Di vật, cổ vật điển hình vùng Hàm Rồng ở Thanh Hóa

TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
DI VẬT, CỔ VẬT ĐIỂN HÌNH VÙNG HÀM RỒNG  
Ở THANH HÓA  
TS. Nguyễn Thị Thục1  
Tóm tắt: Góp phần làm nên một Hàm Rồng “danh giá” trong lịch sử và vẫn còn  
nguyên giá trị cho đến ngày nay là sự “chồng dầy” và “hiện tồn” của rất nhiều loại  
hình di sản văn hóa. Trong đó, di vật, cổ vật là những di sản văn hóa tiêu biểu, điển  
hình và có những giá trị mang tính đại diện cho xứ Thanh, cho dân tộc. Nghiên cứu  
bước đầu về di vật, cổ vật vùng Hàm Rồng nhằm làm sáng tỏ những giá trị độc đáo, và  
bổ sung vào kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh nói riêng và cả nước nói chung. Đồng  
thời, làm cơ sở cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị trong thời kỳ hội nhập một cách  
hiệu quả.  
Từ khóa: Di vật, cổ vật, di sản văn hóa, trống đồng Đông Sơn, bia ký, Hàm Rồng…  
1. Mở đầu  
Hàm Rồng là một vùng văn hóa linh thiêng của xứ Thanh, được xem là hạt nhân  
để định hình diện mạo cho văn hóa sông Mã. Không nên nhìn nhận Hàm Rồng là một  
địa danh có địa lý và lịch sử biệt lập mà phải đặt Hàm Rồng trong tổng thể trục dọc và  
chiều ngang gắn liền với sông Mã như vậy mới đánh giá hết được vị trí của Hàm Rồng  
trong diễn trình lịch sử văn hóa của xứ Thanh.  
Dựa vào lý thuyết sinh thái văn hóa, chúng ta có thể thấy phạm vi của vùng văn  
hóa Hàm Rồng được xác định là tương đối rộng, ranh giới có thể dài từ làng Dương Xá,  
với các mạch núi chạy men sông Mã đến làng Nam Ngạn (theo hướng Tây - Đông),  
theo trục Bắc - Nam, có thể lấy điểm giới hạn từ Bến Ngự kéo dài đến tận làng An  
Hoạch (vùng Nhồi).  
Trong tiến trình lịch sử của xứ Thanh, Hàm Rồng là khu vực có sự tích tụ đậm  
đặc các giá trị và biểu tượng văn hóa.  
Theo đánh giá của các nhà khoa học, và bằng số liệu thống kê cho thấy, 70% số  
lượng các di sản văn hóa của xứ Thanh có đặc điểm là phân bố tập trung ở vùng hạ lưu  
sông Mã, trong đó đậm đặc và liên tục là ở chính vùng Hàm Rồng, với điểm nhấn là  
hàng chục ngọn núi và hàng trăm di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng. Có rất nhiều quan  
điểm để lý giải nguyên nhân trên, song quan điểm cho rằng, sông Mã là ngọn nguồn  
nuôi dưỡng chính, định hình diện mạo cho vùng Hàm Rồng nhận được khá nhiều quan  
điểm đồng thuận.  
