích tôn giáo tín ngưỡng  
hiện nay ở Việt Nam.  
Từ khóa: Chính sách, Phật giáo, nghi lễ, trùng tu  
Abstract  
“Buddhism” is a major religion that has been growing and developing in our country for about  
2,000 years. Now, there are 14,775 worshiping places (temples, monasteries, pagodas and chanting  
halls) all over the country. Among them, thousands of places are historical relics, art architecture;  
scenic places have been ranked by the State with thousands of large and small festivals, attracting tens  
of thousands of visitors and believers come to the annual ceremony every new year comes. Everyone  
knows that most of the worshipping places want to decorate colorful, buzzing propaganda which  
make the original purpose of festivals false. Restoration and building those places without principles  
have been distorted the Buddhist cultural relics. What are the reasons of this situation? What we need  
to do to overcome the limitations and weaknesses in preserving and promoting the value of Buddhist  
cutural relics and current religious belief relics in Vietnam.  
Keywords: Policy, Buddhism, ritual, restoration  
ó lẽ để bàn sâu hơn về nguyên nhân  
và giải pháp khắc phục tình trạng  
lệch chuẩn trong hoạt động tôn  
trùng tu một di tích Phật giáo cụ thể, cũng như  
một di tích là di sản văn hoá nói chung, thì phải  
hiểu về nó, phải biết giá trị ẩn chứa bên trong nó  
và phải thấy tác dụng của nó. Hay cô đọng lại  
bằng cụm từ Hiển - Mật - Dụng.  
C
giáo, tín ngưỡng, đặc biệt là bảo tồn và phát  
huy giá trị các di tích văn hóa Phật giáo, trước  
tiên tác giả bài viết xin đưa ra ý kiến của nhà  
nghiên cứu Di sản văn hóa Trần Lâm Biền (Cục  
Di sản- Bộ VH, TT&DL), một nhà khoa học luôn  
nặng lòng với văn hóa Phật giáo, như một định  
đề: “Khi chúng ta muốn thực hiện việc tu bổ hay  
Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích Phật  
giáo là vấn đề tốn không ít giấy mực, cũng như  
bao tâm trí của nhiều nhà nghiên cứu, nhà  
khoa học và các nhà quản lý với sự nghiệp bảo  
tồn di tích Phật giáo, song đâu là nguyên nhân  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
17  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
cơ bản và đâu là giải pháp hữu hiệu để khắc  
phục thực trạng đã nêu trên. Để làm được điều  
đó, trước tiên chúng ta phải hiểu về Phật giáo  
ngay từ khi được du nhập và trụ vững ở nước  
ta như thế nào.  
Nam nói riêng hay Đông Á nói chung. Và quan  
trọng hơn, Phật giáo là tôn giáo phù hợp với  
người dân thôn dã Việt Nam tiếp nhận dễ dàng  
thời bấy giờ”.  
1. Phật giáo du nhập vào  
Việt Nam  
Phật giáo chính thức  
được du nhập vào Việt  
Nam khoảng đầu Công  
nguyên (cuối thế kỉ II đầu  
thế kỉ III). Ban đầu là do các  
nhà sư Ấn Độ đã vân du  
hoằng pháp cùng với các  
thương gia Ấn đến từ trước  
đó, gồm cả đường bộ lẫn  
đường thủy, nhưng rõ nét  
hơn là bằng đường thủy.  
Trung tâm Phật giáo sớm  
nhất, và cũng là nơi tập  
trung đông các nhà sư Ấn  
Độ nhất ở Việt Nam thời  
Ảnh 1. Phỏng ước lãnh thổ hai nước Văn Lang của các vua Hùng và xứ Nam  
Cương của Thục Phán, sau này hợp nhất thành nước Âu Lạc vào khoảng thế  
kỷ 3 TCN (Nguồn Wikipedia.org)  
bấy giờ là Luy Lâu (còn có  
2. Nền cảnh xã hội với niềm tin Phật giáo  
tên Ly Lâu, Liên Lâu), thuộc quận Giao Chỉ (Việt  
Nam thời đó là xứ Giao Châu, dưới ách thống  
trị của đế chế Hán), tức là vùng Dâu, ngày nay  
là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.  
