Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
Bài Nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế
kỷ XIX đến năm 1945
Huỳnh Phương Anh*
TÓM TẮT
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đẩy mạnh hoạt động thương mại và đầu tư vào Đông
Nam Á trong đó có Đông Dương thuộc Pháp. Vốn là một tiểu vùng có tài nguyên thiên nhiên
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
phong phú và thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, Đông Dương đã trở thành điểm sáng thu hút
các thương nhân và doanh nghiệp Nhật Bản. Thương nhân Nhật Bản đã có mặt tại Đông Dương
thuộc Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với sự bùng nổ của làn sóng di dân sang các nước
Đông Nam Á từ cuối thời kỳ Minh Trị. Trong giai đoạn đầu, số lượng các thương nhân Nhật tại Đông
Dương tương đối ít và chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc mua bán tạp hoá.
Bên cạnh các thương nhân, từ những năm đầu thế kỷ XX, các tập đoàn kinh tế và công ty của Nhật
Bản đã bắt đầu mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Đông Dương như Mitsui, Mitsubishi,
Menka với lĩnh vực kinh doanh chính là thu mua lúa gạo và than đá. Tuy nhiên, hoạt động thương
mại của người Nhật ở Đông Dương trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến nửa sau những
năm 1930 có rất nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ cuối những năm 1930 đầu
những năm 1940, cùng với việc thúc đẩy chính sách nam tiến về mặt thương mại của Nhật Bản đối
với khu vực Đông Nam Á và đặc biệt là việc quân đội Nhật Bản tiến vào Đông Dương, các thương
nhân và doanh nghiệp Nhật đã tăng cường sự hiện diện và mở rộng hoạt động thương mại ở khu
vực này, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế ngoại thương của Đông Dương cũng như
mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Đông Dương. Bằng việc sử dụng phương pháp lịch sử
và logic trong quá trình nghiên cứu mà cụ thể là căn cứ vào bối cảnh lịch sử trong từng giai đoạn
cụ thể để phân tích những hoạt động thương mại của các thương nhân và các công ty Nhật Bản ở
Đông Dương, bài viết hướng tới việc đánh giá một cách logic và có hệ thống những đặc điểm nổi
bật đáng chú ý trong hoạt động thương mại của người Nhật ở tiểu vùng này.
Từ khoá: Nhật Bản, Đông Dương, Nhật Bản - Đông Dương, hoạt động thương mại
và doanh nghiệp Nhật đã từng bước xác lập và mở
rộng các cơ sở kinh doanh của mình tại vùng đất mà
vốn thuộc đặc quyền của người Pháp và người Hoa.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ cuối thế kỷ XIX phần lớn các nước Đông Nam
Á (trừ ái Lan) đều nằm dưới sự thống trị của chủ
Liên hệ
Huỳnh Phương Anh, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM
nghĩa thực dân phương Tây. Ngoài trừ Siam là nước Tuy hoạt động thương mại của các thương nhân và
đầu tiên và duy nhất thiết lập ngoại giao chính thức
với Nhật Bản vào năm 1887, quan hệ giữa Nhật Bản và
các nước Đông Nam Á đều phải thông qua các nước
mẫu quốc là Pháp, Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha. Sau khi
chính phủ Minh Trị được thành lập vào năm 1868, với
phương châm ”Phú quốc cường binh”, bên cạnh việc
tiến hành một chuỗi các cải cách tiến bộ trên tất cả
các lĩnh vực, chính quyền mới còn đặc biệt quan tâm
đến việc phát triển ngoại thương. ắng lợi của Nhật
Bản trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905)
không những giúp Nhật Bản tăng cường vị thế và sự
ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á mà còn
tạo cơ hội cho Nhật Bản đầy mạnh chính sách ”Nam
Tiến” trên lĩnh vực thương mại đối với khu vực này.
Người Nhật đã có mặt tại Đông Dương thuộc Pháp
từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các thương nhân
doanh nghiệp Nhật Bản ở Đông Dương không phát
triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam Á khác
như Đông Ấn Hà Lan, Malaya thuộc Anh, Philip-
pines nhưng cũng có những điểm nổi bật và tầm quan
trọng riêng cần được làm sáng tỏ. Bằng việc sử dụng
phương pháp lịch sử và logic trong quá trình nghiên
cứu mà cụ thể là căn cứ vào bối cảnh lịch sử trong
từng giai đoạn cụ thể để phân tích những hoạt động
thương mại của các thương nhân và các công ty Nhật
Bản ở Đông Dương, bài viết hướng tới việc đánh giá
một cách logic và có hệ thống những đặc điểm nổi
bật đáng chú ý trong hoạt động thương mại của người
Nhật ở tiểu vùng này.
Email: phuonganhjps@hcmussh.edu.vn
Lịch sử
• Ngày nhận: 03/06/2020
• Ngày chấp nhận: 12/3/2021
• Ngày đăng: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.646
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Trích dẫn bài báo này: Anh H P. Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ
XIX đến năm 1945 . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):919-927.
