Rồng/rắn/nước - Chim/tiên/cạn: Thân tộc huyền thoại Thái
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC
RỒNG/RẮN/NƯỚC - CHIM/TIÊN/CẠN: THÂN TỘC HUYỀN THOẠI THÁI
Nguyễn Mạnh Tiến
Nhận bài:
15 – 04 – 2020
Tóm tắt: Nghiên cứu này tiến hành xử lý, phân tích các nguồn tư liệu về Thái, trong đó, quan trọng là
Chấp nhận đăng:
10 – 09 – 2020
nguồn tư liệu thực địa. Qua đấy, chỉ ra được sự phổ biến của huyền thoại rồng - tiên tồn tại trong các
cộng đồng cư dân Thái, gồm: Thái Tây Bắc và Thái ở miền núi Thanh - Nghệ. Từ đó, nghiên cứu đi đến
kết luận về sự phổ quát của của huyền thoại rồng tiên trong quốc gia Việt Nam đa tộc người.
Từ khóa: Thái; Việt; Mường; Huyền thoại rồng - tiên.
xung đột, đã đòi hỏi triều Lê hướng đến một sự tạo
dựng, tìm kiếm một ý thức hệ chung, xuyên thấu giữa
các khối người. Giả thuyết của nghiên cứu này là truyện
1. Dẫn nhập
Thế kỷ XV, như đã biết, có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng với số phận huyền thoại rồng tiên khi lần đầu
họ Hồng Bàng chính là một giải pháp hữu hiệu kết nối
các tập đoàn người đầy mâu thuẫn của Đại Việt thế kỷ
Hán văn quan trọng nhất đối với lịch sử, văn hóa quốc
XV: những người Việt ở châu thổ sông Hồng được đào
luyện sâu đậm về cảm quan Hán hóa, những người Việt
châu thổ sông Mã, sông Cả phiêu lưu, tự do ở vùng biên
hóa vốn rất nổi trội trong quan sát Việt Nam là tiền đề
viễn giữ nhiều tính chất Đông Nam Á; người Mường
tiên được người Việt văn bản hóa trong những ấn phẩm
gia1. Sự tranh luận về nguồn gốc Việt hay Hán của
truyện kể huyền thoại này, tức ứng xử với mô hình Hán
quen thuộc, trải dài suốt từ trung đại và bùng nổ trong
thời hiện đại. Một hướng khác, muộn hơn bắt đầu từ thế
kỷ XX, nhằm pha loãng tính chất Trung Hoa trong văn
trong các vùng núi thấp, vùng đồi miền trung du Tây
Bắc đến Thanh - Nghệ đầy chủ động và những người
Thái rộng lớn, gồm nhiều khối (cũ là Tày và mới là
hóa Việt Nam, truyện kể được mở rộng diễn giải như
Thái) trải dài vùng núi giáp biên giới Trung Hoa và Ai
Lao qui thuộc vào bản đồ Đại Việt muộn hơn. Soi mình
hình Đông Nam Á hay văn hóa bản địa tồn tại không chỉ
vào huyền thoại rồng tiên, về những đấng sinh thành
một thành tố cội nguồn văn hóa đa tộc người, thuộc mô
ở Việt mà cả ở những tộc người rất gần gũi như Mường.
chung mà từ đó sinh ra nhân dân, các tập đoàn người
Thế kỷ XV, cũng là thời điểm mà quốc gia Đại Việt
thành công trong việc mở rộng lãnh thổ lên các xứ Thái,
tương ứng cơ bản với phần địa lý Thái thuộc Tây Bắc và
tây Thanh - Nghệ ngày nay. Đại Việt vì thế, trong bối
cảnh thế kỷ XV, là quốc gia của các tập đoàn người
đông đảo gồm Việt và Mường (những người nói ngôn
ngữ Việt - Mường) và Tày và Thái (những người nói
ngôn ngữ Tai). Lê Thánh Tông đối diện với một quốc
gia mới mà cương vực rộng lớn với nhiều khối người có
các động cơ chính trị không thuần nhất, thường xuyên
đều thấy bóng dáng thân tộc của mình trong ấy. Và
truyện kể được đưa vào chính sử quốc gia, đó là hành vi
chuẩn định hóa thành ý thức hệ quốc gia chung với ý
nhiệm nhân dân cùng chung tiên tổ, chất kết dính tưởng
tượng duy trì Đại Việt như một tập hợp anh em, cùng
máu huyết huyền thoại, cao quí và vĩ đại2.
1Nổi bật, được biết đến quen thuộc với tên gọi Truyện họ
Hồng Bàng trong Ngoại kỷ Đại Việt sử ký toàn thư và Lĩnh
Nam trích quái.
2Chủ đề này, sẽ được tôi trình bày chi tiết trong một
chuyên khảo sắp xuất bản. Một phiên bản giản lược, đại quan
có thể xem (M. T. Nguyễn, 2020). Nghiên cứu này là sự đào
sâu và chi tiết về huyền thoại rồng tiên trong cộng đồng Thái ở
Việt Nam, vấn đề hầu như không được các học giả người Việt
*
Tác giả liên hệ
Nguyễn Mạnh Tiến
Viện Văn học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Email: manhtiensh@gmail.com
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số Đặc biệt (2020), 165-173 |165
Nguyễn Mạnh Tiến
Lịch sử diễn giải về sự tương hợp huyền thoại Việt
với Mường3 là lấn át so với Thái. Rất ít nghiên cứu đã
chỉ ra sự tương thích của vũ trụ luận Thái với truyện họ
Hồng Bàng. Mặc dù thế, điều ấy không có nghĩa là
huyền thoại về nguồn gốc của Thái xa lạ với các kinh
nghiệm truyện họ Hồng Bàng. Trái lại, huyền thoại Thái
chứa đựng một phiên bản khác về truyện kể cặp tổ tiên
khởi nguyên rồng/rắn - tiên/chim.