Đất nước ta ngay từ thời kỳ Nhà nước Văn  
Lang (của bộ tộc Lạc Việt) được hình thành  
trên vùng bình nguyên bao gồm đồng bằng  
sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng  
sông Lam, thuộc Bắc Bộ cho tới ngày nay, có  
vị trí trung tâm trong khu vực châu Á - Thái  
Bình Dương, là cửa ngõ giao thương bằng cả  
hai con đường (đường thủy và đường bộ). Đặc  
biệt lại nằm giữa đường giao thông qua lại của  
hai nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới là  
Ấn Độ và Trung Hoa. Do vậy, việc giao lưu với  
các dân tộc bên ngoài quốc gia đã diễn ra rất  
sớm và cũng liên tục phải chịu cảnh bị dòm  
ngó thôn tính, tranh chấp lãnh thổ, dẫn đến  
chiến tranh liên miên. Người dân bị các thế  
lực ngoại bang xâm chiếm, đặt bộ máy cai trị  
áp bức, bóc lột, cống nạp, phân biệt đến cùng  
cực. Trong hoàn cảnh đó, người dân chỉ còn  
biết tìm đến cầu cứu đấng siêu nhiên, thần  
linh hay “niềm tin tôn giáo, để xoa dịu nỗi đau  
quốc gia, dân tộc bị giày xéo, phẫn uất không  
thể giãi bày. Phật giáo đã có mặt với triết lý từ  
Đạo Phật đầu tiên do các thương gia Ấn Độ  
đem đến. Những người này không phải là những  
nhà truyền giáo; họ chỉ sống đời sống tín ngưỡng  
của họ trong lúc lưu lại Giao Châu, và chính vì  
vậy mà người Giao Châu biết đến đạo Phật,  
(9, tr.44). Đạo Phật đã hiện diện ở Giao Châu  
từ ngày đó. Và lẽ tất nhiên, đạo Phật tới Giao  
Châu như một cuộc “hôn phối, duyên sinh” tự  
nhiên trời định. Đạo Phật không áp đặt, mà  
được dân chúng tự nguyện tiếp nhận rất dễ  
dàng, do là tôn giáo từ bi, chia sẻ và xoa dịu  
nỗi đau bị mất nước, bị nô dịch.  
Trong khi đó, Nho giáo theo chân của  
những kẻ xâm lược phương Bắc (Nhà Hán)  
được áp đặt vào Giao Châu, thông qua chính  
quyền cai trị nên không được dân chúng tiếp  
nhận tự nhiên. Theo nhà sử học, Giáo sư Lê Văn  
Lan “Đây là thời kỳ gieo mầm, phát triển, bám  
rễ của Phật giáo Nguyên thủy sớm nhất vào Việt  
18 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA  
bi hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, giải thoát chúng  
sinh đến bờ giác ngộ và hội đủ duyên lành để  
người dân Việt tiếp nhận một cách tự nhiên  
(giai đoạn này chỉ Phật giáo mới đủ mạnh để  
thành đối trọng với Nho giáo, Đạo giáo do kẻ  
xâm lược ngoại bang đưa vào).  
thương trong khu vực và trên toàn thế giới.  
Đây là nguyên nhân phát sinh những xung đột  
tranh giành ảnh hưởng địa chính trị nên Việt  
Nam đã phải chịu nhiều cuộc xâm lăng, viễn  
chinh của các cường quốc lớn trên thế giới.  
Người Việt liên tục bị áp đặt các tư tưởng ngoại  
lai trong quá khứ và ngay cả thời hiện đại, điều  
này là nguyên nhân dễ dẫn tới lệch chuẩn.  
Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: “Đạo  
Phật đã là một sự kiện lịch sử tất yếu của nhân  
loại, nhằm dung hoà những nỗi bất công của  
con người trước một xã hội đã phân hoá làm  
nhiều đẳng cấp(3, tr.9).  
Hai là, xuất phát từ nền tảng văn hoá con  
người Việt Nam. Về cơ bản, văn hoá dân tộc  
ta cũng minh chứng cho mối quan hệ chung  
sống với tự nhiên (thiên nhiên) ngay từ thời  
người Việt cổ. Đó là mộtcộng đồng người - trời  
đất” gần như đồng nhất với nhau; trong đó,  
con người biết thích nghi để lao động sản xuất,  
giữ gìn và lợi dụng tự nhiên một cách hợp lý,  
luôn duy trì một lối sống hoà hợp với đại thế  
giới bên ngoài (hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp  
là dẫn chứng cụ thể ngay từ khi Phật giáo vào  
nước ta). Trong lịch sử tư tưởng của dân tộc,  
cha ông ta không có những học thuyết, sách  
vở kinh điển chuyên luận. Cuộc sống của con  
người luôn là sự hoà hợp giữa người và tự  
nhiên, không thể có cái này mà lại thiếu cái  
kia. Chính điều này cũng dễ làm cho chúng ta  
mang tư duy đại khái, tuỳ tiện, văn hoá không  
cao ngay trong đời sống lao động và sinh hoạt  
hàng ngày.  
Lý do trên đây cho thấy Phật giáo bén rễ  
vào Việt Nam từ rất sớm và niềm tin vào Phật  
giáo của mọi người dân trong xã hội, qua  
những chặng đường thăng trầm của lịch sử  
là rất sâu đậm. Tuy có lúc hưng thịnh, lúc suy  
vi tạm lắng do hoàn cảnh xã hội, nhưng Phật  
giáo vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc Việt  
Nam, chính thức khoảng 20 thế kỷ đã qua.  
Nhìn từ giác độ văn hóa truyền thống của  
dân tộc, ngôi chùa Việt cùng với văn hóa Phật  
giáo đã như huyết mạch, ngầm chảy trong  
lòng đất mẹ Việt Nam, nuôi dưỡng phần lớn  
giá trị tâm hồn người Việt qua hàng nghìn  
năm văn hiến. Việc bảo tồn và phát huy các  
giá trị văn hóa Phật giáo cũng chính là bảo tồn  
và phát huy nguồn dưỡng chất nuôi cho tâm  
hồn, niềm tin trong sáng, nhân văn của người  
Việt Nam, đất nước Việt Nam hôm nay cũng  
như mai sau.  