919
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
Khái quát quan hệ thương mại giữa Nhật Hoạt động của các thương nhân Nhật Bản
Bản và Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến
năm 1945
Người Nhật đã có mặt tại Đông Dương thuộc Pháp
từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phần lớn những
di dân Nhật Bản ở Đông Dương đến từ những vùng
nông thôn nghèo ở Kyushu như Nagazaki, Shimabara,
Từ cuối thế kỷ XIX, với sự thành công của công cuộc
Minh Trị Duy tân và đặc biệt là sau khi giành thắng lợi
trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật, Nhật Bản muốn Amakusa [5, tr. 212]. Tuy nhiên, số lượng người Nhật
bành trướng thế lực về kinh tế và quân sự của mình
ra toàn khu vực châu Á. Trong lĩnh vực kinh tế, Nhật
cũng rất chú ý đến một khu vực có tài nguyên phong
phú và thị trường tiêu thụ rộng lớn như Đông Dương.
Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á khác như
Đông Ấn Hà Lan, Philippines, Malaya thuộc Anh,
Siam, kim ngạch thương mại giữa Nhật Bản và Đông
Dương chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Trong cán cân thương
mại giữa Nhật Bản và Đông Dương, Nhật Bản luôn là
nước nhập siêu chủ yếu là các mặt hàng như gạo, than
đá, kim loại và bông sợi. Tuy Nhật Bản nhập rất nhiều
hàng hoá từ Đông Dương nhưng kim ngạch xuất khẩu
của Nhật đến Đông Dương chưa bao giờ chiếm 1%
tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Điều này
có thể thấy rõ thông qua số liệu được trình bày trong
dân Pháp muốn độc chiếm thị trường thuộc địa Đông
Dương, biến vùng này trở thành nơi cung cấp nguyên
liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa của mẫu quốc. Để
thực hiện chính sách này, Pháp đã dựng nên hàng rào
thuế quan để ngăn cản hàng hóa của các nước khác
nhập vào Đông Dương trong đó có Nhật Bản.
Từ cuối những năm 30 của thế kỷ XX, trước những
biến động to lớn của tình hình thế giới mà đặc biệt
là sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh ế giới thứ 2
đã tác động lớn đến quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản
và Đông Dương. Nếu như vào những năm 1920 -
1930, trong quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và
khu vực Đông Nam Á, các nước như Đông Ấn Hà
Lan, Malaya thuộc Anh, Philippines chiếm vị trí áp
đảo so với Đông Dương thì đến những năm 1940 xuất
nhập khẩu của Nhật với Đông Dương chiếm vị trí số
1 ở Đông Nam Á. Vào năm 1942, kim ngạch thương
mại giữa Đông Dương và Nhật Bản tăng một cách đột
biến từ 26 triệu yên (năm 1939) lên 223 triệu yên (năm
1942) đối với nhập khẩu (nhập khẩu từ Đông Dương
của Nhật Bản) và từ 1,9 triệu yên (1939) lên 144 triệu
yên (1942) đối với xuất khẩu (xuất khẩu sang Đông
cường quan hệ thương mại với Đông Dương không
hướng tới mục đích phát triển của hai phía mà chỉ
phục vụ cho nhu cầu của Nhật trong việc nhập những
mặt hàng chiến lược như gạo, than đá, cao su.
ở Đông Dương chiếm số lượng rất hạn chế. Vào năm
1914 số lượng người Nhật ở Đông Nam Á là 13.855
người trong đó người Nhật ở Đông Dương chỉ có 161
người, chiếm không đến 2% số lượng người Nhật ở
số người Nhật ở Đông Dương tăng hơn 300 người,
129] trong đó tập trung đông nhất ở các trung tâm
kinh tế như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Pnompenh.