Tày - Thái5, Cầm (1987) đã chỉ ra khởi nguyên thân tộc
Thái là sự kết hợp của chim én - loài chim biểu tượng
của linh hồn đẳm pú (đàn ông, phía cha) và thuồng
luồng, loài rắn lớn sống dưới nước và có thể lên cạn
biểu tượng của đẳm nái (đàn bà, phía mẹ). Cặp biểu
tượng chim/nam - rắn/nữ là cặp biểu tượng phôi thai
gắn với tín ngưỡng linh hồn Thái. Từ đó, dần nảy sinh
các cộng đồng thân tộc khác (Cầm Trọng gọi là các
cộng đồng totem) của Thái. Đáng chú ý, Cầm (1987) có
một phụ chú mang tính chỉ mục khi nói rõ, thoạt tiên,
người ta ngỡ rằng huyền thoại Thái với cặp
cha/chim/tiên - mẹ/rắn/thuồng luồng là ngược với huyền
thoại Việt là mẹ/chim/tiên - cha/rồng/rắn (rồng nước
cũng là thuồng luồng). Thực ra, Cầm Trọng nhấn mạnh,
đây là môtip hoàn toàn thống nhất, vì cơ bản, nguyên lý
của nó là biểu tượng của hai thị tộc lưỡng hợp. Khi đã
lưỡng hợp thì trai bên rắn lấy gái bên tiên (như Việt), và
có thể diễn ra tiến trình ngược lại (như Thái) (Cầm,
1987, 161-162).
2. Rồng/Rắn/Nước - Chim/Tiên/Cạn: thân tộc
huyền thoại Thái Tây Bắc
Cầm Trọng là học giả đã nhận ra, và nỗ lực chứng
minh bằng các giả thuyết để khớp nối tính chính danh
của Thái như là một thành viên khởi nguyên từ/thuộc
Hồng Bàng thị truyện. Học giả Thái quan trọng này
dường như đã làm một sự tổng hợp ngược với tổ tiên thế
kỷ XV, khi cố gắng chứng minh, huyền thoại Thái là
tương thích với huyền thoại rồng - tiên của người Việt,
mà trong thời hiện đại, đã đồng nhất với quốc gia Việt
Nam4. Dựa trên các dữ liệu folklore Thái, đúng hơn là
Đến công trình tiếp theo (Cầm & Phan, 1995), Cầm
Trọng dành hẳn một chương (Chương II) để thực hiện ý
và quốc tế biết đến. Trong đấy, nghiên cứu chú trọng dữ liệu
huyền thoại rồng tiên vùng Thái miền núi Thanh Hóa với những
tư liệu thực địa của chính tôi trong khoảng từ 2016 - 2020. Vùng
Thanh Hóa là đất mà tập đoàn Việt - Mường - Thái thời Lam
Sơn khởi nghĩa đã nổi dậy, chiến đấu và chiến thắng.
3Lịch sử vấn đề khá phong phú, xem: Tư liệu Đông
Dương, quan trọng, phải kể đến Cuisinier (1946), với truyện
kể về Ngu Cơ và Lương Vương; sau 1945, cộng đồng các học
giả miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, đáng chú ý với các nghiên
cứu của (Nguyễn, Đ. C., 1956; Trần & Nguyễn, 1965), và sau
này, [Từ Chi] (Trần T., 1996); các tiểu luận đáng chú ý về sau,
ít nhất gồm: Nguyễn Thị Huế (1982); (Phan & Phan, 1991) in
lại trong (Phan, 2000); ở ngoài Việt Nam, đáng chú ý với các
học giả Nga: Nikulin (2006) và gần đây, một nghiên cứu của
Grigoreva (2015).
những bàn luận về phân ngành Đen - Trắng của Thái, được
xác nhận từ các tộc người bên ngoài, nhất là tộc Tạng - Miến
cư trú cạnh Thái ở bắc Việt Nam. Điều mà, đến các công trình
về sau, sẽ được diễn giải ngoặt hẳn sang một hướng khác, khi
khớp nối Trắng - Đen, như là cặp Chim - Rồng từ huyền thoại.
Công trình lớn thứ hai của Cầm Trọng, năm 1987, Mấy vấn đề
cơ bản về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại người Thái Tây Bắc
Việt Nam, dưới một cái tên rất chung chung, nhưng thực chất,
chứa đựng một tham vọng lớn của Cầm Trọng, cơ bản là
nghiên cứu hệ thống thân tộc Thái. Chính trong công trình
này, huyền thoại về thân tộc khởi nguyên Rắn - Chim ở Thái,
chính xác hơn, ở các tộc người thuộc ngữ hệ Tai-Kadai (hay
Tày – Thái như cách gọi trước đây ở Việt Nam) được khớp
nối và cấp cho ý nghĩa vũ trụ luận nền tảng của tộc người.
4Theo dõi sự nghiệp Thái học của Cầm Trọng, mà ngay
đối với nhà chuyên môn cũng rất dễ bị trượt đi mối chú tâm
của Cầm Trọng vào sự tổng hợp tính chính danh cho huyền
thoại rồng - chim ở người Thái. Các trước tác của ông, chứa
đựng một khối lượng đồ sộ những thông tin phức tạp và hấp
dẫn về Thái, các bàn luận về rồng - tiên, không tập trung mà
tản mác ra nhiều tác phẩm. Trong công trình đầu tiên, cũng có
thể nói là quan trọng nhất của Cầm Trọng năm 1978 Người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam, công trình dân tộc chí này, không
thấy nói đến huyền thoại rồng - tiên ở Thái. Đáng chú ý,
Có một điều thú vị cần chú ý, cũng cuối năm 1987, Cầm
Trọng công bố một nghiên cứu chung với nhà sử học nổi danh
Trần Quốc Vượng về chính vấn đề này (Q. V. Trần, & Cầm,
1987). Khó có thể khẳng định chắc chắn, nhưng có lẽ Trần
Quốc Vượng, với sự phiêu lưu thường thấy của các so sánh sử
học có lẽ đã ảnh hưởng ít nhiều đến các diễn giải trong chuyên
khảo năm 1987 của Cầm Trọng.