Ba là do nhận thức và sự hiểu biết của người  
dân, của nhà quản lý. Từ trình độ nhận thức  
của người dân nên trong nhiều lễ hội Phật giáo  
đang diễn ra hiện nay, bên cạnh những ý nghĩa  
tích cực được nhấn mạnh như nhắc nhở truyền  
thống, “củng cố khối đại đoàn kết toàn dân” thì  
sự thiêng liêng” trong tâm thức dường như  
cũng giảm bớt khi người dân đến tế lễ. Trong  
đó, thành phần không chỉ có các cá nhân, đơn  
vị có trách nhiệm trực tiếp liên quan tới lễ hội,  
mà chủ yếu là người dân, khách du lịch, doanh  
nhân, cán bộ, công chức văn phòng và cũng  
có không ít quan chức đến để “du xuân và  
thắp hương xin lộc Phật, Thánh... Từ một lễ hội  
mang ý nghĩa tôn giáo hay mang tính nông  
nghiệp (thường là mang tính nông nghiệp, phục  
vụ cho nhu cầu tín ngưỡng văn hóa nông nghiệp  
chung sống với tự nhiên) như lễ hội chùa Dâu,  
Nhưng thực tế giai đoạn vừa qua, ở nhiều  
nơi trên khắp cả nước, nhiều chùa chiền, lễ  
hội có hiện tượng trang hoàng hoành tráng,  
cờ phướn rùm beng, quảng bá ồn ào, làm sai  
đi mục đích vốn có của lễ hội Phật giáo; việc  
trùng tu, xây sửa tràn lan thiếu nguyên tắc, làm  
biến dạng di tích văn hóa Phật giáo mà cha  
ông ta để lại. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến  
và chúng ta cần làm gì để khắc phục, hạn chế  
những hiện tượng nói trên?  
3. Nguyên nhân cơ bản làm biến tướng lễ  
hội, trùng tu sai mục đích  
Một là do điều kiện địa lý. Như đã nêu, Việt  
Nam là trung tâm giữa các con đường qua  
lại trên biển, trên bộ, nên thuận lợi cho giao  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
19  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
chùa Keo, chùa Hương, chùa Phổ Minh - Đền  
Trần... ở cấp địa phương, sau khi được “nâng  
cấp” chính quy hóa đã trở thành lễ trình diễn  
hoành tráng với nhiều ý nghĩa mới. Ðiều này  
làm thay đổi bản chất của di tích, di sản cả từ  
nội dung, ý nghĩa đến phương thức tiến hành  
nghi lễ.  
trạng phổ biến ở nhiều lễ hội là các hoạt động  
“lồng ghép” lai tạp cũng “chen chân” vào bên  
cạnh nghi thức lễ cổ truyền. Nhiều nơi còn xây  
mới công trình để “bổ sung” cho di tích, v.v...  
Các kịch bản mới cho lễ dâng hương cũng  
được soạn, trong đónêu bậtthêm vai trò của  
nhiều tổ chức, đoàn thể và cả cá nhân đại diện.  
Nhiều hội diễn, hội thi, hội chợ và cả hội thảo  
đã được “kết hợp tổ chức” làm thay đổi diện  
mạo cổ truyền đã có từ ngàn xưa.  
Người ta tin và coi việc cầu cúng tâm linh  
với những mâm lễ lớn dâng lên thánh thần như  
một sự đầu tư, để “xin” mọi thứ có thể xin (lộc  
buôn, lộc bán, thăng quan tiến chức…) trong  
cõi trần tục đầy tính toán. Người ta có thể bịa  
ra những con số để gán cho những công trình,  
mù quáng lao theo phong trào “lập kỷ lục”  
(nhiều nhất, to nhất, rộng nhất...) một cách vô  
nghĩa, vô lý và tốn kém. Đáng lẽ người ta phải  
thực hiện nghi lễ, tiếp cận với Thần, Phật với  
thái độ nghiêm cẩn, thành tâm, có sự chuẩn bị  
mang sắc thái tôn giáo, thì giờ đây thực tế lại  
ngược lại.  
Ảnh 2. Lễ trình diễn hoành tráng với nhiều ý nghĩa  
mới ở chùa Keo (2016) (Nguồn: Internet)  
Bốn là do chủ trương, chính sách của Đảng  
và hệ thống luật pháp của Nhà nước thiếu  
đồng bộ, gây trở ngại trong quá trình thực  
thi, triển khai từ cấp trung ương xuống địa  
phương, đặc biệt ở cấp xã phường, thôn, ban  
quản lý… (Vấn đề sẽ được tác giả đưa ra bàn  
thảo ở một chuyên đề riêng ngoài nội dung  
bài viết này).  
Năm là do nền kinh tế Việt Nam đang trên  
đà phát triển, nên nhìn chung chỉ chú trọng  
vào khai thác tiềm năng tăng trưởng kinh tế,  
không tạo tiền đề cho phát triển đồng bộ.  
Điều này dẫn tới ảnh hưởng đến bảo tồn và  
phát huy các giá trị văn hoá Phật giáo trong  
bối cảnh hiện nay.  
Ảnh 3. Cảnh chen lấn giẫm đạp để tranh cướp lộc ở  
chùa Hương (Nguồn: Internet)  
Việc “sân khấu hóa” và “sáng tạo truyền  
thống” gần như đã tách “chủ thể” ra khỏi di  
tích, di sản, thậm chí làm cho họ coi di tích,  
di sản đó không còn là của mình mà là của  
Nhà nước.  