Sự phát triển hoạt động thương mại của người Nhật ở
Đông Dương được tiến hành theo các phương thức
như sau: đến trực tiếp từ Nhật Bản; đến từ những
vùng lãnh thổ do Nhật Bản cai trị; đến từ quốc gia,
tr.198]. Trong các phương thức trên phương thức 1
bao gồm đối tượng là các di dân và các công ty, riêng
phương thức 2 và 3, đối tượng chủ yếu là các công
ty. Vào đầu thế kỷ XX, số lượng người Nhật hoạt
động kinh doanh tương đối ít chủ yếu là chủ các nhà
chứa. Vào năm 1900, trong số 12 người Nhật đang
sinh sống ở khu vực Tonkin thì có 8 người hoạt động
kinh doanh (6 người là chủ các nhà chứa, 2 người
1932 có 62 thương nhân Nhật Bản hoạt động tại Đông
76 người trong đó có 41 người là tiểu thương buôn bán
Tại Hà Nội, trong số 53 người Nhật đang sinh sống
thì có 4 thương nhân kinh doanh tạp hoá, bán dụng
quán của Nhật Bản được mở tại Sài Gòn vào năm
1936, hoạt động thương mại và đầu tư của Nhật Bản
vào Đông Dương được xúc tiến mạnh mẽ kéo theo sự
gia tăng số lượng các thương nhân Nhật Bản tại khu
vực này. Vào những năm cuối thập niên 1930 có hơn
200 người Nhật đăng ký lưu trú tại Đông Dương là
các thương nhân và nhà đầu tư. Khi mới đến Đông
Dương, các thương nhân Nhật Bản buôn bán các sản
phẩm nội địa như gạo, than củi, hàng tiểu thủ công
nghiệp, gỗ xây dựng...nhưng do sự cạnh tranh của
thương nhân người Pháp và người Hoa nên phần lớn
chuyển sang lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Vào
năm 1935 Phòng Công thương Nhật Bản tại Đông
Dương được thành lập tại Sài Gòn với 33 thành viên
là các thương nhân Nhật Bản đang sinh sống và làm
việc tại các địa phương của Đông Dương như Sài Gòn
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA
NGƯỜI NHẬT Ở ĐÔNG DƯƠNG TỪ
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945
920
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
Nước
1910
0,7
4,1
1,0
0,2
0,1
0,6
0,1
1,0
1915
1,2
3,1
1,1
1,4
0,1
0,5
0,1
0,7
1920
5,5
2,9
1,8
0,7
0,2
0,1
0,2
0,9
1925
3,7
4,0
1,3
0,6
0,3
0,9
0,2
1,9
1930
4,5
3.9
1,9
0,7
0,6
1,2
0,2
0,5
1935
5,7
3,2
1,9
1,0
1,6
0,2
0,2
0,6
Xuất khẩu1
Nhập khẩu2
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Đông Ấn Hà Lan
Philippines
Siam
Đông Dương thuộc Pháp
1 Nhật Bản xuất khẩu đến Đông Nam Á
2 Nhật Bản nhập khẩu từ Đông Nam Á
Nước
1939
1940
1941
1942
1943
1944
1945
Đông Ấn Hà Lan
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
71.741
173.381 161.007 15.732
55.520
99.817
19.600
99.768
30.053
55.096
87.833
49.169
97.034
132.269
47.563 5.674
68.499 691
67.326 3.960
82.960 46.866
36.672 1.210
56.838 1.135
10.910 3.178
10.250 89
137.802 125.313 153.704 12.715
Malaya thuộc Anh
Philippines
115.839 25.927
9.903
1.628
3.338
1.328
4.772
66.462
22.430
49.177
24.743
5.405
127.756 45.983
26.700
60.846
49.346
52.963
2.567
13.316
55.772
65.569
ái Lan
26.023
26.651
1.981
182.902 166.902
45.376 144.379
160.653 223.984
Đông Dương thuộc Pháp
21.760 1.898
22.275 311
97.806
Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Nha Trang, Đà Nẵng. Bước sang những năm 1940, cùng với việc tiến vào
Họ là những thương nhân có thế lực, đứng đầu các Đông Dương của quân đội Nhật và những điều khoản
công ty lớn của Nhật ở Đông Dương như Oku Kazuo, có lợi cho công dân Nhật đang sống tại Đông Dương
Ishikawa Tokuo, Kuroshima Akira, Kuroshima Akira, theo Hiệp ước Tokyo ngày 6/5/1941 giữa Pháp và
Mizutani Otokichi, Nagashima Kikuo, Takeuchi Mat- Nhật, số lượng thương nhân Nhật Bản ở Đông Dương
sujiro, Ebara Kichinosuke, Yokoyama Seishu (Hải tăng lên đặc biệt là khu vực Nam Kỳ. eo thống
Phòng), Watanabe Tohichi, Yamada Ryutaro, Oda kê của ống đốc Nam kỳ vào năm 1944, có 98 cửa
Naohiko, Sumida Kohichi, Kikuchi Ichinosuke, Shi- hàng của thương nhân Nhật đang hoạt động ở Nam
momura Satoshi, Matsuda Satoshi, Yamada Kiyoshi Kỳ trong đó có 74 cửa hàng đã đã được cấp giấy phép
(Hà Nội), Ninomiya Matsuhisa (Đà Nẵng), Takatani và 24 cửa hàng đã đăng ký nhưng chưa có giấy phép.
Makinosuke, Kato Tukasa (Nha Trang), Shiota Keijin, Các cửa hàng này không chỉ tập trung ở Sài Gòn Chợ
Matsushita Mitsuhiro, Morise Isamu, Murakami Kat- lớn mà còn ở những vùng xa trung tâm như Mỹ o,
suhiko, Tochi Masakazu, Kato Toshio, Miwa Takas\hi, Biên Hoà. Ngoài ra có nhiều cửa hàng của người Nhật
Nishizaki Mitsugu, Kim So Ritsu, Vrinat, G.Y (Sài hoạt động chui tại Sài Gòn Chợ lớn mà không khai
Gòn), Kyu Ren Shin, Shu Kin Paku, Ko To Ko (Chợ báo với Pháp. Các cửa hàng này chủ yếu kinh doanh
Lớn) [10, tr.392-393]. Bên cạnh đó, các Hiệp hội vải, đồ sứ, giấy, hàng tạp hóa nhập khẩu từ Nhật [11
người Nhật cũng được thành lập lần lượt tại Hải tr. 142].
,
Phòng vào năm 1935 và Hà Nội vào năm 1937 với sự Nếu như thương nhân Nhật ở các nước Đông Ấn
tham gia của rất nhiều thương nhân.