1 Trưởng phòng Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
105  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Có thể nói, lịch sử văn hóa của xứ Thanh chịu ảnh hưởng khá đậm nét từ bước  
đi và dòng chảy của con sông Mã. Bắt nguồn từ Điện Biên, chảy qua Sơn La, qua đất  
Lào, vào địa phận Thanh Hóa ở xã Tén Tằn, huyện Mường Lát, sông Mã chảy qua các  
huyện: Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Thành phố  
Thanh Hóa, Hoằng Hóa, Sầm Sơn. Nhìn vào bản đồ hành chính Thanh Hóa, sông Mã  
như một con đường thiên lý Tây Bắc xuống Đông Nam, chia tỉnh Thanh Hóa ra đôi bờ  
tả, hữu. Khi chảy đến các huyện đồng bằng, sông Mã xòe ra như cánh quạt với sự chia  
dòng ở hai vị trí quan trọng. Đó là vị trí chia dòng Ngu Giang ở ngã Ba Bông chảy qua  
Hà Trung, Hậu Lộc và đổ ra cửa Lạch Sung, sau đó, đến ngã Ba Đầu (Thiệu Hóa) đón  
dòng sông Chu chảy từ phía Tây xuống nhập dòng, tạo ra một lòng sông rộng lớn. Đến  
Hàm Rồng, thay vì chảy về cửa Lạch Trường, sông Mã đổi dòng chảy len qua hai ngọn  
núi ở Hàm Rồng đổ về Lạch Hới. Như vậy, Hàm Rồng chính là điểm tích tụ cuối cùng  
của sông Mã trước khi đổ ra biển. Cùng với các yếu tố khác như “nhất cận thị, nhị cận  
giang, tam cận lộ”, Hàm Rồng đã trở thành “chứng nhân” với nhiều dấu mốc, sự kiện  
lịch sử rất đáng tự hào. Với những yếu tố trên, đã góp phần làm nên một vùng Hàm  
Rồng đậm đặc các di sản văn hóa, trong đó có sự góp mặt của nhiều loại hình di vật, cổ  
vật với giá trị hết sức đặc biệt. Nghiên cứu, giải mã giá trị của các loại hình di sản văn  
hóa này, sẽ góp phần tôn vinh giá trị di sản văn hóa nói chung và loại hình di sản di vật,  
cổ vật nói riêng, đồng thời, là cơ sở quan trọng để công tác quy hoạch, bảo vệ vùng Hàm  
Rồng đạt hiệu quả; đẩy mạnh khai thác, phát triển du lịch tại Hàm Rồng theo hướng bền  
vững và nêu cao vai trò giáo dục truyền thống từ các loại hình di sản văn hóa.  
2. Loại hình di vật, cổ vật điển hình  
Di vật, cổ vật được xem là hiện vật của thời gian và nhân chứng của quá khứ.  
Với sự đa dạng, phong phú về loại hình và niên đại, rất khó có thể tiếp cận hết các di  
vật, cổ vật vùng Hàm Rồng. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả đề cập đến một số di vật,  
cổ vật điển hình cho loại hình di sản này là bộ sưu tập đồ đồng bia ký.  
2.1. Bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn  
Địa bàn phân bố đồ đồng ở Đông Sơn, Thanh Hóa được xác định chủ yếu nằm  
trên lưu vực sông Mã, sông Chu, đặc biệt là những địa danh tiếp xúc giữa hai dòng sông  
(ngã Ba Đầu), hay các điểm sông Mã chia dòng: ngã Ba Bông, ngã ba Tào Xuyên.  
Những kết quả nghiên cứu cũng như các địa điểm khảo cổ học đã được khai quật càng  
làm sáng tỏ nhận định trên là đúng. Trong một số công trình nghiên cứu về đồ đồng  
Đông Sơn đã được công bố, các nhà nghiên cứu đã nhận định: “Nếu như chúng ta lấy  
nơi hợp lưu giữa sông Mã và sông Chu làm tâm điểm và quay bán kính 10 - 15 km, thì  
hầu hết các di tích văn hóa Đông Sơn nằm trong vòng bán kính đó. Đây là đất của  
huyện Đông Sơn, một phần phía Đông Nam huyện Thiệu Hóa, phía Tây huyện Hoằng  
106  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Hóa, thành phố Thanh Hóa và vùng phía Bắc của huyện Nông Cống. Vùng đất này nằm  
trong đồng bằng cao của châu thổ sông Mã. Những công cụ lao động như: lưỡi cày, các  
loại hình rìu tập trung ở đây khá cao, gợi ý về những vùng canh tác nông nghiệp thời đó  
khá trù phú ở đôi bờ sông Mã, nhất là phía Nam chỗ hợp lưu sông Mã và sông Chu. Nơi  
đây cũng có số lượng khá lớn của đồ dùng sinh hoạt như: thạp, thố, bát; các loại vũ khí  
như: rìu chiến, giáo, lao; các loại hình nhạc khí như: trống đồng Đông Sơn,… Tất cả  
những đặc điểm đó đã gợi ý rằng, vùng Hàm Rồng không chỉ là một trung tâm sản xuất  
nông nghiệp thời Đông Sơn, mà còn là một trung tâm văn hóa, quân sự thời đó, không  
loại trừ khả năng là trung tâm chính trị của cộng đồng cư dân Việt cổ”2.  
