Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
Bài Nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế  
kỷ XIX đến năm 1945  
Huỳnh Phương Anh*  
TÓM TẮT  
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đẩy mạnh hoạt động thương mại và đầu tư vào Đông  
Nam Á trong đó có Đông Dương thuộc Pháp. Vốn là một tiểu vùng có tài nguyên thiên nhiên  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
phong phú và thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, Đông Dương đã trở thành điểm sáng thu hút  
các thương nhân và doanh nghiệp Nhật Bản. Thương nhân Nhật Bản đã có mặt tại Đông Dương  
thuộc Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với sự bùng nổ của làn sóng di dân sang các nước  
Đông Nam Á từ cuối thời kỳ Minh Trị. Trong giai đoạn đầu, số lượng các thương nhân Nhật tại Đông  
Dương tương đối ít và chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc mua bán tạp hoá.  
Bên cạnh các thương nhân, từ những năm đầu thế kỷ XX, các tập đoàn kinh tế và công ty của Nhật  
Bản đã bắt đầu mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Đông Dương như Mitsui, Mitsubishi,  
Menka với lĩnh vực kinh doanh chính là thu mua lúa gạo và than đá. Tuy nhiên, hoạt động thương  
mại của người Nhật ở Đông Dương trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX đến nửa sau những  
năm 1930 có rất nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Từ cuối những năm 1930 đầu  
những năm 1940, cùng với việc thúc đẩy chính sách nam tiến về mặt thương mại của Nhật Bản đối  
với khu vực Đông Nam Á và đặc biệt là việc quân đội Nhật Bản tiến vào Đông Dương, các thương  
nhân và doanh nghiệp Nhật đã tăng cường sự hiện diện và mở rộng hoạt động thương mại ở khu  
vực này, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế ngoại thương của Đông Dương cũng như  
mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Đông Dương. Bằng việc sử dụng phương pháp lịch sử  
và logic trong quá trình nghiên cứu mà cụ thể là căn cứ vào bối cảnh lịch sử trong từng giai đoạn  
cụ thể để phân tích những hoạt động thương mại của các thương nhân và các công ty Nhật Bản ở  
Đông Dương, bài viết hướng tới việc đánh giá một cách logic và có hệ thống những đặc điểm nổi  
bật đáng chú ý trong hoạt động thương mại của người Nhật ở tiểu vùng này.  
Từ khoá: Nhật Bản, Đông Dương, Nhật Bản - Đông Dương, hoạt động thương mại  
và doanh nghiệp Nhật đã từng bước xác lập và mở  
rộng các cơ sở kinh doanh của mình tại vùng đất mà  
vốn thuộc đặc quyền của người Pháp và người Hoa.  
Trường Đại học Khoa học Xã hội và  
Nhân văn, ĐHQG-HCM  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Từ cuối thế kỷ XIX phần lớn các nước Đông Nam  
Á (trừ ái Lan) đều nằm dưới sự thống trị của chủ  
Liên hệ  
Huỳnh Phương Anh, Trường Đại học Khoa  
học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM  
nghĩa thực dân phương Tây. Ngoài trừ Siam là nước Tuy hoạt động thương mại của các thương nhân và  
đầu tiên và duy nhất thiết lập ngoại giao chính thức  
với Nhật Bản vào năm 1887, quan hệ giữa Nhật Bản và  
các nước Đông Nam Á đều phải thông qua các nước  
mẫu quốc là Pháp, Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha. Sau khi  
chính phủ Minh Trị được thành lập vào năm 1868, với  
phương châm ”Phú quốc cường binh, bên cạnh việc  
tiến hành một chuỗi các cải cách tiến bộ trên tất cả  
các lĩnh vực, chính quyền mới còn đặc biệt quan tâm  
đến việc phát triển ngoại thương. ắng lợi của Nhật  
Bản trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905)  
không những giúp Nhật Bản tăng cường vị thế và sự  
ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á mà còn  
tạo cơ hội cho Nhật Bản đầy mạnh chính sách ”Nam  
Tiến” trên lĩnh vực thương mại đối với khu vực này.  
Người Nhật đã có mặt tại Đông Dương thuộc Pháp  
từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các thương nhân  
doanh nghiệp Nhật Bản ở Đông Dương không phát  
triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam Á khác  
như Đông Ấn Hà Lan, Malaya thuộc Anh, Philip-  
pines nhưng cũng có những điểm nổi bật và tầm quan  
trọng riêng cần được làm sáng tỏ. Bằng việc sử dụng  
phương pháp lịch sử và logic trong quá trình nghiên  
cứu mà cụ thể là căn cứ vào bối cảnh lịch sử trong  
từng giai đoạn cụ thể để phân tích những hoạt động  
thương mại của các thương nhân và các công ty Nhật  
Bản ở Đông Dương, bài viết hướng tới việc đánh giá  
một cách logic và có hệ thống những đặc điểm nổi  
bật đáng chú ý trong hoạt động thương mại của người  
Nhật ở tiểu vùng này.  