Hà Lan, Philippines hay Malaya thuộc Anh chiếm
921
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
số lượng đông và hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngắn nhưng sau đó đóng cửa do bị thua lỗ hay ảnh
như nông nghiệp (trồng và sản xuất gai, cao su), lâm hưởng từ sự biến động của nền kinh tế thế giới mà
nghiệp, thuỷ hải sản, thương mại thì ở Đông Dương đặc biệt các cuộc khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1907
số lượng thương nhân Nhật rất ít và phần lớn hoạt công ty Mitsui Bussan đã cử nhân sự đại diện tại Sài
động trong lĩnh vực thương mại mà cụ thể là nhập Gòn để thu mua gạo. Đến 1909 do kinh doanh không
khẩu và xuất khẩu các sản phẩm của Nhật Bản và tốt nên công ty này đã ngừng việc cử nhân sự đến Sài
Đông Dương. Có 2 nguyên nhân khiến cho số lượng Gòn. Mãi cho đến năm 1918 sau khi Chiến tranh ế
các thương nhân Nhật ở Đông Dương ít hơn so với các giới thứ 1 kết thúc, công ty Mitsui Bussan mới tái lập
nước Đông Nam Á khác. ứ nhất là do chính sách
khắt khe của thực dân Pháp đối với thương nhân nước
ngoài nhằm bảo đảm ưu tiên cho thương nhân mẫu
quốc. ứ hai là do sự chiếm lĩnh thị trường Đông
Dương của thương nhân người Hoa đã khiến cho các
thương nhân Nhật gặp nhiều khó khăn.
lại việc cử nhân sự đại diện tại Sài Gòn. Bên cạnh
Sài Gòn, Mitsui Bussan còn cử nhân sự đại diện tại
Hải Phòng để thu mua gạo Tonkin và xuất khẩu than
đá nhưng cũng phải tạm ngừng vào năm 1920. Sau
Mitsui thì các công ty Mitsubishi và Menka cũng tiến
vào Đông Dương để kinh doanh gạo vào năm 1918
Bên cạnh hoạt động kinh doanh, một vài thương nhân và 1925 nhưng đến cuối những năm 1930 thì rút lui
Nhật Bản ở Đông Dương còn tham gia các hoạt động khỏi Đông Dương do làm ăn không hiệu quả. Nguyên
mang tính chính trị. Tiêu biểu Yamane Doichi ở nhân thất bại của các công ty Nhật Bản ở Đông Dương
miền Bắc và Matsushita Mitsuhiro ở miền Nam là hai trong giai đoạn này là do không thể cạnh tranh với
thương nhân người Nhật đã hỗ trợ cho phong trào các công ty của người Pháp trong việc thu mua, xuất
giành độc lập của Việt Nam. Yamane Doichi đến
Đông Dương vào năm 1937 và hoạt động thương mại
tại Hà Nội. Ông đã thành lập “Viện nghiên cứu kinh
tế Đông Dương” như một nơi để giao lưu kiến thức,
thu hút sự tham gia của nhiều học giả, nhà nghiên
cứu, trí thức ở Đông Dương trong đó có những người
Ông đã liên hệ và giúp đỡ cho các hoạt động của
những người này trong thời gian từ cuối những năm
1930 đến đầu những năm 1940 trước khi trở về nước.
Matsushita Mitsuhiro là thương nhân Nhật Bản đến
Đông Dương vào năm 1912. Matsushita có quan hệ
mật thiết với Kỳ Ngoại hầu Cường Để và có rất nhiều
đóng góp đối với các hoạt động của Việt Nam Phục
Quốc Đồng Minh Hội, một tổ chức trị được thành lập
với mục đích đánh đuổi người Pháp tại Đông Dương,
khôi phục chủ quyền cho Việt Nam. Vào năm 1943
khi thực dân Pháp tăng cường đàn áp những chí sĩ
yêu nước Việt Nam, ông đã giúp đỡ Ngô Đình Diệm
và Trần Trọng Kim trốn thoát sự truy sát của Pháp.
Bên cạnh đó, Matsushita đã dùng tiền cá nhân để hỗ
trợ tài chính cho các hoạt động chống Pháp của Việt
Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội và quân đội Cao Đài
vào đầu những năm 1940.
