Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa

LÝ LUẬN VĂN HÓA  
KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC ĐỜI SỐNG VĂN HÓA  
TRẦN ĐỨC NGÔN  
Tóm tắt  
Nếu coi văn hóa là tổng thể thì môi trường văn hóa là một phần của tổng thể ấy bao quanh con  
người trong một không gian và thời gian nhất định. Đời sống văn hóa là sự chiếm lĩnh của con người  
đối với môi trường văn hóa thông qua các hoạt động cụ thể để từ đó hình thành nhân cách.  
Mỗi cá nhân có một đời sống văn hóa riêng. Tuy nhiên, đời sống văn hóa cá nhân khi đi theo cùng  
một xu hướng thì sẽ hình thành đời sống văn hóa cộng đồng.  
Về cấu trúc tồn tại, đời sống văn hóa có thể được phân chia thành hai cấp độ: Cấu trúc bề mặt là  
diện mạo của đời sống văn hóa. Cấu trúc bề sâu là bản chất của đời sống văn hóa. Hai cấu trúc này  
tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Trong mỗi cấu trúc, các thành tố cũng đều có mối quan hệ biện chứng.  
Từ khóa: Đời sống văn hóa, cấu trúc bề mặt, cấu trúc bề sâu  
Abstract  
If culture is considered as the whole, the cultural environment is one part of the whole that surrounds  
people in a certain space and time. Cultural life is the occupation of people in the cultural environment  
through the specific activities from which to form personality.  
Each individual has a particular cultural life. However, the individual cultural life in the same trend  
will lead to community cultural life.  
Regarding the structure of existence, cultural life can be divided into two levels: Surface structure  
is the face of cultural life. Deep structure is the essence of cultural life. These two structures affect each  
other. In each structure, elements also have a dialectical relationship.  
Keywords: Cultural life, surface structure, deep structure  
1. Đời sống văn hóa trong sự phân biệt với  
các khái niệm khác có liên quan  
huật ngữ “Đời sống văn hóa, những  
năm gần đây xuất hiện khá nhiều  
1.1. Đời sống và đời sống văn hóa  
T
trong các công trình nghiên cứu về  
Hiểu theo góc độ sinh học, đời sống chính  
là sự sống đang diễn ra (nói cách khác, là quá  
trình tồn tại của một cơ thể sống). Mọi sinh  
vật, trong đó có con người đều có quá trình  
sống (tồn tại gắn liền với sự vận động tự thân  
từ bên trong đến bên ngoài cơ thể) trong một  
khoảng thời gian nhất định. Quá trình ấy gọi là  
đời sống, song đó chủ yếu là đời sống sinh học.  
văn hóa đương đại. Khái niệm “Đời sống văn  
hóa” chưa được định hình. Có nhiều ý kiến rất  
khác nhau, song nhìn chung, sự phức tạp là ở  
chỗ, các nhà nghiên cứu chưa tách bạch được  
khái niệm đời sống văn hóa với các khái niệm  
khác như đời sống, văn hóa, môi trường văn  
hóa v.v...  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
5
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Con người khác với các loài động vật ở chỗ  
không chỉ có đời sống sinh học. Nét đặc thù  
của đời sống mỗi con người là sống không  
tách rời mối quan hệ với những người khác.  
Động vật trong tự nhiên cũng có những mối  
quan hệ với nhau (quan hệ sinh sản, quan hệ  
bầy đàn, quan hệ đấu tranh sinh tồn…) nhưng  
đó vẫn là những mối quan hệ tự nhiên, được  
thực hiện thông qua những phản xạ tự nhiên  
có hoặc không có điều kiện; còn đối với con  
người, đây là những mối quan hệ xã hội, tức  
những mối quan hệ được dẫn dắt bằng ý thức.  
Vì vậy, con người muốn tồn tại, phải tham gia  
vào hai loại hoạt động: hoạt động sinh học và  
hoạt động xã hội. Các hoạt động sinh học bảo  
đảm sự sống cho con người (ăn, uống, thức,  
ngủ, đi lại, suy nghĩ, nói năng). Khác hẳn với  
các loài động vật, con người, ngay từ giai đoạn  
đầu tiên của lịch sử phát triển, đã có nhu cầu  
giao tiếp với nhau, nghĩa là có nhu cầu liên kết  
để tăng thêm sức mạnh. Chính sự giao tiếp  
ngày càng phong phú, phức tạp đã tạo nên xã  
hội. Suy cho cùng, xã hội là sự tập hợp những  
con người giao tiếp với nhau theo những mối  
quan hệ đa chiều. Hoạt động xã hội không chỉ  
dừng lại ở giao tiếp. Con người, ngoài giao tiếp  
hàng ngày, còn tham gia vào các quá trình xã  
hội như quá trình di cư, quá trình lao động,  
quá trình chiến đấu v.v…, trong đó có một quá  
trình mà con người tham gia rất thường xuyên,  
đó là quá trình văn hóa (tức quá trình thỏa mãn  
những nhu cầu tinh thần). Ví dụ, cũng là ăn,  
mặc, ở nhưng không phải chỉ để bảo tồn sự  
sống mà còn để thỏa mãn nhu cầu tinh thần  
như ăn ngon, mặc đẹp, ở sang trọng. Những  
nhu cầu tinh thần này không phải ngay từ đầu  
đã được thỏa mãn, con người phải có cả một  
quá trình, thậm chí là lâu dài, gian khổ mới đạt  
tới được.  