Email: phuonganhjps@hcmussh.edu.vn  
Lịch sử  
Ngày nhận: 03/06/2020  
Ngày chấp nhận: 12/3/2021  
Ngày đăng: 31/3/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.646  
Bản quyền  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
Trích dẫn bài báo này: Anh H P. Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ  
XIX đến năm 1945 . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):919-927.  
919  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
Khái quát quan hệ thương mại giữa Nhật Hoạt động của các thương nhân Nhật Bản  
Bản và Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến  
năm 1945  
Người Nhật đã có mặt tại Đông Dương thuộc Pháp  
từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phần lớn những  
di dân Nhật Bản ở Đông Dương đến từ những vùng  
nông thôn nghèo ở Kyushu như Nagazaki, Shimabara,  
Từ cuối thế kỷ XIX, với sự thành công của công cuộc  
Minh Trị Duy tân và đặc biệt là sau khi giành thắng lợi  
trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật, Nhật Bản muốn Amakusa [5, tr. 212]. Tuy nhiên, số lượng người Nhật  
bành trướng thế lực về kinh tế và quân sự của mình  
ra toàn khu vực châu Á. Trong lĩnh vực kinh tế, Nhật  
cũng rất chú ý đến một khu vực có tài nguyên phong  
phú và thị trường tiêu thụ rộng lớn như Đông Dương.  
Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á khác như  
Đông Ấn Hà Lan, Philippines, Malaya thuộc Anh,  
Siam, kim ngạch thương mại giữa Nhật Bản và Đông  
Dương chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Trong cán cân thương  
mại giữa Nhật Bản và Đông Dương, Nhật Bản luôn là  
nước nhập siêu chủ yếu là các mặt hàng như gạo, than  
đá, kim loại và bông sợi. Tuy Nhật Bản nhập rất nhiều  
hàng hoá từ Đông Dương nhưng kim ngạch xuất khẩu  
của Nhật đến Đông Dương chưa bao giờ chiếm 1%  
tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Điều này  
có thể thấy rõ thông qua số liệu được trình bày trong  
Bảng 1. Nguyên nhân chính là do chính quyền thực  
dân Pháp muốn độc chiếm thị trường thuộc địa Đông  
Dương, biến vùng này trở thành nơi cung cấp nguyên  
liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa của mẫu quốc. Để  
thực hiện chính sách này, Pháp đã dựng nên hàng rào  
thuế quan để ngăn cản hàng hóa của các nước khác  
nhập vào Đông Dương trong đó có Nhật Bản.  
Từ cuối những năm 30 của thế kỷ XX, trước những  
biến động to lớn của tình hình thế giới mà đặc biệt  
là sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh ế giới thứ 2  
đã tác động lớn đến quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản  
và Đông Dương. Nếu như vào những năm 1920 -  
1930, trong quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và  
khu vực Đông Nam Á, các nước như Đông Ấn Hà  
Lan, Malaya thuộc Anh, Philippines chiếm vị trí áp  
đảo so với Đông Dương thì đến những năm 1940 xuất  
nhập khẩu của Nhật với Đông Dương chiếm vị trí số  
1 ở Đông Nam Á. Vào năm 1942, kim ngạch thương  
mại giữa Đông Dương và Nhật Bản tăng một cách đột  
biến từ 26 triệu yên (năm 1939) lên 223 triệu yên (năm  
1942) đối với nhập khẩu (nhập khẩu từ Đông Dương  
của Nhật Bản) và từ 1,9 triệu yên (1939) lên 144 triệu  
yên (1942) đối với xuất khẩu (xuất khẩu sang Đông  
Dương của Nhật Bản) (Bảng 2). Việc Nhật Bản tăng  
cường quan hệ thương mại với Đông Dương không  
hướng tới mục đích phát triển của hai phía mà chỉ  
phục vụ cho nhu cầu của Nhật trong việc nhập những  
mặt hàng chiến lược như gạo, than đá, cao su.  
ở Đông Dương chiếm số lượng rất hạn chế. Vào năm  
1914 số lượng người Nhật ở Đông Nam Á là 13.855  
người trong đó người Nhật ở Đông Dương chỉ có 161  
người, chiếm không đến 2% số lượng người Nhật ở  
khu vực này [6, tr. 351]. Đến những năm 1920 - 1930  
số người Nhật ở Đông Dương tăng hơn 300 người,  
tiêu biểu là năm 1937 với số lượng 241 người [7, tr.  
129] trong đó tập trung đông nhất ở các trung tâm  
kinh tế như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Pnompenh.  