5Cách gọi phổ biến trước đây ở Việt Nam, chỉ các tộc
người nói ngôn ngữ Tai ở Việt Nam, mà đông nhất là người
Thái và Tày, Nùng hiện nay.
166
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số Đặc biệt (2020), 165-173
đồ tổng hợp sự thống nhất văn hóa các tộc Tày - Thái
hiện nay là diễn ra từ thời các vua Hùng và Thục An
Dương Vương được phản ánh trong thần thoại Lĩnh
Nam chích quái. Chỉ mục này, như thế, rõ ràng cố gắng
gắn các vấn đề Tày - Thái với vua Hùng, và Thục An
Dương Vương, cấp cho các triều đại huyền thoại, bán sử
này những ý nghĩa lớn lao, không nằm ngoài ý đồ tổng
hợp cho tính chính danh và cao cả của thời đại Hùng
Vương như là một nỗ lực lớn trong chủ nghĩa dân tộc
của các học giả mác-xít khoảng nửa sau thế kỷ XX6. Sự
“thống nhất”, mà nói chính xác hơn sự gần gũi của các
cư dân Tày - Thái, hay những tộc nói ngôn ngữ Tai ở
khắp Đông Nam Á (gồm cả nam Trung Hoa) là một vấn
đề rộng lớn hơn mà biên giới các vua Hùng huyền thoại
chỉ là một thành tố. Điều đáng quan tâm là, trong nghiên
cứu của mình, dựa trên giả thuyết về phân ngành Đen -
Trắng của người Thái7, Cầm Trọng đã chỉ ra được
những mảnh vỡ cho thấy, cộng đồng cư dân Tày - Thái
ở Việt Nam đã có những kinh nghiệm thần thoại khá
tương đồng với thần thoại người Việt.
Nhóm Thái Đen từ lâu đã coi mình là con cháu nòi
Rồng ở nước. Nhóm Thái Trắng thì xem mình như là
hậu duệ của Chim ở cạn. Sách chữ Thái miêu tả kỹ về
“cõi linh hồn người” là Páo Khuôn ghi rằng “hồn âm
vật là loài rồng ở nước”, còn “hồn dương vật là loài
chim én”. Người Nùng nhận mình là Người áo đen (Cần
Slửa Đăm) - thuộc dòng Đen. Người Tày tự nhận mình
là Người áo trắng (Cần Slửa Khao) - thuộc dòng Trắng.
Sự phân đôi ngành Tày - Thái ở Đông Nam Á khá
phong phú, nhưng chúng ta cần lưu ý đến sự phân chia
hai ngành Thái Nước và Thái Cạn (Vân Nam Trung
Quốc). Nước - Cạn ở người Thái chính là Biển - Núi ở
người Việt. Từ đấy, Cầm Trọng đưa đến sơ đồ giả
thuyết về cội nguồn văn hóa Thái trong sự phân chia hai
ngành như sau (Cầm & Phan, 1995, 26-28):
6Trường hợp Cầm Trọng là khá thú vị. Học giả Thái này,
có nguồn gốc xuất thân là quí tộc ngành Thái Đen, chính “quá
khứ” của giai cấp thống trị ấy, dường như, đã góp vào “thúc
đẩy” Cầm Trọng “nhiệt tình hơn” với “nhiệm vụ” chứng minh
sự tồn tại có thực và vững chắc về thời đại Hùng Vương.
7Mặc dù, chưa dễ chấp nhận tính vững chắc của giả
thuyết phân ngành Thái là Đen - Trắng ở Cầm Trọng nói
chung, bởi mấy lý do: 1. Giả thuyết phân ngành Đen - Trắng
này, chỉ là một trong nhiều giả thuyết về phân ngành Thái
thành Đen - Trắng như đã biết. Đồng thời, trong công trình
quan trọng đầu tiên của Cầm (1978), phân ngành Đen - Trắng
lại đến từ giả thuyết là sự nhìn nhận các tộc người bên ngoài
Thái nhìn về Thái, nhất là những người nhóm Tạng - Miến,
vạch biên giới Đen - Trắng cho các cộng đồng Thái thâm nhập
vào vùng đất của họ. Như thế, giả thuyết phân ngành Đen -
Trắng như là biểu đạt Rồng - Chim chỉ là một trong nhiều giả
thuyết của chính Cầm Trọng. 2. Đồng thời, sự phân chia Thái
thành Đen - Trắng ở Việt Nam, dường như, chưa thực chặt
chẽ. Sự phân ngành này, được thừa nhận rộng rãi ở trong
nước, mà khung Đen - Trắng nới rất rộng. Tuy thế, Thái học
quốc tế lại nhìn nhận ở Việt Nam, ít nhất, còn có khu vực Thái
Đỏ. Sự lãng quên, làm mờ đi ngành Thái Đỏ, như có học giả
nhận định, chỉ thấy diễn ra ở Việt Nam. Đất của ngành
Như thế, huyền thoại về tổ tiên Tày - Thái cổ như là
một sự kết hợp của Rồng - nước và Chim - cạn chi phối
mọi quan hệ thân tộc nền tảng. Mở rộng và chi tiết, Cầm
Trọng dẫn thêm một sơ đồ:
Thái Đỏ, một phần lớn chính là đất của người Thái Thanh
Hóa, lực lượng của quân Lam Sơn.