khẩu gạo và không thể cạnh tranh với thương nhân
người Hoa trong việc bán gạo ở thị trường nội địa
Đông Dương thông qua các cửa hàng. Ngoài mua
bán lúa gạo, nhiều công ty Nhật Bản ở Đông Dương
còn kinh doanh các loại hàng hóa khác như than
đá, tơ sợi, thực phẩm... Có 9 tập đoàn kinh lớn của
Nhật Bản đã có măt tại Đông Dương như Mitsui Bus-
san, Mitsubishi Shoji, Nihon Menka, Daido Boeki,
Sanko Shokai, Ataka Shokai, Iwai Shokai, Asano Bus-
san, Kanematsu Shoten. Ngoài các tập đoàn kinh tế
lớn, các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản cũng hoạt
động ở Đông Dương từ những năm 1920 trong đó
tiêu biểu là Dainan Koshi, 1 công ty chuyên về xuất
nhập khẩu hàng hoá đầu tiên của Nhật Bản được thiết
lập tại Đông Dương (không phải chi nhánh hay văn
phòng đại diện mà là công ty mẹ) với trụ sở chính đặt
tại Sài Gòn vào năm 1922. Ngoài ra, Dainan Koshi còn
có 4 chi nhánh ở Đông Dương (Hà Nội, Hải Phòng,
Chợ Lớn và Pnompenh) và 20 văn phòng đại diện ở
Việc quân đội Nhật tiến vào Việt Nam vào năm 1940
đã tạo cơ hội thuận lợi cho các công ty Nhật Bản tăng
cường sự hiện diện của mình ở Đông Dương. Phần
với các công ty đã rút lui khỏi Đông Dương do thua lỗ
trước đây đều đã quay trở lại, tái lập lại các văn phòng
đại diện hay nâng cấp thành các chi nhánh. Bên cạnh
Hoạt động của các công ty Nhật Bản
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các tập đoàn kinh tế đó, có nhiều công ty mới cũng ồ ạt tiến vào Đông
và công ty của Nhật Bản đã bắt đầu cử nhân sự đại Dương bằng cách tăng cường đầu tư vốn, thiết lập các
diện hay mở các văn phòng đại diện, chi nhánh tại cơ sở sản xuất. Vào năm 1940 vốn đầu tư của các công
Đông Dương với lĩnh vực kinh doanh chính là thu ty Nhật tại Đông Dương là 12,5 triệu franc, đến năm
mua lúa gạo. Tuy nhiên, trước những năm 1930, số 1943 tăng 43 triệu francs [11, tr. 143]. Bảng 3 sẽ cho
lượng các công ty Nhật Bản rất ít và hoạt động không thấy vốn đầu tư cụ thể của từng công ty Nhật Bản ở
liên tục. Một số công ty hoạt động trong thời gian Đông Dương trong những năm 1940.
922
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
Bảng 3: Đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương trong những năm 1940 (Đơn vị: 1000 Piastre, %) [13
,
tr. 116]
Tên công ty
Vốn đầu tư
39.890
30.310
6.150
6.000
5.410
4.600
4.000
3.000
2.0000
1.900
1.800
1.200
1.120
1.000
1.000
1.000
1.120
920
Tỷ lệ
35,0
26,6
5,4
5,3
4,7
4,0
3,5
2,6
1,8
1,7
1,6
1,1
1,0
0,9
0,9
0,9
1,0
0,8
0,8
0,7
Mitsui Bussan
Mitsubishi Shoji
Dainan Kosi
Daiken Sangyo
Ataka Sangyo
Nichinan Zosen
Daikyo
Nanmei
Shinko Sangyo
Iwai Sangyo
Nichimen
Hayashikane Sangyo
Taiwan Takushoku
Shionogi
Takaoka Suisan
Nichinan Insatsu
Obayashi Kosi
Iida Takashimaya
Nissho
870
Các công ty khác
800
Tại Đông Dương, các công ty Nhật Bản chủ yếu đầu Bên cạnh các công ty, các ngân hàng lớn của Nhật
Bản cũng lập chi nhánh ở Đông Dương. Ví dụ như
Ngân hàng Yokohama đã mở chi nhánh tại Sài Gòn
vào tháng 4 năm 1920. Để đảm bảo cho các hoạt động
trong chi nhánh được thuận lợi, vào tháng 7 và tháng
12 hàng năm, Ngân hàng Yokohama đều cử nhân viên
đến chi nhánh Sài Gòn làm việc và những người này
thường nắm giữ chức vụ thư ký và quản lý. Từ năm
1927 đến 1930 Ngân hàng Yokohama đã cử 125 nhân
viên đến Sài Gòn làm việc trong đó có 38 thư ký và 87
Nhật, các ngân hàng của Trung Quốc cũng lập các chi
nhánh của mình ở Sài Gòn như Ngân hàng Hoa Nam
có trụ sở chính đóng tại Đài Loan. Vào năm 1929 do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên
các ngân hàng này đều bị đóng cửa do bị thua lỗ.