Những bộ nông cụ lao động, vũ khí, nhạc khí và đồ trang sức còn phát hiện lẻ tẻ  
ở ngoài vùng Hàm Rồng như: sưu tập đồ đồng ở Mã Mè, Phà Công xã Xuân Lập, huyện  
Thọ Xuân, một số xã phía Nam huyện Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Nông Cống gần đây là bằng  
chứng xác nhận sự lan tỏa rộng rãi của cư dân, văn hóa Đông Sơn đương thời. Dưới góc  
nhìn của khảo cổ học cộng với địa điểm phân bố di vật, cổ vật, ít nhiều giúp chúng ta  
hình dung phần nào vị trí các loại hình hiện vật đồ đồng Đông Sơn trong tổng thể hệ  
thống di sản văn hóa Đông Sơn vùng Hàm Rồng mà trước đó có rất ít các công trình đề  
cập, hoặc có đề cập vẫn chưa đầy đủ.  
Trong sưu tập đồ đồng văn hóa Đông Sơn vùng sông Mã, nhóm công cụ lao  
động 33,18%, vũ khí 38,18% chiếm tỷ lệ cao nhất, đồ dùng sinh hoạt 11,71%, nhạc khí  
7,70%, đồ trang sức 6,61%. Số liệu thống kê cho thấy, sự phát triển đồ đồng văn hóa  
Đông Sơn ở Thanh Hóa tập trung vào công cụ lao động sản xuất và vũ khí dùng bảo vệ  
cộng đồng, bên cạnh người Việt cổ rất coi trọng những dụng cụ thiết yếu phục vụ đời  
sống thường nhật, đời sống văn hóa, âm nhạc và tinh thần con người.  
Bảng tổng hợp các sưu tập đồ đồng văn hóa Đông Sơn ở Thanh Hóa  
Bảo tàng  
Loại hình  
hiện vật  
Nông  
Cống  
Đông  
Hưng  
Đông  
Tiến  
Tổng  
cộng  
TT  
Thanh  
Hóa  
57  
43  
56  
150  
306  
Công cụ sản  
xuất  
1
2
(32,02)  
(30,28)  
(29,16)  
(36,58)  
(33,18)  
92  
57  
86  
117  
352  
Vũ khí  
(51,68)  
(40,14)  
(44,79)  
(28,54)  
(38,17)  
2
Lê Thị Sáu, Đông Sơn vùng văn hóa, Tập san Thông tin Khoa học, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ  
thuật Thanh Hóa, số 6/2008, tr 106 - 108 và số 8/2009, tr 65 - 68.  
107  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Đồ dùng sinh  
hoạt  
5
11  
(7,74)  
6
15  
77  
108  
(11,71)  
71  
3
4
5
6
(2,80)  
7
(7,81)  
15  
(18,78)  
43  
Nhạc khí  
(3,93)  
(4,22)  
(7,81)  
(10,49)  
(7,70)  
17  
5
20  
22  
64  
Đồ trang sức  
Các di vật khác  
Tổng cộng  
(9,55)  
(3,52)  
(10,41)  
(5,36)  
(6,61)  
20  
1
21  
(14,08)  
(0,25)  
(2,27)  
178  
142  
192  
410  
922  
(100%)  
(100%)  
(100%)  
(100%)  
(100%)  
Trong tổng số những di vật đặc biệt quý giá này, số lượng, chủng loại các đồ  
đồng Đông Sơn phân bố và được phát hiện ở vùng Hàm Rồng là tương đối lớn với  
nhiều giá trị. Mỗi nhóm di vật đồ đồng không đơn giản chỉ thể hiện số liệu mà còn cho  
phép chúng ta có thêm những suy nghĩ mới về văn hóa Đông Sơn vùng lưu vực sông  
Mã nói chung và vùng Hàm Rồng nói riêng.  