Dù sao, cần nhấn mạnh, không dễ đồng tình với Cầm
Trọng về phân ngành Thái Việt Nam là hai ngành Đen -
Trắng, nhưng ở đây, nghiên cứu này chỉ sử dụng các tri thức
trong huyền thoại Tày - Thái kết nối vào biểu tượng Rồng -
Chim khởi nguyên để thấy được Hồng Bàng thị truyện thực
chất là một sự tổng hợp nhiều yếu tố “bản địa”, ở các tộc
người - quyền lực nhất làm thành cấu trúc chính trị xã hội tộc
người Đại Việt thế kỷ XV.
167
Nguyễn Mạnh Tiến
tiên ngành Thái Đen8. Người Thái, theo truyện kể dân
gian và văn hóa của họ, cũng đội ơn rùa, nên người Thái
Đen Tây Bắc treo hình nộm rùa lên đầu cột gọi là Xau
hẹ (cột thiêng). Sự tương đồng ấy là đáng ghi nhận,
nhưng dù sao vẫn chưa đủ giữ chân sự thận trọng trong
các phân tích, bởi, sự tương đồng của các mảnh đoạn
truyện kể các tộc người, nhất là các tộc người gần nhau
về mặt văn hóa như Việt - Thái - Mường đều trồng lúa
nước là không khó tìm ra điểm tương đồng nếu được
tiến hành so sánh. Dù sao đi nữa, thì Cầm Trọng đã giúp
chúng ta nhận thấy mấu chốt quan trọng nhất, ở các tộc
người Tày - Thái, trong nhiều huyền thoại về nguồn gốc
của họ, mà nổi tiếng hơn cả chính là truyện quả bầu,
ngoài ra, còn có các lớp kể huyền thoại về tổ tiên khởi
nguyên là sự kết hợp của hai dòng họ Rồng/Rắn -
Tiên/Chim.
Việc chứng minh tính rộng lớn của quan niệm hôn
phối nguồn cội Rồng - Chim ở Tày - Thái, được dẫn
giải bởi Cầm Trọng, như ta sẽ thấy, là để dẫn đến một ý
đồ quan trọng hơn nữa của ông phía sau, đó chính là:
một bộ phận của người Tày - Thái cổ, “từ mấy ngàn
năm trước” sẽ là tổ tiên của Việt cổ, tức tổ tiên của Kinh
- Mường (Cầm & Phan, 1995, 35). Hậu thuẫn cho quan
niệm của Cầm Trọng từ các nghiên cứu ngôn ngữ học,
với việc phát hiện ra các yếu tố Tày - Thái trong tiếng
Việt như quan điểm của Maspero, hay từ ngôn ngữ,
Phạm Đức Dương chỉ ra văn hóa lúa nước Việt bén rễ
của văn hóa lúa nước Tày - Thái (xem cụ thể: (Cầm &
Phan, 1995, 35) và toàn chương II). Và giờ đây, Cầm
Trọng trong một công trình viết chung với một nhà dân
tộc học/quan chức Phan Hữu Dật, muốn bồi đắp, minh
chứng thêm, cho sự kết nối Việt - Mường như là một
thành tố của khối Tày - Thái trong chính huyền thoại
khởi nguyên cặp kết hợp thân tộc nguyên cội, thần thoại
Rồng – Chim. Điều này, thể hiện dưới ngay chính sơ đồ
tổng hợp sau (Cầm & Phan, 1995, 45).
Ngu Háu hay Ngưu Hống - chỉ người Thái Đen Tây
Bắc, từ rất sớm đã bước vào chính sử người Việt, ngay
từ những ngày đầu lập quốc, tập đoàn này đã sang triều
cống Đại Việt đầu thời Lý (1067). Sử tâm linh Thái Đen
Tây Bắc, như một tự sự cuối đời của Cầm Trọng: “loài
rồng ở nước là biểu tượng mẹ tổ. Trải qua
Sự mở rộng các yếu tố Tày - Thái nằm trong huyền
thoại Việt/Kinh được Cầm Trọng tiếp tục lấn sang các
cấp độ tương đồng của truyện kể dân gian và biến âm
ngôn ngữ học. Những gợi ý như từ truyện Thục Phán
xây Loa thành, nhận sự trợ giúp của rùa vàng - biến thể
khác của cha rồng ở nước, tương tự ở người Thái là
rồng ở nước cũng biến thể thành hổ mang (ngu háu), tổ
8Hổ mang là loài rắn cạn, nhưng trong huyền thoại Thái
lại xuất hiện từ nước, trú ngụ ở ao Nong Luông (trung tâm
Chiềng Ly, Thuận Châu) (Cầm & Phan, 1995, 41). Thủ lĩnh
Lò Lẹt về sau trưng dụng biểu tượng có sắn này, vật chất hóa
dựng làm hiệu kỳ để tập hợp sức mạnh tổng thể người Thái.