học, con người không thể tồn tại nhưng nếu  
thiếu đời sống văn hóa, con người không thể  
phát triển và nâng cao chất lượng sống.  
1.2. Văn hóa và đời sống văn hóa  
Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh  
thần do con người sáng tạo ra. Đây là một định  
nghĩa chung nhất đã được nhiều người thừa  
nhận. Tuy nhiên, khi đã hình thành rồi thì văn  
hóa có thể tồn tại trong con người và cũng  
có thể tồn tại ngoài con người. Theo sự phân  
chia tương đối, văn hóa vật chất thường tồn  
tại bên ngoài con người (như những sản phẩm  
vật chất mà con người sáng tạo ra: công cụ lao  
động, phương tiện sinh hoạt, công trình nghệ  
thuật tồn tại ở dạng vật chất …), văn hóa tinh  
thần thường tồn tại bên trong con người (như  
lễ nghi, tập tục, các hình thức văn hóa ngôn  
từ...). Đời sống văn hóa nằm trong phạm vi của  
văn hóa tinh thần. Tuy vậy, không phải toàn  
bộ văn hóa tinh thần là đời sống văn hóa. Có  
những bộ phận (hoặc yếu tố) của văn hóa tinh  
thần không tham gia vào đời sống văn hóa. Ví  
dụ, tôn giáo, tín ngưỡng là một bộ phận của  
văn hóa tinh thần. Song, đối với những người  
không theo một tôn giáo, tín ngưỡng nào thì  
trong đời sống văn hóa của người đó không  
có sự chi phối (hay tham gia) của tôn giáo, tín  
ngưỡng ấy. Ví dụ, không phải mọi người đều  
theo đạo Tin Lành mặc dù đạo này đã hiện hữu  
ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX (khoảng 1884).  
Trong đời sống văn hóa của đa số người dân  
Việt Nam hơn một thế kỷ qua, không hiện hữu  
đạo Tin Lành. Như vậy, muốn có đời sống văn  
hóa ở một phương diện nào thì con người phải  
tác động vào các yếu tố văn hóa ở phương  
diện ấy hoặc bị các yếu tố văn hóa ở phương  
diện ấy tác động, nghĩa là con người phải tham  
gia vào các hoạt động văn hóa thì mới có đời  
sống văn hóa. Chỉ khi con người tác động vào  
các thành tố nhất định của văn hóa thì mới tạo  
nên những hiệu ứng trở lại và chính những  
hiệu ứng này làm nên đời sống văn hóa. Ví dụ  
trên là nói tới một yếu tố văn hóa tinh thần.  
Qua đây, ta cũng thấy có sự khác biệt giữa văn  
hóa và đời sống văn hóa. Cùng với văn hóa  
Như vậy, đời sống văn hóa là một bộ phận  
của đời sống xã hội của con người, thể hiện  
chất lượng sống của con người. Đời sống văn  
hóa hình thành muộn hơn đời sống sinh học  
nhưng dần dần đã trở thành quan trọng không  
kém gì đời sống sinh học. Thiếu đời sống sinh  
6
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
LÝ LUẬN VĂN HÓA  
tinh thần, văn hóa vật chất, tuy tồn tại ngoài  
con người nhưng không phải vì thế mà không  
tham gia vào đời sống văn hóa. Nếu con người  
tác động vào một bộ phận nào đó của nó thì  
lập tức, những yếu tố tinh thần của bộ phận  
này cũng trở thành phương diện tương ứng  
của đời sống văn hóa. Ví dụ, một thiết chế văn  
hóa (như đình, đền, thư viện, bảo tàng v.v…),  
nếu đứng độc lập với con người, không có mối  
liên hệ nào với con người thì mặc dù ở rất gần  
con người, cũng không thể trở thành đời sống  
văn hóa; tuy nhiên, nếu những thiết chế này  
được con người sử dụng hoặc tham gia vào  
những hoạt động của chúng thì chúng trở  
thành những yếu tố của đời sống văn hóa.  
không thể đồng nhất văn hóa với môi trường  
văn hóa.  