tư vào các lĩnh vực như thương mại (90 triệu yên),
lâm nghiệp (31 triệu yên), nông nghiệp (28 triệu yên),
công nghiệp (17 triệu yên), tàu thuyền (16 triệu yên),
giao thông đường bộ (8 triệu yên), khai khoáng (6
triệu yên), thuỷ hải sản (1 triệu yên), vận tải đường
biển (1 triệu yên), các ngành khác (5 triệu yên). Tỷ lệ
vốn đầu tư của Nhật Bản phân theo lĩnh vực được thể
Với những thuận lợi có được từ Hiệp ước Tokyo ngày
6/5/51941 giữa Pháp và Nhật quy định về các quyền
lợi của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương, số
lượng các công ty tăng lên nhanh chóng đặc biệt là
năm 1943, riêng ở Nam Kỳ, trung tâm kinh tế quan
trọng nhất của Đông Dương, có 106 công ty Nhật Bản
hoạt động trong đó có 88 công ty chuyên về xuất nhập
khẩu hàng hoá, 9 công ty chuyên về sản xuất công
nghiệp, 9 công ty chuyên về vận tải đường biển và 1
Đánhgiávềhoạtđộngthươngmạicủacông
ty Nhật Bản tại Đông Dương
Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Đông Dương
có những đặc điểm nổi bật như sau:
923
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
Loại hàng hoá
Hà Nội
Sài Gòn Chợ lớn
Hải Phòng
Dệt, sản xuất tơ sợi, may Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi,
mặc, kim chỉ, đồ da
Yuasa Shinomura Yoko, Tajima
Shikko, Tajima Yoko, Koshi, Yagi Koshi, Han- Yoko,
Dainan Koshi,
Shinomura Yoko,
hatsu Koshi,
Shoten
Okasaki Kikuchi Shikko,
Máy móc, dụng cụ gia đình,
đồ điện gia dụng, hoá chất, Kikuchi
sơn sống, phân bón, khai Urushi Ten, Shinomura Okamoto Yoko, Tajima Ureshi Ten, Yamada Karo,
Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Daiwa Shokai, Kikuchi
Shikko,Saito Koshi, Morise Shokai, Shikko, Fuue Yoko, Saito
khoáng
Yoko,
Yamada Karo, Yoko,
Yasuda
Yoko, Shinomura Yoko
Daiwa Shokai
Miyazaki Shoten
Giấy, bút
ực phẩm
Dainan Koshi, Soibudo
Koshi
Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi, Morise Kikuchi Shikko, Shino-
Shikko, Shinomura Yoko, Shokai, mura Yoko, Yasuda Yoko,
Yasuda Yoko Kontai Koshi, Nomura Dainan Koshi
Shokusan Boeki Kabushiki
Kaisha
Dược phẩm
Dainan Koshi
Xe đạp, các phụ tùng tự
động
Morise Shokai,
Dainan Koshi,
Yuasa Koshi
Tạp phẩm
Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Yasuda Yoko, Yamada
Kikuchi Shikko, Shino- Koshi, Saito Shoten, Karo, Kikuchi Shikko,
mura Yoko, Yamada Karo, Morise Shokai, Shioda Shinomura Yoko, Daiwa
Daiwa Shokai, Yasuda Shokai
Yoko
Shokai
924
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
ứ nhất, ngay từ khi đặt chân đến Đông Dương, các động thương mại. Chính phủ Nhật đã chỉ định cho
công ty Nhật Bản luôn phải đối mặt với những khó các công ty như Mitsui, Dainan, Murakami, Namba,
khăn từ chính sách độc quyền về nội thương lẫn ngoại Akatsuya, Mitsubishi thu mua và nắm giữ toàn bộ gạo,
thương của Pháp và sự cạnh tranh gay gắt của người bắp, ngũ cốc của Đông Dương và chuyển trực tiếp
Hoa. Bên cạnh đó, khác với các nước như Đông Ấn cho các tàu hải quân Nhật đang tham gia chiến tranh.
Hà Lan, Malaya thuộc Anh, các công ty Nhật Bản tại Bên cạnh đó, các công ty Nhật tại Đông Dương còn bị
Đông Dương không nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính phủ sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động
chính phủ Nhật Bản do quan hệ Nhật Bản - Pháp nội thương và ngoại thương của Đông Dương. Ví dụ
không tốt như quan hệ Nhật Bản - Hà Lan hay Nhật như ở khu vực Nam Kỳ của Đông Dương, công ty
Bản - Anh. Mãi cho đến những năm 1940 chính phủ Daido Boeki được chỉ định quản lý và phân phối toàn
Nhật Bản mới hỗ trợ cho sự tiến xuất của các công ty bộ các sản phẩm tơ sợi nhập khẩu tại Đông Dương.
tại Đông Dương thông qua viện trợ cho sự hoạt động Mỗi nhà nhập khẩu phải khai rõ số lượng tơ sợi nhập
của ”10 công ty Nam Tiến” chuyên về nhập khẩu hay khẩu cho công ty Daido Boeki và công ty này được độc
còn có tên gọi khác là “Tổ hợp các công ty nhập khẩu quyền về tiêu thụ. Danh sách các cơ sở bán lẻ tơ sợi
tại Đông Dương” [4, tr. 83] do chính chính phủ Nhật được công ty Daido boeki phân phối tại Đông Dương
Bản tuyển chọn.
đều phải được chính phủ Nhật Bản xét và phê duyệt
[
ứ hai, dưới áp lực từ chính quyền Pháp ở Đông
Dương cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các thương
nhân người Hoa, các công ty Nhật Bản tại Đông
Dương sử dụng rất nhiều cách thức kinh doanh khôn
khéo như dùng hàng hóa nhập từ Nhật đổi lấy hàng
hóa nội địa của người sản xuất hoặc người thu mua
rồi mang bán lại với giá cao, sử dụng những nguyên
liệu nhập khẩu từ Nhật để chế biến sản phẩm ngay tại
Đông Dương, tiến công thương mại vào vùng nông
thôn của các địa phương với việc thiết lập mạng lưới
các đại lý, cửa hàng đại diện của người Nhật để thay
thế cho mạng lưới phân phối của người Pháp và Hoa.