168
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số Đặc biệt (2020), 165-173
ngàn năm lịch sử, rồng đã biến thành thần tượng rắn hổ
mang tức Ngu Háu. Cho dù rắn này là loài sống trên
cạn, nhưng người Thái Đen lại đặt nó trong sự biến
thiên từ loài rồng, nên thần tượng Ngu Háu (hổ mang)
vẫn không thoát ly khỏi không gian tâm linh nước. Có
lẽ cũng từ tâm linh đó, thời Lò Lẹt đã xuất hiện lá cờ
đuôi nheo màu đen tượng trưng nước, xung quanh viền
vải đỏ cắt lượn sóng. Ở giữa là hình tượng rắn hổ mang
(Ngu Háu) trắng, trong tư thế đương bơi trong lòng
nước. Trên đầu rắn có mào đỏ uốn hình vòng bay về
phía sau. Mắt rắn cắt tròn điểm vào như một dấu chấm
đỏ trên phần đầu, nhỏ nhẹ. Không biết vào thời Lò Lẹt,
người ta đã sử dụng lá cờ này như thế nào? Trước cách
mạng tháng Tám năm 1945, lúc tác giả 10 tuổi, vẫn còn
thấy người ta dựng lá cờ này trong các gian thờ cúng tổ
tiên ở các nhà sàn quý tộc đứng đầu châu mường:
Thuận Châu, Mường La (thị xã Sơn La) và Mai Sơn;
hoặc còn dựng trong miếu thờ cụ chủ Lò Lẹt ở khu gò
Đon Cang phía đầu ao lớn Mường Muổi. Lá cờ ấy vẫn
mang tên truyền thống tâm linh cụ chủ Hổ mang (Pú
chảu Ngu háu). Theo chu kỳ năm, vào dịp lễ hội Xên
mường, người ta dựng ngọn cờ này tại mặt tiền của bàn
cỗ lớn "cúng thần mường". Trong dịp ấy lá cờ như được
dịp tung bay trước gió, hoà cùng tiếng cong mường,
chiêng cồng, chũm chọe rộn ràng một cuộc múa xoè
vòng tập thể, thật vui thay.” (Cầm, 2015).
mơng đaư chăng mi khoăn lông khoăn nhinh tăm lở”)
(Chu & Cầm, 2005, 17-18).
3. Rồng/Rắn/Nước - Chim/Tiên/Cạn: thân tộc
huyền thoại Thái Thanh - Nghệ
Những phân tích của Cầm Trọng về huyền thoại
rồng - chim của người Thái, dù không chỉ rõ nguồn địa
lý đính kèm, nhưng đôi khi như chính tên gọi của
chuyên khảo viết chung mang tính cẩm nang Văn hóa
Thái Việt Nam (Cầm & Phan, 1995), nghĩa phát ra của
nó, trong những trường hợp này nghiễm nhiên đại diện
cho tổng thể người Thái ở Việt Nam. Thực chất, với
những quan sát dân tộc học bám sát thực địa, người ta
chỉ có thể chấp nhận các dữ liệu phân tích của Cầm
Trọng tương hợp hơn với diện trường người Thái ở Tây
Bắc, điều mà chính Cầm, (1978, 1987) cũng nhận thấy
khi trong các chuyên khảo viết riêng của ông, bao giờ
tên các chuyên khảo cũng chỉ nguồn cụ thể Thái [ở] Tây
Bắc. Cộng đồng Thái ở Việt Nam, khái niệm này có cơ
sở để tồn tại nhưng cũng cần được hiểu một cách uyển
chuyển. Thái vốn không đơn thuần chỉ là một khối
“cộng đồng dân tộc Thái” có tính đơn nhất, xuyên thấu,
mà vốn là nhiều cộng động văn tự với các truyền thống
văn hóa, lịch sử nhiều khác biệt9. Bởi thế, thông qua hệ
thống dẫn liệu dân tộc học, các phân tích của Cầm
Trọng rõ ràng không mang tính đại diện cho Thanh -
Nghệ, nhất là vùng Thái Thanh Hóa - đất sinh thành
đoàn quân Lam Sơn năm nào.
Diễn giải kiểu Cầm Trọng, về sau, tiếp tục được tái
sản xuất, củng cố, nối dài, nhân bản thêm quyền lực tự
sự Rồng - Tiên trong cư dân Thái (Cầm, 2005; Hoàng,
2015, 160-171). Trong một công trình Cầm Trọng tham
gia cùng Chu Thái Sơn mang tính giới thiệu tổng quan
về Thái Việt Nam cung cấp thêm/lại dữ kiện củng cố
tâm thức Thái duy trì vững chắc niềm tin mẹ - chim -
cạn/núi và cha - rồng - nước. Ở mường Lay, truyện kể
người Thái trắng nơi đây, hàng năm vào tháng 5 âm
lịch, thần chim én ở hang núi cao, hóa rồng cái, đào đất
thành ống dẫn ngầm xuống cõi nước dẫn rồng đực lên
ngọn núi bên cạnh để hợp đôi. Vì thế, Chiềng Vai trung
tâm mường Lay xưa người ta chọn hai ngọn núi để đặt
tên tạo và nàng nằm bên bờ sông Đà, “chứa đựng linh
hồn đất - nước” của mường. Mở đầu đám cưới người
Thái trắng ở Phong Thổ, khi ông mối cất lời bài Mối
nàng (Xứ nang) có câu: “…Tìm đến hang sâu ở đất
mường nào mới có loài chim én. Đỉnh cao ở mường nào
mới có linh hồn rồng - hồn nữ nhi soi dáng vẻ đẹp xinh”
(“Cựt ha thẳm mơng đaư chẵng mi neo én. Dú đởi ten
Để có thể hiểu được sát thực hơn với các tồn tại của
truyền thống địa phương vùng Thái Thanh Hóa, cần có
những dẫn liệu cụ thể của vùng đất về sự trôi nổi của
huyền thoại rồng - tiên trong tâm thức tộc người nơi đây.
Trong truyền thống của nhóm Thái tự xưng Phủ
Tày, hay nhóm Thái bắc Thanh Hóa hoặc Thái sông Mã
với truyền thống pha trộn sâu đậm Việt - Mường, đáng
chú ý, người ta biết đến trong truyền thống của họ một
phiên bản khác của Đẻ đất đẻ nước người Mường đó là
Tảy ắm oóc nặm đín, hai cái tên này, hai văn bản thiêng
truyền khẩu đều cùng mang ý nghĩa Đẻ đất đẻ nước.
9Có thể xem mô tả của (Mukdawijitra, 2007).