Về công cụ lao động, rìu xòe chân và rìu xéo gót tròn bao giờ cũng chiếm tỷ lệ  
cao. Lưỡi cày ở đây khá nhiều, chủ yếu là loại lưỡi cày hình cánh bướm, hình dáng này  
được cho là khác rất nhiều so với lưỡi cày ở lưu vực sông Hồng và được xem như loại  
hình lưỡi cày đặc trưng của vùng sông Mã.  
Về vũ khí, giáo có họng tra cán, thân hình tam giác bao giờ cũng chiếm tỷ lệ áp  
đảo. Trong đó, loại giáo thân hình lá mía có chuôi tra cán, các nhà khảo cổ chỉ tìm thấy  
duy nhất ở lưu vực sông Mã. Loại dao găm đốc hình củ hành, chắn tay hình sừng trâu  
tạo nên nét riêng biệt của loại hình sông Mã. Tất cả vũ khí được biết ở Đông Sơn đều là  
bạch khí (chưa thấy hỏa khí), trong đó chủ yếu là vũ khí đánh gần (như giáo, dao găm),  
rất ít vũ khí đánh xa (như mũi tên, lao) và hầu như ít thấy vũ khí phòng ngự (như bao  
tay, tấm che ngực như các nơi khác). Điều này gợi ý rằng, vũ khí thời Đông Sơn ở  
Thanh Hóa thiên về tiến công hơn là phòng thủ, phát huy mạnh hiệu quả ở việc đánh  
gần và đánh xa. Cũng xin nói thêm, có một số vũ khí được trang trí hoa văn hoặc tạo  
hình người trên cán, gợi ý thêm về chức năng biểu tượng cho quyền uy của thủ lĩnh,  
ngoài chức năng quân sự đơn thuần.  
Về đồ dùng sinh hoạt, thạp và thố chiếm số lượng lớn, nồi chậu không nhiều, ít  
bát, đĩa. Thạp và thố ở đây có dáng và phong cách trang trí rất riêng, ngoài chức năng  
đồ đựng, một số dùng làm quan tài (có xương người bên trong). Cũng cần nói thêm về  
108  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
thạp, thố, minh khí với số lượng đáng kể và kiểu dáng riêng biệt cũng là nét đặc sắc  
trong sưu tập đồ đồng vùng sông Mã.  
Về nhạc khí, trống đồng Đông Sơn ở Thanh Hóa có số lượng lớn nhất, chủ yếu  
là loại B và C, hiếm loại A và D (số liệu chưa đầy đủ: 35 trống ở Bảo tàng và 27 trống ở  
nơi khác). Với số lượng trống đã đề cập cũng đủ nói lên Thanh Hóa là một trong những  
trung tâm lớn về trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam. Điểm lý thú ở đây chính là, trống  
đồng Đông Sơn không chỉ hàm chứa những giá trị sử học vô cùng quý giá, mà phân tích  
những dữ liệu liên quan đến trống đồng sẽ thấy rõ những đặc điểm đa diện về đời sống  
văn hóa, kinh tế, xã hội của thời Lạc Việt. Việc phát hiện ra những lưỡi cày đồng và  
những hình bò được khắc trên thân trống chứng tỏ thời kỳ này con người đã biết sử  
dụng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp. Các nghề đánh cá, săn bắn, chăn nuôi  
gia súc và sản xuất thủ công cũng rất phát triển. Ngoài ra, sự phân bố những hiện vật tùy  
táng ở các ngôi mộ giàu nghèo thuộc thời đại đồ đồng cho thấy trong xã hội Lạc Việt  
còn tồn tại sự bất bình đẳng trong phân chia tài sản.  