Sáu là do năng lực của các nhà hoạt động  
tôn giáo tín ngưỡng (các chư tăng, ni, sư trụ  
trì), các nhà chuyên môn, nhà quản lý.  
Trước đây, các nghi lễ ở các lễ hội do người  
dân sở tại tổ chức thực hiện (theo phong tục)  
năm này qua năm khác và trở thành nền nếp  
mà không cần phải có đạo diễn. Các đại diện  
chính quyền chỉ đến dự lễ. Ngày nay, khi di  
tích, lễ hội được công nhận và nâng cấp, tình  
Ở đây chúng ta đề cập đến vấn đề con  
người, trong đó có cả vai trò của các tăng sỹ  
(lâu nay chúng ta ít nói tới vai trò của giới tăng  
sỹ, cũng là nguyên nhân ảnh hưởng). Năng lực  
tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác  
20 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA  
văn hóa cơ sở góp phần quan trọng trong việc  
bảo tồn và phát huy giá trị di tích Phật giáo.  
Tuy nhiên, hiện còn tồn tại nhiều hạn chế như:  
trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, khả  
năng vận động quần chúng bảo tồn di sản văn  
hóa Phật giáo chưa thực sự hiệu quả.  
Thực tế hiện nay, nhiều người không biết  
mình đang đến đình, đền, chùa nào, thờ ai,  
đến làm gì, cầu gì… Đại đa số đang trong  
tình trạng lờ mờ về sự hiểu biết tôn giáo, tín  
ngưỡng, lễ hội, bởi vậy sẽ dẫn tới hành động  
“loạn chuẩn. Đây là một nút thắt. Vấn đề bây  
giờ là làm thế nào để người dân phải hiểu  
đúng về đời sống tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội,  
để hành động cho đúng. Nhà nghiên cứu Trần  
Lâm Biền cũng đã phải nhiều lần cảnh báo về  
vấn đề “Cần phải hiểu cho đúng với đời sống tín  
ngưỡng, tôn giáo hay lễ hộitrước khi thực hiện  
những nội dung liên quan đến phát huy vai trò  
giá trị của di tích. Đó chính là tiền đề để hành  
động đúng, theo cụm từ mà ông hay nói là  
Hiển - Mật- Dụng.  
Chúng ta cần chú ý tới việc lựa chọn, sử  
dụng nguồn nhân lực trong bảo tồn và phát  
huy giá trị di tích Phật giáo, ngay từ việc đầu  
tư tu bổ và phục hồi di tích, đặc biệt là năng  
lực chuyên môn quản lý của các chủ thể tham  
gia thực hiện đầu tư tu bổ và phục hồi di tích  
Phật giáo.  
Bảy là do thông tin, tuyên truyền, truyền  
thông. Việc thông tin, tuyên truyền, truyền  
thông trong một xã hội đầy biến động là thách  
thức đối với không chỉ các cơ quan chuyên  
môn, mà ngay cả với các nhà quản lý ở tất cả  
các cấp ngành. Thông tin, tuyên truyền, truyền  
thông hiện nay là phương tiện tác động trực  
tiếp, có liên quan đến việc định hướng các  
hành vi đạo đức trong xã hội, mà trực tiếp ở  
đây là việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá  
Phật giáo.  
Bởi vậy, nếu khắc phục được 3 điểm mà nhà  
nghiên cứu Ngô Đức Thịnh nêu thì sẽ gỡ rối và  
tạo ra những thay đổi đáng kể trong bảo tồn  
và phát huy các giá trị di tích Phật giáo. Hiện  
nay, chúng ta cần phải làm điển hình, có trọng  
tâm ở một vài di tích như lễ hội chùa Hương, lễ  
hội chùa Dâu, lễ hội chùa Keo, lễ hội Đền Trần-  
chùa Phổ Minh… tạo nên điểm sáng trong các  
lễ hội liên quan, nhằm bảo tồn và phát huy các  
giá trị di tích Phật giáo.  
Để chỉ rõ nguyên nhân nào là cơ bản còn tuỳ  
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng vùng  
miền, của địa phương hay cả xã hội. Song theo  
Giáo sư Ngô Đức Thịnh - Nguyên Viện trưởng  
Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, thì có lẽ có  
ba nguyên nhân cơ bản mà chúng ta cần phải  
khắc phục ngay khi còn chưa quá muộn. Thứ  
nhất: sự hiểu biết của người dân, người quản  
lý lễ hội liên quan tới Phật giáo chưa đầy đủ  
vì tâm thức đến với tôn giáo tín ngưỡng, cách  
thức tiến hành lễ hội phải hoàn chỉnh nếu  
không nó sẽ loạn chuẩn. Nếu như con người  
có tri thức về vấn đề gì đó sẽ có cách làm đúng  
mực. Thứ hai: vấn đề bị trục lợi hóa. Trục lợi với  
đời sống thường nhật đã nguy hiểm nhưng  
đồng tiền thâm nhập đến đời sống tôn giáo,  
tín ngưỡng sẽ phá hoại nề nếp. Thứ ba: phải  
xác định vai trò chủ thể của người dân đối với  
lễ hội. Đây là lễ hội của người dân và các cơ  
quan phải hướng dẫn, trợ giúp cho dân làm  
cho tốt chứ không phải làm thay người dân.  