169
Nguyễn Mạnh Tiến
Huyền thoại này10, trong thần thoại Thái thấy xuất hiện
motif đẻ ra trứng với cặp chim Ốn Tôn khổng lồ. Chim
mái mỏ sắt, trống mỏ đồng, sau khi: “Đạp nhau như
cơm bữa/ Nhảy nhau như cơm sáng, cơm chiều”, chim
mái sinh ra sáu cái trứng. Những quả trứng khởi nguyên
này, quen thuộc với motif sinh nở thần kỳ của tư duy
thần thoại, được mô tả đẻ ba năm mới ấp, ấp ba năm
mới nở. Sáu quả trứng này, hai quả nở trời đất, hai quả
nở ra hai con người là ông và bà Chu Cún, hai quả nở ra
(vàng hóa) nước và (cây hóa) lửa. Đó là một phần của
khởi nguyên trời đất con người. Thần thoại khởi nguyên
này, tiếp tục sự sản sinh loài người với cặp đôi anh em
loạn luân Tạo Cặp và Nàng Que vốn được biết đến phổ
biến ở vùng Thái và Khơ Mú Thanh Hóa11. Đồng thời,
một lần nữa các yếu tố thần thoại Mường tái hiện khi
Tảy ắm oóc nặm đín tái hiện motif cây si thần, cây vũ
trụ và hành động chặt cây vũ trụ vốn rất nổi tiếng trong
sử thi Mường. Motif trứng nở loài người, trời đất trong
thần thoại Thái Phủ Tày, không thể không làm gợi nhắc
đến trứng chim Tùng chim Tót của bản sử thi Mường12.
Một truyền thống văn nghệ pha đẫm các yếu tố Thái -
Mường là di sản chung của cả Mường và Thái Thanh
Hóa. Điều này, là không tồn tại ở cộng đồng Thái Tây
Bắc. Chính vì cùng chia sẻ chung những yếu tố văn
hóa, người Thái và Mường Thanh Hóa cũng có chung
những nhân thần, có tư cách thần bản mường cộng
đồng có xuất thân lịch sử. Các nhân vật như Cầm Bá
Thước, Hà Văn Mao được thờ ở nhiều bản làng. Và,
nổi tiếng hơn cả như một thần bảo hộ chung cộng đồng
Thái, Mường và Việt vùng Thanh Hóa không ai khác
chính là vua Lê Lợi.
Ở phía Nam Thanh Hóa, mật tập trong hai huyện
Thường Xuân, Như Xuân, người Tày Dọ hay còn gọi
Thái sông Chu có địa lý cư trú cận kề các vùng người
Mường, như Ngọc Lạc và đáng chú ý nhất là huyện
Thọ Xuân - nơi khởi phát của ông quan lang mường
Lam Lê Lợi năm nào. Người Thái nơi đây tồn tại một
hệ thống tín ngưỡng đặc thù tôn thờ cặp cha mẹ
chim/tiên - rồng của tộc người. Ở những khúc sông sâu
người Thái thường coi đó là nơi trú ngụ của mẹ Rồng,
và nó được hình dung là thông lên các đỉnh núi cao,
nơi có cha Chim trú ngụ. Đây chính là những địa điểm
người Thái xưa lập đền thờ mẹ nước. Thời xưa, hẳn
tồn tại nhiều địa điểm như thế, ngày nay, nổi bật hơn
cả người ta có thể tìm thấy di tích này ở bản Chiềng,
mường Luộc (xã Xuân Lộc) huyện Thường Xuân. Ở
vùng Như Xuân, thông tin về nơi thờ thần nước hay
thờ mẹ tại nhiều địa điểm trên sông Chàng, nổi bật
nhất còn lại là một địa điểm nằm trên khúc nghềnh của
Thác Cổng Trời được dân địa phương gọi là Xuân
Nàng13. Những dẫn liệu này, và nhiều địa chỉ thờ
xuốm náng dọc sông Chàng, sông Chu và các phụ lưu
cho thấy, tín ngưỡng này từng phổ biến trong cộng
đồng Thái Dọ phía nam Thanh Hóa.
10Ở vùng Thái Phủ Tày, tư liệu này được biết đến gồm
các văn bản sưu tầm, phiên âm Thái và dịch nghĩa Việt của
các tác giả người Thái như Cao Bằng Nghĩa và Hà Nam Ninh.
Tư liệu chưa xuất bản, sưu tầm cá nhân.
Huyền thoại này, cũng xuất hiện ở Thái Mai Châu, với
văn bản đã được công bố Ẳm Ệt Luông (1972). Thái Mai Châu
(Hòa Bình) và Thái mường Khoòng (Cổ Lũng, Bá Thước,
Thanh Hóa) vốn là một gốc. Khoảng cuối thế kỷ XIII, ba anh
em họ Hà Công ở Bắc Hà (Lào Cai) vì thiếu đất đã xuôi sông
Hồng đi tìm vùng đất mới. Người anh cả đến mở mường ở
vùng Mộc Châu. Người anh hai đến mở mường ở Mai Châu.
Người em út đi tiếp, đến mở mường Lầu, mường Khoòng ở
vùng Cổ Lũng Bá Thước.
11Cặp đôi này, về sau sinh quả bầu là nguồn gốc loài
người. Ở bản kể Thái họ học châu chấu “nhảy nhau” mà sinh
loài người. Ở bản kể Khơ Mú thuộc Mường Lát thì có con
chim bay qua nói hai em phải ngủ với nhau, từ đó sinh loài
người.
Xã Xuân Lộc huyện Thường Xuân hiện nay còn lưu
giữ hệ thống di tích Xuốm náng khá “hoàn chỉnh”.
Thông tin từ các nhà Thái học địa phương cho biết
xuốm náng (nghĩa là buồng nàng) là một vũng nước sâu
trên con sông Luộc, được giải thích là nơi trú ngụ của
13Xuân Nàng đây là cách Hán Việt hóa từ Xuốm Náng.