Không chỉ phản ánh đời sống kinh tế, xã hội, trống đồng Đông Sơn còn phản ánh  
khá rõ đời sống tâm linh của người Việt cổ. Với những biểu hiện gắn hình ngôi sao ở  
trung tâm mặt trống là biểu tượng của tục thờ thần Mặt Trời. Những hình người hóa trang  
lông chim trên mặt trống đồng có thể lý giải trên ba bình diện: tự nhiên học, totem học và  
sinh học. Dưới góc độ tự nhiên học, thời kỳ nguyên thủy con người sống hòa mình và phụ  
thuộc phần lớn vào tự nhiên, có khát vọng chinh phục, làm chủ tự nhiên, biểu hiện rõ nhất  
con người thời kỳ này là dùng đất thổ ban bôi lên cơ thể như một cách thể hiện sống hòa  
cùng tự nhiên. Dưới góc nhìn sinh học, việc hóa trang lông chim trên đầu như muốn gửi  
gắm khát vọng chinh phục những điều mà con người chưa thể vươn tới. Dưới góc nhìn  
totem học, việc hóa trang ấy chính như con người đang lấy thiên nhiên làm thiêng hóa  
chính mình, hòa nhập thiên nhiên để chống lại thú dữ. Suy đến cùng, con người hóa trang  
là biểu tượng thiêng hóa mình, gắn mình với tự nhiên một cách sâu sắc, bày tỏ sức mạnh  
của họ với khát vọng vươn tới làm chủ trời đất. Từ những cảnh sinh hoạt trên trống đồng,  
nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, đó là "lễ khánh thành trống đồng", "lễ chiêu hồn",  
"đám tang" hoặc "lễ cầu mùa"... của người Việt cổ được biểu tượng hóa trên mặt trống.  
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định, cấu trúc trên trống đồng có thể cho ta biết về  
triết lý, nhân sinh quan và niềm tin của chủ nhân sáng tạo. Theo cố GS Trần Quốc  
Vượng, quan niệm sống của chủ nhân trống đồng đã được ghi và kết tinh trong các hình  
tượng và mô típ trên tang trống. Ông đã dùng kết quả nghiên cứu liên ngành từ dân tộc  
học, xã hội học để nhận thấy quan niệm lưỡng hợp và lưỡng phân trong đời sống tâm  
linh của người Đông Sơn. Còn N.I. Nicolin trong bài “Trống đồng Đông Sơn và quan  
niệm cây thế giới” tác giả đã có sự so sánh rất lý thú về truyền thuyết người Mường và  
109  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
biểu tượng trống đồng Đông Sơn. Dựa vào các khám phá và nhiều ý kiến về biểu tượng  
trên trống đồng của các nhà khảo cổ Việt Nam như PGS Lê Văn Lan cho rằng: trống  
đồng Đông Sơn biểu hiện mô hình thế giới, mặt trống phía trên là thế giới và trần giới,  
phần tang trống là thủy quốc và mặt dưới là âm phủ. N.I. Nicolin cho rằng: có sự liên hệ  
mật thiết giữa trống đồng, biểu tượng trên mặt trống và truyền thuyết của người Mường  
- một dân tộc rất gần với người Việt.  
Trống đồng Đông Sơn còn phản ánh một nền nghệ thuật độc đáo, tinh xảo của cư  
dân Lạc Việt. Nghệ thuật tạo hình trên trống đồng khá độc đáo bởi kỹ thuật khắc chạm  
trên khuôn, tạo ra những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, còn trên thân trống  
thì là hình khắc hơi nổi. Nghệ nhân đã xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên  
mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, bên trong loại bố cục này hình ảnh được sắp  
xếp rất cân đối. Hình ảnh con người luôn được diễn tả theo tư thế động: múa, giã gạo,  
đánh trống, bơi chải... Về mặt bố cục, tất cả người, động vật đều diễu hành quanh ngôi  
sao giữa mặt trống. Đặc biệt, phần tạo hình ở đây hơi giống kiểu tạo hình Ai Cập, có thể  
nhận biết qua tốp người múa trên mặt trống, ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân  
và đầu theo lối nhìn nghiêng. Còn trong hình chim bay thì thân cánh và đuôi được tả  
theo hình nhìn từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng.  