4. Một số nhóm giải pháp khắc phục trong  
bảo tồn và phát huy giá trị di tích Phật giáo  
ở Việt Nam hiện nay  
- Nâng cao trình độ nhận thức của người dân,  
dưới nhiều hình thức khác nhau, như lồng vào  
những buổi thuyết pháp của các chư vị hoà  
thượng, thượng tọa, tăng ni, các nhà sư trụ  
trì. Thay việc quảng bá quảng cáo, cờ phướn  
rùm beng bằng việc tăng cường pano, băng  
rôn, phát thanh, truyền hình, băng đĩa giảng  
giải cho người dân hiểu biết về tín ngưỡng,  
tôn giáo, Phật giáo và mục đích của các lễ hội  
truyền thống, để người dân hiểu cặn kẽ hơn,  
sâu rộng hơn, từ đó khắc phục tình trạng lệch  
chuẩn trong cách thức tiến hành lễ hội. Đặc  
biệt, phải hoàn chỉnh sự hiểu biết chung trong  
dân ở các vùng miền nếu không sẽ loạn chuẩn,  
lệch hướng. Nếu con người có tri thức về vấn  
đề gì đó sẽ có cách làm đúng mực.  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
21  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
- Cải cách về quy trình, thể thức ban hành các  
văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có việc  
sửa đổi bổ sung Luật Di sản văn hoá, nên đưa cụ  
thể vào phần sửa đổi nội dung luật cũ để người  
dân tiện theo dõi và thực thi luật. Tránh nhầm  
lẫn khi sử dụng, viện dẫn luật cho người dân.  
- Sớm ban hành những văn bản pháp quy,  
quy định cụ thể, chi tiết trong các hoạt động xã  
hội hoá các công trình di tích và quy định dịch  
vụ văn hoá trong các di tích Phật giáo riêng  
biệt. Về cơ bản, các cơ sở chùa chiền, thiền viện,  
thiền tự thờ Phật đều là sở hữu của Nhà nước  
và của toàn dân. Song hiện nay cũng có nhiều  
cơ sở Phật giáo do tư nhân đầu tư, nên chăng  
cần có khung pháp lý riêng để điều chỉnh,  
tránh hiện tượng tđạo diễnhoạt động lễ hội  
làm sai lệch mục đích chính, dẫn tới loạn chuẩn  
các lễ hội liên quan tới Phật giáo.  
- Cần giảm thiểu tối đa những thủ tục rườm  
rà, thiếu mục đích trong hoạt động bảo tồn và  
phát huy giá trị di tích, nhất là đầu tư tu bổ  
di tích. Trong đó cần chú ý tới việc rà soát lại  
những quy trình thủ tục quá chặt chẽ, song  
cũng không được quá lỏng lẻo nhằm đạt hiệu  
quả cao trong quản lý. Nếu ban hành những  
quy định về thủ tục quá chặt chẽ, dễ dẫn  
tới tình trạng người dân tìm cách “lách luật”  
hoặc không muốn di tích được công nhận ở  
bất kỳ cấp nào để “ngoài luật, để không bị  
điều chỉnh, tránh bị phiền hà với các cơ quan  
quản lý Nhà nước. Trong đời sống hàng ngày,  
người dân và doanh nghiệp phải tuân thủ rất  
nhiều quy định về thủ tục hành chính. Nhưng  
những thủ tục hành chính đang là rào cản đối  
với hoạt động chung và đời sống nhân dân,  
gây tốn kém, ảnh hưởng đến năng lực cạnh  
tranh kinh tế của các doanh nghiệp, nhất là  
doanh nghiệp hoạt động ngành đặc thù cần  
nguồn nhân lực chất lượng cao như ngành  
“tu bổ di tích.  
- Đặc biệt trong chính sách liên quan tới phát  
huy vai trò của văn hóa Phật giáo, Nhà nước cần  
phải tạo động lực để:  
+ Khuyến khích các hoạt động xã hội liên  
quan đến văn hoá Phật giáo, để từ đó mọi  
thành viên trong xã hội có thể đóng góp sức  
mình, kìm hãm hay hạn chế các mặt tiêu cực  
của xã hội;  
+ Đảm bảo cho sự cân đối, ổn định về mọi  
mặt của xã hội thông qua vai trò của văn hoá  
Phật giáo;  
+ Phát huy được mặt tích cực và hạn chế  
mặt tiêu cực của kinh tế thị trường;  
+ Tạo lập sự cân đối, phân phối nguồn lực  
trong văn hóa nói chung cho quá trình phát  
triển của đất nước;  
- Tập trung rà soát, kiểm tra, đánh giá lại các  
thủ tục hành chính đã ban hành, nhằm kịp thời  
chỉnh sửa, bổ sung, thay đổi hay loại bỏ thủ tục  
bất hợp lý. Tập trung trọng tâm vào các nhóm  
thủ tục có liên quan chính, nhằm đạt được  
mục tiêu và cần tập trung cải cách theo hướng  
thuận lợi, hiệu quả, tránh gây những rào cản  
không đáng có. Cụ thể như sau:  
+ Tạo lập môi trường thích hợp cho các yếu  
tố của nền kinh tế xã hội vận động như chúng  
ta thực hiện chính sách mở cửa tăng cường  
giao lưu và hợp tác kinh tế với thế giới;  
+ Dẫn dắt, hỗ trợ các hoạt động văn hoá  
Phật giáo theo định hướng, phối hợp các hoạt  
động của các ngành, các cấp để người dân  
nhận thức rõ giá trị của văn hoá Phật giáo với  
xã hội.  