Người Tày Dọ là cộng đồng có lối viết theo qui tắc Hán tự, và
cư trú gần người Việt nhất. Cộng đồng này, về mặt địa lý trên
đất Việt Nam hiện nay, là cộng đồng cư trú gần biển nhất, ở
Thanh Nghệ, họ cư trú ở những nơi chỉ cách biển khoảng 50km.
12Huyền thoại Mường khởi sinh ở mường Ống, sát cạnh
là các mường Ca Da, và mường Ký, mường Khoòng của
người Thái, nơi các học giả địa phương sưu tầm và chú dịch
cho văn bản Tảy ắm oóc nặm đín.
170
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số Đặc biệt (2020), 165-173
mẹ rồng. Nơi này được cho là thông lên một ngọn núi
cao thuộc dãy Bù Kha (người địa phương gọi là Pú
Ngúa) để thi thoảng mẹ rồng gặp cha chim là loài chim
én (trao đổi cá nhân với Hà Bá Tâm 2017, và tác giả đã
công bố năm 2018)14. Một dị bản khác ở địa phương
cho biết, Xuốm náng (buồng nàng) là nơi mẹ rồng ở,
thông với Kanh pá (Thác bà) trên núi nơi có bố rồng15.
Tài liệu tham khảo
Ẳm ệt luông (V. T. Khà, Trans.). (1972). Ty Văn hóa
Thông tin tỉnh Hòa Bình.
Cầm, T. (1978). Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Khoa
học xã hội.
Cầm, T. (1987). Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế xã
hội cổ đại người Thái Tây Bắc Việt Nam. Khoa
học Xã hội.
Cầm, T. (2005). Những hiểu biết về người Thái ở Việt
Nam. Chính trị Quốc gia.
Cầm, T. (2015). Người Thái xây dựng miền Tây Bắc
trong thời gian cuối thế kỷ XIII qua XIV sang đầu
VNU_123/243.
Cầm, T., & Phan, H. D. (1995). Văn hóa Thái Việt Nam.
Văn hóa Dân tộc.
Chu, T. S., & Cầm, T. (2005). Người Thái. Trẻ.
Cuisinier, J. (1946). Les Muong: Geographie Humaine
et Sociologie. Institut d’ethnologie.
Người Tày Dọ ở Nam Thanh Hóa, đồng tộc với họ
vốn đông đảo ở đường 7A Nghệ An còn được gọi với
tên địa phương phổ biến là Tày Mường hay Thái phủ
Quỳ Châu. Huyền thoại rồng tiên ở Thái Nghệ An là
phong phú. Ở đây, đơn cử chỉ dẫn một dữ liệu chính yếu
là những chú giải xoay quanh văn bản huyền thoại Thái
Quam Khun Tinh kể về thủ lĩnh Thái Khủn Tỉnh - người
mang dòng máu của người và rồng, sau kết hôn với
vượn (nòi tiên trên trời) đẻ ra tạo Ám Cai là tổ tiên Thái
cả Nghệ An và Tây Bắc (Sầm, 2006).
4. Kết luận
Grigoreva, N. (2015). The Muong Epics of “The Birth of
Tóm lại, dù còn thiếu hiểu biết chi tiết về các truyền
thống địa phương Thái vốn luôn đa dạng và phức tạp.
Nhưng các dữ liệu về sự trôi nổi của huyền thoại rồng
tiên trong các cộng đồng Thái ở Tây Bắc, vùng núi
Thanh Hóa, Nghệ An được cung cấp trong nghiên cứu
này cũng đã đủ cơ sở xác tín về sự tồn tại khá vững
chắn lớp kể huyền thoại về tổ tiên khởi nguyên là sự kết
hợp của hai dòng họ Rồng/Rắn - Tiên/Chim ở cộng
đồng Thái Việt Nam. Từ đó, góp phần nới rộng không
gian tưởng tượng về cha rồng mẹ tiên như là di sản
chung của Việt Nam đa tộc người có nguồn cội Đông
Nam Á.
the Earth and Water” in
a
Viet-Muong
Comparative Perspective: An Alternative Vision of
the Common Past (SSRN Scholarly Paper ID
2708982). Social Science Research Network.
Hà, B. T. (2018). Người Tày Dọ và tín ngưỡng thờ trời.
Tạp chí Văn hóa Dân gian, 3(177).
Hoàng, L. (2015). Người Tày Thái cổ ở Việt Nam. Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
Mukdawijitra, Y. (2007). Ethnicity and multilingualism:
The case of ethnic Tai in the Vietnamese state
[Doctoral thesis]. University of Wisconsin.
Nguyễn, Đ. C. (1956). Lược khảo về thần thoại Việt
Nam. Văn Sử Địa.
Nguyễn, M. T. (2020). Con rồng cháu tiên: Huyền thoại
Việt - Mường - Thái. Tạp chí Sông Hương, 376.
Nguyễn, V. H. (2013). Tục lập bản Mường và lệ tế thần
núi, thần nguồn nước của người Thái Đen vùng
Tây Bắc. Thời Đại.
Nikulin, N. I. (2006). Dòng chảy văn hóa Việt Nam.
Văn hóa - Thông tin.
Phan, N. (2000). Thư xét văn hóa, văn học bằng ngôn
ngữ học. Thanh niên.
14Cấu trúc kể này, cũng được tôi ghi nhận ở Như Xuân,
của hậu duệ các dòng tạo mường Lựu và mường Chang cũ.
15Hình ảnh và nội dung mở rộng bản kể này, xem phần
Phụ lục hình ảnh phía sau. Thực chất, nghi lễ này là một nghi
lễ khá quen thuộc trong cộng đồng Thái, có khi được biết với
tên tục tế thần núi. V. H. Nguyễn (2013, 128-131) có nói đến
Quám tay mưa lai là truyền thuyết kể về cha chim én mà mẹ
thuồng luồng sinh ra bầy con là tổ tiên Thái ngày nay, dòng
anh là Thái Trắng và dòng em là Thái Đen. Xưa, cờ hiệu Thái
Trắng là cờ đuôi nheo đỏ vẽ hình chim én còn cờ hiệu Thái
Đen thì vẽ hình thuồng luồng.