Trống đồng không những là cổ vật mà còn là bảo vật quốc gia, được nhà nước đặc  
biệt quan tâm gìn giữ. Hiện nay Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đang lưu giữ một bộ sưu tập  
trống đồng gồm 500 chiếc. Đây là niềm tự hào của văn hóa Việt Nam, trong đó có một số  
lượng không nhỏ trống đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn thuộc vùng Hàm Rồng. Trống  
đồng cùng với bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn hiện nay cho phép xác định sự ra đời của  
một nền nông nghiệp trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò trên địa bàn bộ  
Cửu Chân xưa, đồng thời là bằng chứng khẳng định kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của  
người Đông Sơn đã đạt đến trình độ điêu luyện và là bằng chứng khẳng định đời sống  
vật chất, tinh thần phong phú của cư dân vùng sông Mã xưa.  
2.2. Bia ký  
Bia ký không chỉ là di vật mà còn là di sản tư liệu quan trọng bởi bia ký là một  
thể loại biểu tượng văn hóa đặc biệt. Vượt ra khỏi ý nghĩa thuần tuý về chức năng  
chuyển tải giá trị thông tin, bia ký được coi như một “biểu tượng thiêng” của người  
Việt. Người ta đã “tín ngưỡng hóa” nhờ khả năng “biểu tượng hóa” cao độ các linh vật  
qua các hoạ tiết thiêng liêng trên bia ký. Biểu tượng thiêng hóa trên bia ký mang tính  
quy luật tất nhiên, khi chất liệu đá vốn có thuộc tính “thiêng” trong tâm thức con người.  
Mặt khác, với tư cách tư duy có tính “hình nhi hạ” của người Việt, thì việc sẵn sàng làm  
cho bề mặt bia ký trở nên dày đặc họa tiết như gấm, như hoa, với những đề tài rất khác  
110  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
nhau thấm đẫm tinh thần văn hóa dân gian, là một đam mê rất đáng trân trọng của người  
đương thời.  
Bia ký ở Thanh Hóa có mật độ phân bố đậm đặc ở các vùng ven hạ lưu sông Mã,  
sông Chu, khu vực đồng bằng - nơi từng là lỵ sở, trung tâm chính trị, tôn giáo, văn hóa,  
kinh tế qua các thời kỳ và cả những nơi có danh thắng đẹp. Đặc biệt, vùng Hàm Rồng  
có nguồn nguyên liệu đá quý, đội ngũ thợ đục đá tài hoa ở vùng An Hoạch (Nhồi) vốn  
nổi danh từ nhiều thế kỷ trước. Việc hội đủ các yếu tố trên đã lý giải tại sao vùng Hàm  
Rồng còn hiện tồn hệ thống bia ký nhiều nhất tỉnh Thanh. Bia ký Hàm Rồng đủ thể loại,  
với nhiều niên đại khởi dựng khác nhau. Qua khảo sát thực tế cho thấy, nhóm bia ký ở các  
chùa chiếm số lượng lớn, nội dung bia chủ yếu ghi lại việc khởi dựng các ngôi chùa, cúng  
tiến của các vua, quan; nhóm bia ghi chép về các sự kiện dân sinh như làm chợ, đền,  
chùa, đình làng; nhóm bia ghi chép về việc đỗ đạt, khoa bảng; nhóm ghi chép về việc suy  
tôn các nhân thần, linh thần và các bia ghi mốc giới ruộng đất, mốc giới đình đền.  
Đặc trưng của bia ký thường ở cách thức bố cục, tạo hình thông qua bố cục của  
trán bia, thân bia và đế bia. Ở mỗi bộ phận trên, thường mỗi thời lại có những đồ án  
trang trí khác nhau, biểu hiện quan niệm nhân sinh, tư tưởng đương thời. Trán bia là  
điểm tập trung chạm khắc biểu tượng “tầng trên”, đó là mặt trời và tinh tú, tâm trán bia  
thường chạm hình chim phượng, hoa cúc, mặt trời, tượng trưng cho nguồn sáng. Các  
hình hoa cúc được thu lại trong các góc của hai bên trán bia như những tinh tú. Thân bia  
thường ghi chép sự kiện gắn với nhân sinh. Đế bia thường là tượng rùa, con vật huyền  
thoại ở thời Phục Hy, mang trên mình là Hà Đồ và Lạc Thư như một tinh thần và tinh  
hoa của Trời - Đất. Một số ý kiến của các nhà nghiên cứu dân tộc học, mỹ thuật học cho  
rằng, bia ký được coi như một “biểu tượng”, như một trục thông tam giới, liên quan đến  
“tam - tài” (Thiên - Địa - Nhân).  