Đời sống văn hóa được hình thành trong  
môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa tồn  
tại khách quan ngoài con người, là khách thể  
của con người, còn đời sống văn hóa lại nằm  
bên trong con người, là chất lượng sống của  
con người. Không phải tất cả các thực thể, hiện  
tượng, quá trình văn hóa bao quanh con người  
(môi trường văn hóa) đều có thể trở thành  
đời sống văn hóa. Vì là chủ thể văn hóa, con  
người bao giờ cũng có sự lựa chọn khi đứng  
trước môi trường văn hóa. Đây là điều rất  
quan trọng. Sau sự lựa chọn đó, con người mới  
quyết định tương tác với môi trường văn hóa.  
Các yếu tố của môi trường văn hóa chỉ khi tác  
động vào con người hoặc con người tác động  
vào chúng để gây hiệu ứng trở lại thì khi đó  
chúng mới được coi là nằm trong đời sống văn  
hóa. Mỗi người có thể lựa chọn những yếu tố  
này một cách khác nhau để tạo nên đời sống  
văn hóa riêng cho mình. Cũng có trường hợp  
môi trường văn hóa tương đối thống nhất với  
đời sống văn hóa khi con người tiếp nhận gần  
giống nhau các yếu tố văn hóa của môi trường  
này và sử dụng chúng như là những phương  
tiện để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trong  
nhiều trường hợp khác, không có sự đồng  
nhất, bởi con người (chủ thể văn hóa) luôn  
luôn có sự lựa chọn như đã nói ở trên. Suy cho  
cùng thì môi trường văn hóa là điều kiện để  
hình thành đời sống văn hóa, nó chi phối đời  
sống văn hóa của mỗi con người và các yếu tố  
của nó chỉ tham gia vào đời sống văn hóa trong  
những trường hợp được con người lựa chọn.  
Đời sống văn hóa, nếu quan niệm theo nghĩa  
rộng thì đó là toàn bộ những yếu tố văn hóa hiện  
hữu trong đời sống con người. Hiểu theo nghĩa  
biện chứng hơn, đời sống văn hóa chính là sự  
tương tác giữa văn hóa và con người (quá trình  
con người tác động vào văn hóa và quá trình  
văn hóa tác động, thâm nhập vào con người).  
Khi con người tác động vào văn hóa là lúc con  
người sáng tạo ra văn hóa và làm biến đổi văn  
hóa; khi văn hóa tác động vào con người là lúc  
hình thành nhân cách. Như vậy, đời sống văn  
hóa là sự gắn bó giữa văn hóa và con người  
theo mối quan hệ hai chiều. Điều đó cũng có  
nghĩa là những yếu tố văn hóa không gắn với  
con người (kể cả văn hóa vật chất và văn hóa  
tinh thần) thì không trở thành đời sống văn  
hóa. Như vậy, con người không gắn với toàn  
bộ văn hóa nói chung mà thường gắn với một  
môi trường văn hóa cụ thể.  
1.3. Môi trường văn hóa và đời sống  
văn hóa  
1.4. Đời sống tinh thần và đời sống văn  
hóa tinh thần  
Đây là hai khái niệm dễ nhầm lẫn với nhau.  
Trước hết, môi trường văn hóa là một khái  
niệm hẹp hơn khái niệm văn hóa, được hiểu là  
toàn bộ các thực thể, hiện tượng, quá trình văn  
hóa (trong đó bao gồm cả các giá trị văn hóa)  
bao quanh con người. Không phải tất cả các  
yếu tố của văn hóa đều tham gia vào việc hình  
thành một môi trường văn hóa cụ thể. Do đó,  
Hai khái niệm này cũng rất gần nhau bởi  
đời sống văn hóa chủ yếu là đời sống tinh  
thần. Tuy nhiên, chúng không phải là đồng  
nhất. Khái niệm đời sống tinh thần rộng hơn  
khái niệm đời sống văn hóa, nó là toàn bộ  
những biểu hiện tâm lý của con người, khẳng  
định con người là một thực thể sống trong  
những mối tương quan xã hội nhất định. Toàn  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
7
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
bộ nhận thức, tư tưởng, tình cảm là đời sống  
tinh thần nhưng không phải tất cả trong đó  
đều là đời sống văn hóa. Chỉ khi nào những  
nhận thức, tư tưởng và tình cảm này hướng tới  
các giá trị và chuẩn mực thì khi đó chúng mới  
trở thành đời sống văn hóa. Việc hướng tới  
các giá trị và chuẩn mực thường chiếm vị trí  
quan trọng, cốt lõi trong đời sống tinh thần  
của con người.  