171
Nguyễn Mạnh Tiến
Phan, N., & Phan, Đ. N. (1991). Thử xây dựng lại hệ
thống thần thoại Việt - Mường. Tạp chí Văn hoá
Dân gian, 1.
Sầm, V. B. (2006). Huyền thoại Khủn Tinh - những cứ
liệu bên ngoài một lễ hội. Tạp chí Văn hoá Nghệ
An, 71.
Trần, Q. V., & Nguyễn, D. B. (1965). Một vài nhận xét
về mối quan hệ Mường - Việt và quá trình phân
hóa giữa tộc Mường và tộc Việt. Thông báo Sử
học, Tập V, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Trần, T. (1996). Người Mường ở Hòa Bình. Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam.
Trần, Q. V., & Cầm, T. (1987). Thái Đen Thái Trắng và
sự phân bố cư dân Tày Thái cổ ở Việt Nam. Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử, 5, 236-237.
RONG/RAN/NUOC - CHIN/ TIEN/CAN: THE KINSHIP OF THE LEGENDARY THAI
Nguyễn Mạnh Tiến
Institute of Literature - Vietnam Academy of Social Sciences
Abstract: This study processes and analyses the documentation about Thai, of which, the most important one is the material in
the field. Thereby, the popularity of the rong-tien legend has been shown to exist in Thai communities, including North-West Thai and
Thai in the Thanh hoa - Nghe an highland. Since then, the research gives conclusion about the universality of the rong-tien legend in
the multi-ethnic Vietnamese nation.
Key words: Thai; Viet; Muong; rong-tien legend.
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Xuốm náng ngày nay,
trên dòng sông Luộc đã cạn
dòng, bị phá hủy một phần
do nổ mìn và hoang phế cả
trong tự nhiên lẫn trong ký
ức những người Thái trẻ tuổi
Xuân Lộc
172
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số Đặc biệt (2020), 165-173
Kanh pá ngày nay, nằm ở
tận cùng bản Bà, trên núi cao,
cũng như xuốm náng, giờ đây
đã hoang phế trong ký ức lãng
quên người Thái trẻ tuổi ở đây.
Xuốm náng (Buồng nàng) nơi mẹ rồng. Phiến đá trắng là nơi giường nàng nằm ở bản Chiềng và Kanh pá (Thác
bà) là nơi thông lên đỉnh núi nơi cha rồng/chim ngụ ở bản Bà, đều thuộc xã Xuân Lộc (mường Luộc xưa), huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Thông tin từ một số cụ cao niên họ Cầm Bá, hậu duệ dòng tạo mường Luộc xưa và người Thái ở bản Chiềng, kể
từ trung tuổi trở lên ai cũng biết ít nhiều di tích Xuốm náng. Tích xưa truyền, tạo mở mường Luộc thuở xưa không có
con. Một hôm, ông nhặt được hai quả trứng ở Xuốm náng, đem về cho gà ấp thì nở thành hai con rồng. Hai rồng con
này rất hiếu thảo, thương cha mẹ nuôi. Hàng năm đến tháng 8, mùa nước dâng hai rồng lại bơi ra Xuốm náng, người
dân nói nó về chơi thăm cha mẹ rồng. Mùa nước rút, rồng lại về ở với bố mẹ nuôi. Khi ông bà chết, hai rồng mai táng
chu đáo. Hai rồng này chính là con của cặp cha mẹ rồng ở Xuốm náng (bản Chiềng) và đỉnh thác Kanh Pá (bản Bà).
Hai nơi này cách nhau độ 2 km đường chim bay, thuộc hai bản khác nhau nhưng thông với nhau. Người xưa truyền
lại, thả hoa chuối ở đỉnh thác Kanh Pá thì thấy nó mất hút và sau đó nổi lên ở Xuốm náng hoặc hồ Ná Khổ (đã bị lấp).
Các địa điểm này có hang ngầm thông với nhau dưới lòng đất. Chính các hang ngầm ấy tạo nên các hóm nước xoáy
có thể lọt cả con trâu, sâu, đen hoắm khiến các tâm hồn Thái chất phác kinh sợ, thờ cúng. Cạnh giường nàng, xưa có
hai hõm nước xoáy đen. Các địa điểm trên, do vậy, đều là di tích thiêng của người Thái, không mấy ai dám đến đùa
nghịch. Mấy chục năm trước, trong dòng chảy suy tàn các địa điểm linh thiêng trong thời đại mới, hồ Ná Khổ đã bị
lấp, Xuốm Náng thì bị đặt mìn lấy đá nung vôi, phá đi cơ bản các tảng đá bao quanh, vốn rất đẹp để phục vụ việc
người Thái bỏ nhà sàn, làm nhà trệt kiểu Kinh ở đây. May thay, chút kinh sợ cuối cùng trong tâm hồn Thái trẻ tuổi đã
khiến tay đặt mìn chừa lại đúng duy nhất tấm giường nàng. Ngày nay, khi cơ bản các dòng sông miền núi cạn dòng,
sông Luộc giờ như một lạch nước nhỏ, Xuốm Náng lọt vào phía sau một khu vườn nhà dân, dù lãng quên nhưng vẫn
nhận được sự kính trọng của cộng đồng Thái về một di tích xưa vốn quan trọng nơi mẹ rồng huyền thoại từng ở.
173
Bạn đang xem tài liệu "Rồng/rắn/nước - Chim/tiên/cạn: Thân tộc huyền thoại Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- rongrannuoc_chimtiencan_than_toc_huyen_thoai_thai.pdf