Nhóm thủ tục liên quan đến chủ trương  
đầu tư tu bổ di tích;  
Nhóm thủ tục liên quan đến chuẩn bị đầu  
tư tu bổ di tích;  
- Nâng cao năng lực chuyên môn của các nhà  
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, các nhà chuyên  
môn chuyên ngành sâu, nhà quản lý  
Nhóm thủ tục liên quan đến quá trình thực  
hiện đầu tư;  
Đặc biệt về vấn đề đầu tư tu bổ và phục hồi  
di tích Phật giáo tác giả bài viết xin nêu giải  
pháp riêng cụ thể như:  
Nhóm thủ tục liên quan đến thanh quyết  
toán dự án đầu tư tu bổ di tích;  
+ Nâng cao năng lực quản lý chuyên môn  
của cơ quan chủ quản đầu tư trùng tu di tích  
Nhóm thủ tục liên quan đến quản lý, sử  
dụng và khai thác.  
22 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA  
Phật giáo (Cục di sản, Bộ VH TT&DL, Các sở ban  
ngành liên quan...);  
tuân thủ nghiêm túc các quy định của Luật di  
sản văn hóa, Quy chế Bảo quản, tu bổ và phục  
hồi di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng  
cảnh của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.  
+ Nâng cao năng lực quản lý của chủ đầu tư;  
+ Nâng cao chất lượng công tác tư vấn  
đầu tư;  
- Giải pháp hội nhập, giao lưu, giới thiệu di  
tích văn hoá Phật giáo  
+ Nâng cao hiệu quả tham gia của các nhà  
khoa học, các nhà nghiên cứu liên ngành có  
liên quan đến các giá trị văn hoá Phật giáo;  
Khai thác và phát huy giá trị di tích văn  
hóa Phật giáo để đưa vào hoạt động du lịch  
là việc làm cần thiết, nhưng phải kiểm soát  
đúng hướng. Chính quyền, người dân, doanh  
nghiệp khai thác du lịch cần liên kết với các  
hoạt động lễ hội tôn giáo của các cơ sở chùa  
chiền, thiền viện; xây dựng các chương trình  
du lịch, tuyến du lịch cụ thể, đến các di tích  
văn hóa Phật giáo và danh lam thắng cảnh  
trên các địa bàn gần nhau. Cần khuyến khích  
việc duy trì phong tục, tập quán lành mạnh,  
tốt đẹp của dân địa phương, các lễ hội truyền  
thống, bài trừ hủ tục có hại đến đời sống văn  
hóa của nhân dân; duy trì và phát huy các giá  
trị văn hóa ẩm thực (ăn chay), giá trị về trang  
phục truyền thống dân tộc, các tri thức dân  
gian; phục hồi và phát triển các nghề thủ công  
truyền thống có giá trị tiêu biểu quanh khu  
vực cơ sở di tích Phật giáo.  
+ Nâng cao chất lượng thi công tu bổ của  
các nhà thầu.  
Bên cạnh việc đòi hỏi chất lượng nguồn  
nhân lực, chúng ta cần thực hiện chính sách  
tài chính ưu đãi nguồn nhân lực “đặc thù”  
chất lượng cao trong hoạt động tu bổ và  
phục hồi các di tích lịch sử - văn hoá, nhằm  
bảo tồn và phát huy các giá trị di tích Phật  
giáo được tốt hơn.  
- Giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn tốt,  
đồng thời tránh can thiệp hành chính quá sâu.  
Ban hành chính sách quản lí, sử dụng các  
nguồn tài chính của các di tích Phật giáo như  
tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ... theo  
định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu  
của di tích Phật giáo cho việc tu bổ, tôn tạo  
di tích.  
- Ngoài những giải pháp cơ bản khắc phục  
hạn chế đã nêu, để đạt hiệu quả cao hơn trong  
hoạt động bảo tồn các di tích Phật giáo trong  
thời gian tới, chúng ta cần phải khắc phục một  
số vấn đề trực tiếp khác:  
Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành  
Trung ương để tìm nguồn vốn đầu tư cho tu  
bổ. Huy động nguồn lực trong cộng đồng dân  
cư, nhất là nhân dân địa phương để bảo tồn,  
phát huy giá trị di tích văn hóa Phật giáo. Có  
hình thức khen thưởng xứng đáng cho những  
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đóng góp tích  
cực đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị  
các di tích Phật giáo hiện nay.  
+ Chú trọng nâng cao năng lực các đơn vị  
chuyên tư vấn trong hoạt động bảo quản, tu  
bổ và phục hồi các di tích Phật giáo, cũng như  
các đơn vị tư vấn, thiết kế quy hoạch, lập dự  
án, quản lý dự án, giám sát thi công, tư vấn liên  
ngành… Lực lượng này hiện nay quá mỏng,  
thiếu chuyên môn cao, không chuyên nghiệp  
theo đúng nghĩa;  
- Tăng cường công tác thanh, kiểm tra các  
hoạt động liên quan đến di tích Phật giáo  
Đẩy mạnh công tác quản lí, giám sát và  
định hướng hoạt động bảo tồn, khai thác các  
di tích văn hóa Phật giáo. Cần triển khai có  
hiệu quả phân cấp về quản lí các di tích văn  
hóa Phật giáo, phân công chuyên viên quản,  
giám sát hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di  
tích văn hóa Phật giáo.  