Vì vị trí quan trọng, cốt lõi này mà khi nói tới  
đời sống văn hóa, người ta thường hiểu đó là  
đời sống văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, do vậy  
mà ở đây lại xuất hiện thêm một câu hỏi: có  
đời sống văn hóa tinh thần thì liệu có đời sống  
văn hóa vật chất không? Nếu có thì đây chỉ là  
một sự phân biệt rất tương đối. Cái gọi là “đời  
sống văn hóa vật chất” thực ra là sự thụ hưởng  
những giá trị tinh thần khi con người tương tác  
với những yếu tố vật chất bao quanh mình (điều  
kiện sống, sinh hoạt và làm việc, gọi chung  
là phương tiện sống). Ví dụ, khi tương tác với  
nhà ở (điều kiện sống), con người không chỉ  
sử dụng như một không gian để tồn tại mà  
còn thụ hưởng ở đó những giá trị thẩm mỹ do  
chính mình tạo tác nên. Cũng như vậy, quần áo  
dùng để che thân nhưng điều người ta hướng  
tới là những vẻ đẹp sang trọng của nó. Tục ngữ  
có câu: “Người đẹp vì lụa. Ca dao cũng có câu:  
“Hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra mình  
trần ai cũng như ai. Đó cũng là những giá trị,  
chuẩn mực tinh thần. Như vậy, đời sống văn  
hóa tinh thần và đời sống văn hóa vật chất,  
nếu có sự phân biệt thì chỉ khác nhau ở chỗ,  
một bên trực tiếp gắn với những phương tiện  
sống của con người, còn một bên thì gắn với  
những phương diện khác của môi trường văn  
hóa. Tất cả những sự phân biệt trên là để đi tới  
một định nghĩa về đời sống văn hóa.  
hóa m, ô, i, tr, ư, ờ, ng, vh bao quanh con người.  
Khi con người tác động vào các yếu tố này  
(biểu thị bằng đỉnh nhọn của hình tam giác  
hướng về phía m, ô, i, …) thì sẽ gây hiệu ứng  
trở lại (biểu thị bằng đáy hình tam giác hướng  
về phía con người). Toàn bộ các hình tam giác  
biểu thị đời sống văn hóa của con người.  
Nhìn vào sơ đồ, ta có thể thấy đời sống văn  
hóa tạo nên diện mạo của đời sống con người,  
nó tham gia vào quá trình sống và tạo nên  
chất lượng sống.  
Sơ đồ trên cũng thể hiện vai trò vô cùng  
quan trọng của môi trường văn hóa đối với  
sự hình thành đời sống văn hóa. Thiếu môi  
trường văn hóa thì không thể hình thành được  
đời sống văn hóa.  
Điều quan trọng ở đây là những hiệu ứng  
xảy ra do quá trình tương tác giữa con người  
với môi trường văn hóa (thể hiện bằng những  
hình tam giác trong sơ đồ). Hiệu ứng này làm  
cho những yếu tố của môi trường văn hóa  
không chỉ xuất hiện trên bề mặt (tạo nên diện  
mạo của đời sống văn hóa) mà còn “hằn sâu”  
lên con người, tạo nên phẩm chất người, thẩm  
thấu vào chiều sâu của nhân cách.  
Như vậy, đời sống văn hóa có bề mặt và  
có bề sâu. Bề mặt là những hoạt động tương  
tác giữa con người với môi trường văn hóa,  
bề sâu là những giá trị văn hóa thẩm thấu vào  
con người.  
1.5. Định nghĩa đời sống văn hóa  
Sơ đồ sau đây có thể giúp cho việc định  
nghĩa đời sống văn hóa được dễ dàng hơn.  
Trong sơ đồ này, con người là chủ thể của  
đời sống văn hóa, được biểu thị bằng hình tròn  
ở giữa. Môi trường văn hóa là các yếu tố văn  
Qua phân tích ý nghĩa của sơ đồ, chúng tôi  
đi tới định nghĩa sau về đời sống văn hóa:  
8
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
LÝ LUẬN VĂN HÓA  
Đời sống văn hóa là kết quả của hoạt động  
tương tác giữa con người với môi trường văn  
hóa, tạo nên diện mạo cũng như chiều sâu của  
đời sống tinh thần con người, thể hiện chất  
lượng sống và góp phần hình thành nhân cách.  
văn hóa không ngừng, không nghỉ. Sự tiếp  
nhận ấy chỉ dừng lại khi trái tim ngừng đập và  
sự sống kết thúc. Văn hóa được con người tiếp  
nhận từ nhiều nguồn, trên nhiều phương diện,  
theo nhiều thành tố khác nhau. Tuy nhiên, mỗi  
con người, tùy theo diện tiếp xúc của mình với  
môi trường văn hóa mà có sự tiếp nhận rộng,  
hẹp, nhiều, ít. Thậm chí, cùng sống chung  
trong một môi trường văn hóa, những người  
khác nhau cũng có sự tiếp nhận văn hóa khác  
nhau. Nguyên nhân có thể do trình độ, do khả  
năng hoặc do sở thích. Như vậy, sự tiếp nhận  
văn hóa của con người có tính đa dạng, tức có  
sự khác nhau trong mỗi trường hợp. Đó là đời  
sống văn hóa cá nhân. Bên cạnh đời sống văn  
hóa cá nhân, còn có đời sống văn hóa cộng  
đồng (sẽ được nói tiếp ở phần sau).  