ứ ba, khi Chiến tranh ế giới ứ 2 bùng nổ với sự
tham gia của Nhật Bản, các nước như Anh, Hà Lan,
11, tr.149].
KẾT LUẬN
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát
triển của mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và
các nước Đông Nam Á, các thương nhân và công ty
Nhật Bản cũng đã tiến vào khu vực Đông Dương.
Trong giai đoạn trước những năm 1930, hoạt động
thương mại của người Nhật ở Đông Dương không
phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam
Á khác như Đông Ấn Hà Lan, Malaya thuộc Anh,
Philippines do những rào cản trong chính sách kinh
tế khắt khe của thực dân Pháp cũng như sự cạnh tranh
của các thương nhân Hoa kiều và phương Tây. Hoạt
Mĩ đã thực hiện chính sách cấm vận đối với Nhật Bản động thương mại của các thương nhân và công ty
mà đặc biệt là cấm xuất khẩu các mặt hành quan trọng Nhật Bản tại Đông Dương từ giữa những năm 1930 đã
như thiếc, cao su, sắt thép cho Nhật. Đông Dương có sự phát triển cả về lượng lẫn về chất so với giai đoạn
trở thành nơi duy nhất có thể cung cấp những mặt trước đó. Tuy sự gia tăng không ngừng về số lượng
hàng mà Nhật Bản đang cần. Do đó, trong giai đoạn và hoạt động của các thương nhân và doanh nghiệp
1941 - 1945, các công ty xuất nhập khẩu của Nhật có Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của
sự phát triển mạnh mẽ hơn giai đoạn trước đó. Bên nền kinh tế Đông Dương cũng như quan hệ thương
cạnh đó, nhiều côngty của Nhậtcòn tìm cách tấncông mại giữa Nhật Bản và Đông Dương nhưng thực tế chỉ
vào các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, mang đến lợi ích cho chính Nhật Bản chứ không phải
xây dựng, những lĩnh vực vốn thuộc về độc quyền của cho người dân bản xứ. Sự hiện diện của các thương
người Pháp và người bản xứ. Đến năm 1944 các công nhân và công ty Nhật ở Đông Nam Á vẫn tiếp tục tồn
ty lớn của Nhật đã kiểm soát hầu như toàn bộ các nhà tại khi cuộc Chiến tranh ế giới thứ hai diễn ra và
máy xay gạo, nhà máy nấu đường, xưởng sản xuất mỹ chỉ thực sự biến mất sau khi Nhật Bản bị bại trận.
nghệ, cơ sở sản xuất gỗ, nhà máy chế biến hải sản, cơ Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh ế giới thứ hai kết
sở khai thác lâm sản... ở Đông Dương. Với những thúc, Nhật Bản đã phục hồi một cách nhanh chóng và
thành công đó, giới doanh nghiệp Nhật đã thâu tóm một lần nữa các thương nhân và công ty Nhật lại tiến
hầu như toàn bộ nền nội thương lẫn ngoại thương của vào các nước Đông Dương. Do đó có thể nói những
bước ”Nam tiến” về mặt thương mại của người Nhật
ứ tư, trong những năm 1941 - 1945, hoạt động ở Đông Dương trong giai đoạn trước Chiến tranh
của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương bị chính ế giới thứ hai đã cung cấp những tiền đề hết sức
phủ quân phiệt và quân đội lợi dụng để phục vụ cho quan trọng cho việc thực hiện chính sách ”ngoại giao
chiến tranh. Các công ty được xem là bàn đạp để kinh tế” cũng như hoạt động của các thương nhân và
tấn công vào Đông Dương thông qua đầu tư và hoạt doanh nghiệp Nhật tại Đông Dương trong giai đoạn
925
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927
sau Chiến tranh ế giới thứ hai và cả trong giai đoạn
hiện nay.
second world war. Waseda University Institute of Asia Pacific
Studies. 2017;p. 209 –222.
6. Kiichi Y. Tổng quan về Nam Dương. Tokyo: Heibonsha. 1934;.
7. Isao T. Nguồn gốc và chiến lược của các công ty Nhật Bản ở
Đông Nam Á trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ 2.
Tokyo: Dobunkan. 2017;.
8. Yuyama E. Japanese merchants’ activities in French Indochina
- A Study of the lacquer trade. Vietnam - Indochina - Japan re-
lations during the second world war. Waseda University Insti-
tute of Asia Pacific Studies. 2017;p. 197–208.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia ành
phố Hồ Chí Minh (ĐHQG - HCM) trong khuôn khổ
đề tài mã số C2019-18b-08.
9. Tomokazu O. Cư dân ở các phố phường Hà Nội thời kỳ thuộc
địa - tầng lớp tiểu thương trong những năm 1930. Tạp chí
Nghiên cứu Châu Á. 2015;(05):87–114.
10. Fusaji T. Công ty Dainan và phong trào dân tộc của Việt
Nam thời chiến: sự ra đời của công ty chủ nghĩa châu Á
tại Đông Dương. Tạp chí nghiên cứu văn hoá Đông Dương.