+ Khắc phục tình trạng thiếu các đơn vị, cá  
nhân kiểm tra, thẩm tra độc lập, thẩm tra dự  
án bảo tồn tu bổ di tích Phật giáo, trước khi  
chuyển cho các cơ quan quản lý Nhà nước  
thẩm định, phê duyệt;  
Công tác quản lí di tích Phật giáo nên có cơ  
chế quản lí mang tính chuyên biệt trên sơ sở  
+ Khắc phục tình trạng phân cấp, giao chủ  
đầu tư cho địa phương (cấp huyện, xã) nhưng  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
23  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
chưa có sự chuẩn bị về mặt đội ngũ có chuyên  
môn. Cán bộ chuyên môn văn hoá ở địa  
phương đa phần kiêm nhiệm nhiều công việc,  
ở cấp xã chỉ có 1 công chức văn hoá phụ trách  
chung, dẫn tới chất lượng chuyên môn và hiệu  
quả công tác tu bổ di tích Phật giáo yếu kém;  
hóa: Sản xuất văn hóa, công nghiệp văn hóa  
và thị trường văn hóa. Những hình thức mới  
của sáng tạo văn hóa này có tác động đa chiều  
tới cả sự sáng tạo cá nhân lẫn sự hưởng thụ  
của đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, nền công  
nghiệp văn hóa vốn coi trọng lợi ích kinh tế sẽ  
tạo áp lực không thể tránh khỏi giữa một bên  
những mục tiêu văn hóa cơ bản nhất và một  
bên là tính chất thị trường; hoặc giữa một bên  
là những quan tâm có tính thương mại và một  
bên là mong muốn một nội dung phản ánh được  
sự phong phú, đa dạng của bản sắc văn hóa.  
Do đó, trong văn hóa càng bộc lộ những xu  
hướng biến đổi phức tạp và những diễn biến  
vượt tầm kiểm soát (như những hiện tượng sai  
lệch, biến tướng đã nêu trên).  
+ Giảm thiểu và tiến tới bỏ sự can thiệp của  
chính quyền các cấp vào hoạt động chuyên  
môn sâu trong bảo quản, tu bổ và phục hồi các  
di tích Phật giáo (can thiệp mang tính lợi ích cá  
nhân, lợi ích nhóm);  
+ Khắc phục sự thiếu hiểu biết của những  
vị trụ trì hay của cộng đồng địa phương có di  
tích Phật giáo. Những đối tượng này đã trực  
tiếp làm sai lệch các yếu tố gốc di tích theo lối  
áp đặt, khiến các bộ phận chuyên môn mất  
vai trò;  
Dù thích ứng với công nghệ tiên tiến, thế  
giới văn minh không biện hộ cho việc phá bỏ  
những chuẩn mực và những quy tắc chung  
trong bản sắc văn hóa Việt.  
+ Cần tổ chức quản lý vốn xã hội hoá chặt  
chẽ, đồng bộ, phân bổ vốn đúng mục đích, tập  
trung vào tu bổ yếu tố gốc, hạng mục di tích cần  
được tu bổ cấp thiết; không tập trung xây dựng  
các hạng mục mới ở di tích, làm phá vỡ cảnh  
quan di tích (nếu thấy không quá cần thiết);  
Do vậy, muốn bảo tồn và phát huy giá trị  
các di tích văn hóa nói chung, di tích văn hóa  
Phật giáo nói riêng trong bối cảnh hiện nay,  
đòi hỏi chúng ta phải đổi mới quy trình sáng  
tạo văn hóa, đổi mới thể chế và chính sách  
văn hóa. Đặc biệt, cần phải khắc phục những  
hạn chế yếu kém mà lâu nay chúng ta đã vấp  
phải trong quá trình tu bổ, tôn tạo hay bảo  
tồn phát triển thiếu đồng bộ các di tích Phật  
giáo nói riêng và di tích là di sản của Quốc gia  
nói chung.  