2. Cấu trúc của đời sống văn hóa  
2.1. Cấu trúc bề mặt (diện mạo) của đời  
sống văn hóa  
Trong mối quan hệ giữa con người và văn  
hóa thì con người luôn ở trạng thái chủ động  
sáng tạo ra văn hóa và chủ động truyền bá  
văn hóa; ngược lại, văn hóa cũng không phải  
ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn tác động trở  
lại con người, dẫn đến quá trình thay đổi của  
chính con người. Xét theo mối quan hệ trên, có  
thể thấy rằng khi nào con người thực hiện các  
hoạt động văn hóa thì khi đó con người có đời  
sống văn hóa. Hoạt động văn hóa rất đa dạng,  
con người có khả năng tham gia vào tất cả  
các lĩnh vực văn hóa, do đó, đời sống văn hóa  
cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể khái quát  
các hoạt động văn hóa thành ba nhóm: các  
hoạt động tiếp nhận - hưởng thụ văn hóa; các  
hoạt động thực hành - truyền bá văn hóa; và  
các hoạt động sáng tạo văn hóa. Ba nhóm hoạt  
động này luôn có mối quan hệ mật thiết với  
nhau: con người có thể vừa sáng tạo vừa thực  
hành - truyền bá hoặc vừa tiếp nhận - hưởng  
thụ vừa thực hành - truyền bá, trong quá trình  
thực hành - truyền bá cũng đồng thời có tiếp  
nhận - hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Ba  
nhóm hoạt động này có thể được coi là đã bao  
quát được toàn bộ các hoạt động văn hóa đa  
dạng và thể hiện được tương đối đầy đủ cấu  
trúc bề mặt (diện mạo) của đời sống văn hóa.  
Có hai loại tiếp nhận văn hóa. Loại thứ nhất  
là tiếp nhận bị động, nghĩa là văn hóa tác động  
đến con người một cách tự nhiên. Ví dụ, hàng  
ngày, mỗi con người phải giao tiếp, ứng xử với  
đồng loại. Những ứng xử đẹp của đồng loại đã  
được người đó tiếp nhận một cách tự nhiên  
và trở thành văn hóa ứng xử của chính mình.  
Khi tham gia giao thông, mọi người đều nghe  
tiếng loa tuyên truyền về văn hóa giao thông.  
Con người đã tiếp nhận sự tuyên truyền này  
một cách bị động để chuyển nó thành văn hóa  
cá nhân hay văn hóa cộng đồng.  
Loại thứ hai là tiếp nhận chủ động. Con  
người có nhu cầu cần được tiếp nhận văn hóa  
(hoặc cần được thỏa mãn những nhu cầu văn  
hóa) nên đã chủ động lựa chọn một số yếu tố  
có sẵn trong môi trường văn hóa. Có hai lý do  
dẫn đến nhu cầu lựa chọn:  
- Các hoạt động tiếp nhận - hưởng thụ  
văn hóa:  
Lý do thứ nhất là công việc. Mỗi nghề  
nghiệp đều cần có văn hóa riêng; mỗi cương  
vị (địa vị) xã hội cũng cần có văn hóa riêng. Mỗi  
người ở nghề nghiệp nào, cương vị nào thì đều  
có nhu cầu tiếp nhận văn hóa trong phạm vi  
nghề nghiệp, cương vị đó. Con người phải tự  
tìm đến các nguồn văn hóa mà mình lựa chọn  
để tiếp nhận, lý do đơn giản là nếu không có  
sự tiếp nhận này thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn,  
Con người luôn tiếp nhận các yếu tố văn  
hóa từ chính môi trường sống của mình. Ngay  
từ khi mới sinh ra, con người đã có sự tiếp  
nhận này. Tiếng hát đưa nôi là yếu tố văn hóa  
đầu đời đã góp phần làm cho mỗi con người  
“lớn lên” và trở thành một nhân cách văn hóa.  
Trong suốt cuộc đời mình, con người tiếp nhận  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
9
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
thậm chí không thể làm việc được. Một ví dụ  
đơn giản: người làm nghề kinh doanh trong cơ  
chế thị trường, nếu không biết cách ứng xử với  
khách hàng (hoặc ứng xử với khách hàng như  
ở thời bao cấp) thì chắc chắn sẽ làm ăn thua lỗ.  
Vì vậy, trong môi trường văn hóa kinh doanh,  
anh ta buộc phải tiếp nhận văn hóa ứng xử  
trong kinh doanh của đồng nghiệp.  
chỉ diễn ra khi cá nhân hoạt động riêng biệt.  