2017;(19):357–398.
11. Quang NP. Tương quan kinh tế Pháp - Nhật tại Nam Kỳ 1940 -
1945. SựhiệndiệncủangườiNhậtởmiềnNamViệtNamtrong
giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG TP.HCM. 1998;p. 125–157.
12. Kyoichi T. Nhật Bản và phong trào giành độc lập của Việt Nam
trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2. Kỷ yếu Viện Nghiên
cứu Quốc Phòng. 2000;3:67–88.
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
- Sưu tầm, khai thác những tư liệu mới về tiến trình
tiếp cận, triển khai và phát triển các hoạt động thương
mại của người Nhật ở khu vực Đông Dương giai đoạn
từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Các tư liệu được
khai thác và sử dụng được viết bằng các ngôn ngữ như
tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật và đều là những tư
liệu đáng tin cậy.
13. Cụcđiều trakinh tế Đông Á -Đường sắtNam Mãn Châu. Người
Hoa ở Đông Dương. 1939;.
14. Yukichika T. Kế hoạch thực dân hoá của Nhật Bản đối với Đông
- Góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ quan trọng trong
lịch sử quan hệ kinh tế thương mại giữa Nhật Bản và
Đông Dương (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), một thời
kỳ mà chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều trong
giới học thuật ở Nhật Bản và Đông Nam Á.
Dương và thực trạng của nó. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á
- Lịch sử và Văn hoá. 1980;(9):103 –133.
15. Nghiêm ĐH. Biến động xã hội ở Nam Kỳ dưới tác động của
người Nhật 1940 - 1945. Sự hiện diện của người Nhật ở miền
Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG
TP.HCM. 1998;p. 45–88.
16. Hiệp hội thương mại Nhật Bản. Đông Dương thuộc Pháp và
tình hình thương mại. Tokyo: Hiệp hội thương mại Nhật Bản.
1941;.
17. Eiko Y. Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Indochina - Khảo
sát từ việc cử nhân viên đến Indochina của công ty Mitsui và
Mitsubishi từ năm những1920 đến đầu những năm 1940. Tạp
chí nghiên cứu kinh tế học Đại học Hokaido. 2013;62(3):107
–121.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Shinya S. Sự cọ sát về kinh tế của Đông Nam Á thời chiến.
Tokyo: Dobunkan. 1990;.
2. Cục thống kê Nhật Bản. Thống kê trường kỳ Nhật Bản. Tokyo:
Cục thống kê Nhật Bản. 1988;.
3. Hiệp hội Nam Dương. Bảng biểu thống kê mậu dịch Nam
Dương. Tokyo: Hyoron. 1943;.
4. Yasuyuki H. Khối thịnh vượng chung Nam Phương.Tokyo:
Taga. 1995;.
5. Dung NM. Japanese in Tokin during the first half of twenti-
eth century. Vietnam - Indochina - Japan relations during the
18. Ngọc TTB. Sự hiện diện của người Nhật ở Nam Kỳ- Tác động
về mặt kinh tế (1940 - 1945). Sự hiện diện của người Nhật ở
miền Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG
TP.HCM. 1998;p. 90 –125.
926
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):919-927
Research Article
Open Access Full Text Article
Japanese commercial activities in French Indochina from the late
19thcentury to 1945
Huynh Phuong Anh*
ABSTRACT
From the late 19th century to the early 20th century, Japan promoted trade and investment in
Southeast Asia, including French Indochina. As a subregion with an abundance of natural resources
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
and potential consumption market, Indochina became an attractive destination for Japanese mer-
chants and companies. The Japanese merchants moved into French Indochina from the end of
the 19th century and the early 20th century together with the great surge of Japanese immigration
to Southeast Asian countries since the end of the Meiji period. In the first phase, the number of
Japanese merchants in Indochina was relatively small and mainly engaged in importing and ex-
porting activities or grocery trading. In addition to merchants, Japanese economic zaibatsu and
companies started to open representative offices or branches in Indochina such as Mitsui Bussan,
Mitsubishi, Menka which focused on purchasing rice and coal. However, from the early 20th cen-
tury to the late 1930s, commercial activities of Japanese merchants and companies in Indochina
were restricted due to various reasons. From the late 1930s to the 1940s, along with Japanese com-
mercial policy towards Southeast Asia, especially the entry of Japanese military into Indochina, the
Japanese merchants and companies expanded their commercial activities in this region, through
which the great impacts were put upon foreign trade activities in Indochina as well as the commer-
cial relationship between Japan and Indochina.
Key words: Japan, French Indochina, Japan - Indochina, Commercial activity
University of Social Sciences &
Humanities, VNU-HCM
Correspondence
Huynh Phuong Anh, University of Social
Sciences & Humanities, VNU-HCM
Email: phuonganhjps@hcmussh.edu.vn
History
• Received: 03/06/2020
• Accepted: 12/3/2021
• Published: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.646
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article: Anh H P. Japanese commercial activities in French Indochina from the late
19thcentury to 1945 . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):919-927.
927
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hoat_dong_thuong_mai_cua_nguoi_nhat_o_dong_duong_tu_cuoi_the.pdf