Theo con số điều tra chưa đầy đủ, đến nay trên đất Hàm Rồng đã phát hiện đến  
hơn 100 văn bia các loại, phân bố hầu khắp các xã, phường trong vùng. Có xã, phường  
hiện đang quản lý 40 đến 50 văn bia, đây quả là số lượng bia ký rất đáng kể so với quy  
mô của một đơn vị hành chính như cấp xã. Tấm bia sớm nhất vùng Hàm Rồng phải kể  
đến An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký, dựng tại chùa Báo Ân. Hiện bia đã mòn chữ, không  
đọc được, GS Hoàng Xuân Hãn cho rằng: bia dựng năm Canh Thìn niên hiệu Hội  
Phong thứ 9 (1100) [1, tr 134].  
Bia Trùng tu Phúc Hưng tự bi cũng là tấm bia điển hình trong vùng, đang đặt  
trong khuôn viên đền thờ Dương Đình Nghệ, làng Giàng, xã Thiệu Dương (ngoài ra, ở  
đây còn 4 tấm bia triều Nguyễn khác). Bia được làm bằng một tấm đá nguyên khối đặt  
trên cái bệ hộp chữ nhật hình hoa sen, bệ cao 0,30 m, bia rộng 1,2 m, cao 1,5 m, dày  
0,25 m. Bia dựng hướng Tây, trán tạo hình vòng cung khắc lưỡng long chầu nhật, diềm  
111  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
khắc hoa cúc cách điệu, xen lẫn chim, thú; đáy bia chạm hình cánh sen. Bia được dựng  
vào mùa hạ năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1670) đời Lê Hy Tông. Tiến sĩ khoa  
Bính Thân (1656) đời Lê Thần Tông - Lê Vinh quê thôn Thượng, xã An Hoạch soạn.  
Người viết chữ là Nguyễn Thê Hiển, tên tự là Đào Lục, quê xã Từ Minh, huyện Hoằng  
Hóa, trụ trì chính chùa Phúc Hưng. Việc lập bia để ghi công đức và ca ngợi cảnh chùa  
Phúc Hưng ở vào vị trí có nước sông chảy uốn khúc phía sau, tụ phía trước mặt, ngũ  
nhạc chầu về, tứ sơn trấn thủ, phía Bắc có quần long tụ hội, vạn mã tiến chầu, thật là  
một nơi đệ nhất thắng địa, đệ nhất linh tích. Bia cũng ghi các bậc quan viên: Quản Thị  
hầu uy, Trung đội chánh đội trưởng đô chỉ huy sứ, Ty đô chỉ huy sứ, Tả hiệu Điềm tước  
An Khê hầu Nguyễn Văn Quản và Quản Thị Hầu Kiên tả đội, Chánh đội trưởng chỉ huy  
sứ, Ty đô chỉ huy sứ, Hữu hiệu Điềm tước Điều Dương hầu Dương Đình Khoa cùng các  
bậc quan khác, xã dân trên dưới… đóng góp vàng ngọc, thóc gạo tu sửa chùa.  
Hàm Rồng là vùng đất có nhiều hang động, phong cảnh hữu tình, lại là vùng đất  
quý nên bia được khắc trên vách đá khá nhiều (bia ma nhai). Đặc điểm của loại bia ma  
nhai là khắc trên độ cao của vách đá, du khách dễ nhìn thấy khi ngước nhìn lên. Điển  
hình là các bia khắc ở động Long Quang, núi An Hoạch, núi Bàn A… Nội dung bia ca  
ngợi cảnh sắc của vùng Hàm Rồng được thiên nhiên, tạo hóa ban tặng hiếm nơi nào  
sánh được.  