Rất nhiều thực hành văn hóa khác do nhiều  
cá nhân đảm nhiệm, có sự liên hệ, gắn kết  
với nhau. Trong những trường hợp này, các  
cá nhân học hỏi lẫn nhau, bắt chước lẫn nhau  
và như thế là có sự truyền bá văn hóa. Chỉ cần  
một người múa và một người xem là đã có sự  
truyền bá văn hóa rồi. Trong thực tế, truyền bá  
văn hóa diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, gắn liền với  
các hoạt động thực hành văn hóa. Vì thế, đây  
cũng là một thuật ngữ kép: Thực hành - truyền  
bá văn hóa.  
Lý do thứ hai là sở thích cá nhân. Mỗi người  
đều có sở thích riêng như nghe nhạc, xem  
phim, đi du lịch. Anh ta cần được thỏa mãn và  
chủ động đi tìm sự thỏa mãn. Trường hợp này  
được gọi là sự hưởng thụ văn hóa. Đây cũng là  
một dạng của tiếp nhận chủ động. Đặc trưng  
loại biệt của nó là ở chỗ tạo ra được sự hưng  
phấn hay là sự khoái cảm văn hóa. Như vậy,  
hưởng thụ văn hóa là một phần (hay một bộ  
phận) của tiếp nhận văn hóa. Tiếp nhận-hưởng  
thụ văn hóa vì thế được xem như là một thuật  
ngữ kép.  
- Các hoạt động sáng tạo văn hóa:  
Hoạt động sáng tạo văn hóa là một hoạt  
động đặc thù, tạo nên những yếu tố văn hóa  
mới hoặc tạo nên chất lượng mới cho văn hóa,  
làm biến đổi văn hóa. Con người đã sáng tạo  
ra các nền văn hóa. Tuy nhiên, những nền văn  
hóa này phải hàng nghìn năm mới có được. Vì  
thế, sáng tạo văn hóa là sự nghiệp lâu dài, bền  
bỉ của con người và trở thành thuộc tính bản  
chất nhất của đời sống văn hóa. Tiếp thu văn  
hóa, thực hành văn hóa là để sáng tạo văn hóa.  
Sáng tạo văn hóa thể hiện tính năng động và  
sức mạnh của đời sống văn hóa. Sáng tạo văn  
hóa có hai loại: cải tiến (cải biên) cái cũ và sáng  
tạo ra cái mới. Trong cải tiến (cải biên) cái cũ  
đã ít nhiều có sự sáng tạo cái mới rồi nhưng  
chưa làm thay đổi hoàn toàn diện mạo, bản  
chất của cái cũ. Chính vì thế mà văn hóa luôn  
luôn có tính kế thừa và những truyền thống cũ  
luôn được bảo lưu, trường tồn qua nhiều thế  
hệ. Việc sáng tạo ra cái mới lại mang ý nghĩa  
nhảy vọt, tạo sự cách tân so với truyền thống,  
làm cho văn hóa tiếp cận với văn minh và trở  
thành văn minh.  
- Các hoạt động thực hành - truyền bá  
văn hóa:  
Thực hành văn hóa là sự tái hiện các hình  
thức văn hóa bằng (hoặc thông qua) các hoạt  
động của con người. Thực hành văn hóa diễn ra  
thường xuyên trong đời sống. Mỗi con người,  
trong cuộc đời mình, đều ít nhiều tham gia các  
thực hành văn hóa. Có ba loại thực hành văn  
hóa: thực hành văn hóa tâm linh, thực hành  
văn hóa sinh hoạt và thực hành văn hóa lao  
động. Thực hành văn hóa tâm linh được thể  
hiện qua các nghi lễ mang tính thiêng. Văn hóa  
sinh hoạt là một lĩnh vực hỗn hợp, bao gồm  
trong đó nhiều thành phần khác nhau. Có thể  
nói, ngoại trừ văn hóa tâm linh và văn hóa lao  
động, những cái còn lại đều có thể xếp vào văn  
hóa sinh hoạt. Có thể kể ra một số hình thức  
của văn hóa sinh hoạt như văn hóa giao tiếp  
- ứng xử, văn hóa vui chơi, giải trí, nghệ thuật,  
văn hóa thời trang và ẩm thực v.v… Còn thực  
hành văn hóa lao động là thực hành về phương  
diện kỹ thuật, mỹ thuật để tạo ra sản phẩm.  
Sau hoạt động sáng tạo văn hóa, đương  
nhiên là có sản phẩm văn hóa. Sự ra đời của  
sản phẩm văn hóa tác động trở lại đối với con  
người, thỏa mãn nhu cầu của con người, làm  
cho đời sống văn hóa của con người thêm  
phong phú. Sự sáng tạo văn hóa là vô hình  
nhưng sản phẩm văn hóa lại hữu hình (có thể  
nhận biết được). Vì thế, khi nói đến sáng tạo  
văn hóa, không thể bỏ qua sản phẩm văn hóa.  