+ Tránh việc các địa phương làm sai nguyên  
tắc trong đầu tư bảo tồn di tích, điều chuyển  
vốn không đúng mục tiêu, không có nguồn  
đối ứng, làm ảnh hưởng tiến độ, hiệu quả đầu  
tư khi Nhà nước có điều kiện đầu tư vốn;  
+ Khắc phục tình trạng phối kết hợp giữa  
địa phương với Bộ chủ quản trong công việc  
không đồng bộ, từ việc ban hành cơ chế chính  
sách đến thực hiện việc chỉ đạo điều hành;  
Chúng ta cần phải chú trọng tới các giải  
pháp tạo động lực cho sự phát triển, mở rộng  
mọi nguồn lực vào phát triển văn hóa của đất  
nước nói chung, văn hóa Phật giáo nói riêng,  
trong đó phát triển con người mới là nhiệm vụ  
hàng đầu và trung tâm. Cần tạo lập chính sách  
văn hóa vì sự tiến bộ của con người trong cơ  
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  
nghĩa ở thời kỳ CNH, HĐH của nước ta. Phát  
triển con người mới phải biết đối mặt với tác  
động của quá trình toàn cầu hóa, mà qua đó,  
những vấn đề của xã hội hậu công nghiệp tin  
học và hậu hiện đại sẽ có những ảnh hưởng  
vừa tích cực vừa tiêu cực. Cần phải tạo dựng,  
nuôi dưỡng mạch nguồn văn hóa mang sắc  
+ Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát,  
giám sát, tránh mang tính hình thức, thiếu  
đồng bộ, kết quả không cao;  
+ Tăng cường công tác tuyên truyền giáo  
dục về công tác tu bổ, tôn tạo di tích Phật giáo  
mang ý nghĩa tích cực. Tránh tình trạng báo chí  
hạn chế thông tin hay đưa tin chưa thật sự xác  
thực nguồn thông tin, làm dư luận phản ứng.  
Thay cho lời kết  
Hiện nay, trong sự tác động và ảnh hưởng  
của kinh tế thị trường, của quá trình CNH,  
HĐH, trên đất nước ta cũng đã và đang ra  
đời những hình thức mới của sự sáng tạo văn  
24 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA  
8. Học viện Hành chính Quốc gia (2009), Giáo  
trình Quản lý nhà nước về Tôn giáo và Dân tộc,  
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.  
thái văn hóa riêng của Việt Nam để đối trọng  
với bối cảnh toàn cầu hóa (đồng nghĩa với  
nhất thể hóa về văn hóa của những nền văn  
hóa dựa trên nền tảng kinh tế và công nghệ  
mạnh), học tập cha ông ta, đã từng lấy Phật  
giáo để dị biệt với Nho, Đạo trong những buổi  
đầu bị áp đặt đồng hóa văn hóa Hán. Những  
đòi hỏi về đa văn hóa là phản ứng chung có  
tính quốc tế chứ không chỉ của Việt Nam, đòi  
hỏi này phát khởi từ châu Âu chống lại cái gọi  
là văn hóa Mc Donald.  
9. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử  
luận, Nxb. Văn học, Hà Nội.  
10. Võ Kim Sơn (2001), Quản lý học đại cương,  
Học viện Hành chính Quốc gia HCM, Hà Nội.  
11. Lưu Trần Tiêu (2011), Mấy vấn đề về hoạt  
động tu bổ, phục hồi di tích Lịch sử - Văn hóa, Tạp  
chí Di sản Văn hóa, số 36, tr.03 - 07.  
12. Lưu Trần Tiêu (2012), Mấy vấn đề về nguồn  
nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích Lịch sử -  
Văn hóa, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 40, tr.17 - 21.  
Hiện nay, bảo tồn và phát huy giá trị các di  
tích văn hóa nói chung, di tích văn hóa Phật  
giáo nói riêng về bản chất là ý chí, quan điểm  
và định hướng, tạo điều kiện cơ bản để quản  
lý văn hóa của đất nước với tư cách là phương  
tiện hiệu quả nhằm thiết lập cuộc sống tốt  
đẹp, phát triển một nền văn hóa lành mạnh.  
Tất cả được thể hiện qua các công cụ như: Luật  
liên quan đến văn hóa, cơ chế tài chính, dân  
chủ hóa, phân cấp phân quyền, sự liên thông  
khoa học công nghệ và marketing.  
123 Chu Quang Trứ (2011), Chùa Việt Nam  
mảnh đất của sự giao lưu và phát triển văn hóa  
dân tộc, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.  
Ngày nhận bài: 1 - 9 - 2017  
Ngày phản biện, đánh giá: 13 - 9 - 2017  
Ngày chấp nhận đăng: 30 - 9 - 2017  
N.X.H  
(Trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội)  
Tài liệu tham khảo  
1. Đặng Văn Bài (2008), Nhận diện để phát huy  
giá trị di sản văn hoá Phật giáo Việt Nam, Tạp chí  
Di sản văn hóa, số 2 (23), tr.7 - 12.  
2. Trần Lâm Biền (1990), Phật giáo và văn hóa  
dân tộc, Nxb. Hà Nội.  
3. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb. Văn  
hoá - Thông tin Hà Nội, Hà Nội.  
4. Nguyễn Văn Đáng (2007), Quản lý dự án đầu  
tư xây dựng, Nxb. Xây dựng, Hà Nội.  
5. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn, đồng chủ  
biên (2014), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến  
trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị  
Quốc gia, Hà Nội.  
6. Nguyễn Quốc Hùng (2004), Tầm nhìn tương  
lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ di tích  
ở nước ta, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 09, tr.3 - 10.  
7. Nguyễn Quốc Hùng (2015), Về công tác  
quản lý di sản văn hoá ở nước ta hiện nay, Tạp chí  
Văn hoá học, số 21, tr. 30 - 37.  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
25  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 9 trang yennguyen 30/03/2022 6420
Bạn đang xem tài liệu "Một số nguyên nhân của sự “lệch chuẩn” và giải pháp khắc phục trong bảo tồn phát huy giá trị di tích Phật giáo Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_nguyen_nhan_cua_su_lech_chuan_va_giai_phap_khac_phuc.pdf