Bia ký vùng Hàm Rồng không chỉ nhiều về số lượng, phong phú về thể loại và  
phong cách nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử với những phản ánh hiện thực một cách  
rõ nét về xã hội đương thời. Bia ký còn là một hiện vật nghệ thuật khá đặc trưng, chịu  
ảnh hưởng sâu sắc các giá trị tư tưởng, văn hóa, tín ngưỡng của một thời kỳ lịch sử nhất  
định. Đây là một loại hình di sản văn hóa có tính liên tục và hiện diện xuyên suốt chiều  
dài lịch sử của người Việt. Bản thân bia ký là các hiện vật gốc của lịch sử, văn hóa. Mặc  
dù là loại hình phản ánh đặc trưng nhưng không phổ quát. Bia ký rất quý giá vì tính  
chân thực lịch sử, tính nguyên gốc và tính chọn lọc, tập trung phản ánh thông tin đa  
chiều thể hiện trong văn tự, trong kiểu thức trang trí và nghệ thuật chạm khắc trên bia.  
3. Kết luận  
Hàm Rồng là một vùng văn hóa tích hợp nhiều giá trị lịch sử rất đáng tự hào. Hệ  
thống di sản văn hóa, đặc biệt là các loại hình di vật, cổ vật như đồ đồng và bia ký. Đến  
nay, mặc dù được ngành văn hóa thường xuyên kiểm kê, phân loại hàng năm nhưng  
công tác nghiên cứu chuyên sâu để có được sự nhìn nhận và đánh giá đúng mức đối với  
hệ thống di vật, cổ vật quý giá này vẫn còn chưa được quan tâm thỏa đáng. Điều này  
dẫn đến nguy cơ hủy hoại, mất mát và làm biến dạng đi không ít các di vật, cổ vật quý  
trong vùng Hàm Rồng theo thời gian. Vì vậy, công tác nghiên cứu và giáo dục cộng  
đồng là rất quan trọng. Di sản sống trong cộng đồng, cùng cộng đồng phát triển là quan  
112  
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
hệ cộng sinh, hãy làm cho di sản vùng Hàm Rồng hòa vào dòng chảy đương đại, vững  
bước tiến lên, để không gian văn hóa du lịch Hàm Rồng trở thành khu du lịch quốc gia  
đến năm 2020 như tỉnh Thanh kỳ vọng.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. Lê Tạo (2008), Nghiên cứu di sản văn hóa truyền thống Thanh Hóa (loại  
hình kiến trúc, điêu khắc), Đề tài khoa học cấp tỉnh 2008.  
[2]. Lê Tạo, Nguyễn Văn Hải (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, Nxb  
Thanh Hóa.  
[3]. Lê Thị Sáu (2006), Đông Sơn vùng văn hóa, Tập san Thông tin Khoa học,  
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa, số 6/2008, tr 106 - 108 và số 8/2009,  
tr 65 - 68.  
[4]. Phạm Quốc Quân (2011), Sức sống Đông Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 1, tr  
27 - 30.  
[5]. Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa (2004), Cổ vật văn hóa Đông Sơn ở Thanh  
Hóa, Nxb Thanh Hóa.  
[6]. Nguyễn Khắc Sử (2012), Diễn trình phát triển văn hóa tiền sử Bắc Trung Bộ  
Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr 10 - 21.  
TYPICAL ANTIQUES AND ARTIFACTS OF HAM RONG  
HISTORICAL CULTURAL RELICS IN THANH HOA PROVINCE  
Nguyen Thi Thuc, Ph.D  
Abstract: Many forms of existing cultural heritages full of intact values have  
contributed to build up a famous historical cultural relic like Ham Rong area. Among  
them, antiques and artifacts are typical cultural heritages imbued with representative  
values of Thanh land and our country. The paper studies initially antiques and artifacts  
of Ham Rong area to discover unique values, contributing to enrich cultural heritages  
of Thanh land in particular and the whole country in general and effectively promoting  
new values of the integration period.  
Keywords: Artifact, antique, cultural heritage, Dong Son bronze drum,  
inscription, Ham Rong area…  
113  
pdf 9 trang yennguyen 21/04/2022 820
Bạn đang xem tài liệu "Di vật, cổ vật điển hình vùng Hàm Rồng ở Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdi_vat_co_vat_dien_hinh_vung_ham_rong_o_thanh_hoa.pdf