Thực hành văn hóa thường gắn liền với  
truyền bá văn hóa. Thực hành văn hóa độc lập  
10 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
LÝ LUẬN VĂN HÓA  
2.2. Cấu trúc bề sâu của đời sống văn hóa  
Hai là, những tình cảm hướng tới sự cao  
thượng, cao cả, hướng tới những điều lớn lao  
mà con người hằng mơ ước. Ví dụ: tình yêu quê  
hương, đất nước; lòng căm thù giặc xâm lăng;  
tình yêu vượt lên trên hận thù v.v… Những  
tình cảm đó trở nên có giá trị đối với nhiều  
người và trở thành những tình cảm chung  
của cộng đồng.  
Sở dĩ gọi các yếu tố dưới đây là các yếu tố  
thuộc cấu trúc bề sâu của đời sống văn hóa bởi  
vì chúng hoàn toàn vô hình, chỉ cảm nhận được  
mà không thể nhận thức được bằng tri giác.  
- Các giá trị nhận thức: Đó là hệ thống  
tri thức, kinh nghiệm sống (hay vốn sống)  
thể hiện sự từng trải của con người. Mỗi con  
người, trong quá trình sống, đều có những trải  
nghiệm riêng. Thông qua những sự kiện diễn  
ra trong cuộc đời, mỗi con người thường rút ra  
cho mình những bài học cần thiết. Những bài  
học này có giá trị đối với bản thân anh ta song  
cũng có thể có giá trị đối với người khác. Như  
vậy, giá trị của nhận thức chính là giá trị của tri  
thức, kinh nghiệm sống.  
Các yếu tố ở cấp độ sâu tạo nên nhân cách  
văn hóa của con người.  
Mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc cấu trúc  
bề mặt và các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu là  
mối quan hệ biện chứng. Các yếu tố thuộc cấu  
trúc bề mặt là sự biểu hiện (thể hiện) các yếu  
tố thuộc cấu trúc bề sâu (chỉ thông qua hoạt  
động, người ta mới có thể hiểu và đánh giá  
được nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một  
người hay một nhóm người như thế nào); điều  
đó cũng có nghĩa rằng, các yếu tố thuộc cấu  
trúc bề mặt có tác dụng làm hình thành các  
yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu. Ví dụ: tình cảm  
nhớ về cội nguồn sẽ được hình thành nhờ  
những hoạt động thờ cúng tổ tiên hay những  
hoạt động tôn vinh công lao của các bậc tiền  
nhân. Ngược lại, những yếu tố thuộc cấu trúc  
bề sâu, sau khi đã hình thành rồi, lại đóng vai  
trò chi phối các yếu tố thuộc cấu trúc bề mặt.  
Ví dụ, triết lý sống “Thương người như thể  
thương thân, sau khi hình thành như một giá  
trị tinh thần trong con người thì có thể làm gia  
tăng những hoạt động từ thiện hoặc những  
hoạt động mang tính phi lợi nhuận.  
- Các giá trị tư tưởng: Như trên đã nói, con  
người luôn luôn suy nghĩ nhưng không phải  
mọi suy nghĩ đều tạo nên giá trị. Quá trình nhận  
thức dẫn đến việc hình thành một hệ thống  
quan niệm trong con người. Những quan niệm  
này chi phối các chiều hướng suy nghĩ của anh  
ta và khẳng định sự đúng, sai của nhận thức.  
Con người sẽ tiếp tục suy nghĩ theo hướng mà  
mình cho là đúng. Đây chính là các giá trị của  
tư tưởng bởi chúng không phải là những suy  
nghĩ thông thường, tản mạn mà là những suy  
nghĩ tập trung, mang tính định hướng, thể hiện  
một quan niệm sống hay lẽ sống.  
- Các giá trị tình cảm: Đã là con người thì  
đương nhiên có đời sống tình cảm. Hỷ, nộ, ái, ố  
(vui mừng, tức giận, yêu, ghét) là những trạng  
thái tình cảm thông thường. Những tình cảm  
này khi nào thì trở thành văn hóa? Có thể xem  
xét vấn đề theo hai hướng sau đây:  
3. Đời sống văn hóa cá nhân và đời sống văn  
hóa cộng đồng  
3.1. Đời sống văn hóa cá nhân  
Mỗi cá nhân chỉ tác động đến một số yếu tố  
văn hóa nhất định trong môi trường văn hóa.  
Số yếu tố văn hóa này là khác nhau ở những cá  
nhân khác nhau. Vì thế đời sống văn hóa của  
từng cá nhân sẽ không giống nhau. Nguyên  
nhân của vấn đề được giải thích như sau:  
Một là, những tình cảm (thông qua các  
trạng thái biểu hiện) tạo nên được mối quan  
hệ bền chặt giữa con người với con người.  
Chúng làm cho mối quan hệ ngày càng trở  
nên tốt đẹp hơn. Người ta gọi đó là những  
tình cảm đẹp. Nhà thơ Xuân Diệu viết: “Được  
giận hờn nhau sung sướng bao nhiêu. Khi đó,  
những tình cảm trở nên có giá trị đối với con  
người và trở thành văn hóa.  
Thứ nhất, do môi trường văn hóa khác  
nhau. Các cá nhân sống cách xa nhau về mặt  
địa lý thường rơi vào trường hợp này. Có thể có  
NGHIÊN CỨU  
Số 21 - Tháng 9 - 2017  
11  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
những môi trường văn hóa khác nhau nhiều  
như môi trường văn hóa ở các nước phương  
Đông so với phương Tây; cũng có những môi  
trường văn hóa gần nhau như ở các vùng trên  
cùng một lãnh thổ.  
phú. Mỗi cá nhân có một đời sống văn hóa  
riêng. Tuy nhiên, đời sống văn hóa cá nhân khi  
đi theo cùng một xu hướng thì sẽ hình thành  
đời sống văn hóa cộng đồng.  
Về cấu trúc tồn tại, đời sống văn hóa có thể  
được phân chia thành hai cấp độ: cấu trúc bề  
mặt và cấu trúc bề sâu. Cấu trúc bề mặt là diện  
mạo của đời sống văn hóa. Cấu trúc bề sâu là  
bản chất của đời sống văn hóa. Hai cấu trúc  
này tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Trong mỗi  
cấu trúc, các thành tố cũng đều có mối quan  
hệ biện chứng.  
Thứ hai, do sự lựa chọn tự thân của các cá  
nhân, trong đó bao hàm việc đáp ứng các nhu  
cầu nghề nghiệp và sở thích. Điều này đã được  
phân tích kỹ ở các mục trên.  
3.2. Đời sống văn hóa cộng đồng  
Các cá nhân trong một cộng đồng có thể  
cùng tác động vào một số yếu tố của môi  
trường văn hóa. Điều này gây hiệu ứng chung  
cho cả cộng đồng, tạo nên đời sống văn hóa  
cộng đồng. Tuy nhiên, giữa cộng đồng này  
và cộng đồng khác, đời sống văn hóa cũng  
không giống nhau. Nguyên nhân là ở chỗ mỗi  
cộng đồng có trường tác động riêng đối với  
các yếu tố của môi trường văn hóa.  
T.Đ.N  
(PGS.TS., Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐHVH HN)  
Tài liệu tham khảo  
1. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), Đời sống văn  
hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Văn hóa  
học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.  
Thực ra, trong cộng đồng ấy, đời sống văn  
hóa của mỗi cá nhân ít nhiều đã có sự khác  
nhau nhưng nhìn tổng thể thì có sự đồng  
thuận trên những nét cơ bản. Đời sống văn  
hóa cộng đồng được hình thành trên cơ sở các  
cá nhân cùng sống trong một môi trường văn  
hóa, ở một mức độ hình thành sâu hơn là cùng  
nghề nghiệp, sâu hơn nữa là cùng sở thích. Tuy  
nhiên, khái niệm đời sống văn hóa cộng đồng  
chỉ mang ý nghĩa tương đối bởi một đời sống  
văn hóa đồng chất (trăm người như một) là  
không thể có được.  
2. Nguyễn Thị Phương Lan (2004), Về khái  
niệm đời sống văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ  
thuật (số 12/2004).  
3. Trần Chí Mỹ (2002), Xây dựng đời sống văn  
hóa tinh thần ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai  
đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện  
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.  
4. Hoàng Vinh (1995), Tổ chức xây dựng đời  
sống văn hóa ở cơ sở, trong sách: Đường lối văn  
hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.  
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
4. Kết luận  
Đời sống văn hóa cần được xem xét trong  
mối quan hệ không thể tách rời với văn hóa và  
môi trường văn hóa. Nếu coi văn hóa là tổng  
thể thì môi trường văn hóa là một phần của  
tổng thể ấy bao quanh con người trong một  
không gian và thời gian nhất định. Đời sống  
văn hóa là sự chiếm lĩnh của con người đối với  
môi trường văn hóa thông qua các hoạt động  
cụ thể để từ đó hình thành nhân cách.  
Ngày nhận bài: 11- 8 - 2017  
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 9 - 2017  
Ngày chấp nhận đăng: 30 - 9 - 2017  
Do văn hóa là một hiện tượng phức tạp, từ  
đó môi trường văn hóa cũng phức tạp theo  
nên đời sống văn hóa luôn đa dạng, phong  
12 Số 21 - Tháng 9 - 2017  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 1620
Bạn đang xem tài liệu "Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkhai_niem_va_cau_truc_doi_song_van_hoa.pdf