Sự phát triển hoạt động thương mại của người Nhật ở  
Đông Dương được tiến hành theo các phương thức  
như sau: đến trực tiếp từ Nhật Bản; đến từ những  
vùng lãnh thổ do Nhật Bản cai trị; đến từ quốc gia,  
vùng lãnh thổ không thuộc quyền cai trị của Nhật [8,  
tr.198]. Trong các phương thức trên phương thức 1  
bao gồm đối tượng là các di dân và các công ty, riêng  
phương thức 2 và 3, đối tượng chủ yếu là các công  
ty. Vào đầu thế kỷ XX, số lượng người Nhật hoạt  
động kinh doanh tương đối ít chủ yếu là chủ các nhà  
chứa. Vào năm 1900, trong số 12 người Nhật đang  
sinh sống ở khu vực Tonkin thì có 8 người hoạt động  
kinh doanh (6 người là chủ các nhà chứa, 2 người  
mở cửa hàng bán tạp phẩm) [5, tr. 210]. Vào năm  
1932 có 62 thương nhân Nhật Bản hoạt động tại Đông  
Dương [4, tr.56]. Đến năm 1936 con số này tăng lên  
76 người trong đó có 41 người là tiểu thương buôn bán  
tại các chợ trung tâm ở Sài Gòn Chợ Lớn [7, tr.140].  
Tại Hà Nội, trong số 53 người Nhật đang sinh sống  
thì có 4 thương nhân kinh doanh tạp hoá, bán dụng  
cụ sơn, đồ kim loại [9, tr 100]. Từ sau khi Lãnh sự  
quán của Nhật Bản được mở tại Sài Gòn vào năm  
1936, hoạt động thương mại và đầu tư của Nhật Bản  
vào Đông Dương được xúc tiến mạnh mẽ kéo theo sự  
gia tăng số lượng các thương nhân Nhật Bản tại khu  
vực này. Vào những năm cuối thập niên 1930 có hơn  
200 người Nhật đăng ký lưu trú tại Đông Dương là  
các thương nhân và nhà đầu tư. Khi mới đến Đông  
Dương, các thương nhân Nhật Bản buôn bán các sản  
phẩm nội địa như gạo, than củi, hàng tiểu thủ công  
nghiệp, gỗ xây dựng...nhưng do sự cạnh tranh của  
thương nhân người Pháp và người Hoa nên phần lớn  
chuyển sang lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Vào  
năm 1935 Phòng Công thương Nhật Bản tại Đông  
Dương được thành lập tại Sài Gòn với 33 thành viên  
là các thương nhân Nhật Bản đang sinh sống và làm  
việc tại các địa phương của Đông Dương như Sài Gòn  
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA  
NGƯỜI NHẬT Ở ĐÔNG DƯƠNG TỪ  
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945  
920  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
Bảng 1: Tỷ lệ mậu dịch giữa Nhật Bản và Đông Nam Á (1910 -1935) (Đơn vị: %) Nguồn: [1, tr.292]  
Nước  
1910  
0,7  
4,1  
1,0  
0,2  
0,1  
0,6  
0,1  
1,0  
1915  
1,2  
3,1  
1,1  
1,4  
0,1  
0,5  
0,1  
0,7  
1920  
5,5  
2,9  
1,8  
0,7  
0,2  
0,1  
0,2  
0,9  
1925  
3,7  
4,0  
1,3  
0,6  
0,3  
0,9  
0,2  
1,9  
1930  
4,5  
3.9  
1,9  
0,7  
0,6  
1,2  
0,2  
0,5  
1935  
5,7  
3,2  
1,9  
1,0  
1,6  
0,2  
0,2  
0,6  
Xuất khẩu1  
Nhập khẩu2  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Đông Ấn Hà Lan  
Philippines  
Siam  
Đông Dương thuộc Pháp  
1 Nhật Bản xuất khẩu đến Đông Nam Á  
2 Nhật Bản nhập khẩu từ Đông Nam Á  
Bảng 2: Kim ngạch thương mại giữa Nhật Bản và Đông Nam Á từ 1940 -1945 (Đơn vị: 1000 Yên)24  
Nước  
1939  
1940  
1941  
1942  
1943  
1944  
1945  
Đông Ấn Hà Lan  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
Xuất khẩu  
Nhập khẩu  
71.741  
173.381 161.007 15.732  
55.520  
99.817  
19.600  
99.768  
30.053  
55.096  
87.833  
49.169  
97.034  
132.269  
47.563 5.674  
68.499 691  
67.326 3.960  
82.960 46.866  
36.672 1.210  
56.838 1.135  
10.910 3.178  
10.250 89  
137.802 125.313 153.704 12.715  
Malaya thuộc Anh  
Philippines  
115.839 25.927  
9.903  
1.628  
3.338  
1.328  
4.772  
66.462  
22.430  
49.177  
24.743  
5.405  
127.756 45.983  
26.700  
60.846  
49.346  
52.963  
2.567  
13.316  
55.772  
65.569  
ái Lan  
26.023  
26.651  
1.981  
182.902 166.902  
45.376 144.379  
160.653 223.984  
Đông Dương thuộc Pháp  
21.760 1.898  
22.275 311  
97.806  
Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Nha Trang, Đà Nẵng. Bước sang những năm 1940, cùng với việc tiến vào  
Họ là những thương nhân có thế lực, đứng đầu các Đông Dương của quân đội Nhật và những điều khoản  
công ty lớn của Nhật ở Đông Dương như Oku Kazuo, có lợi cho công dân Nhật đang sống tại Đông Dương  
Ishikawa Tokuo, Kuroshima Akira, Kuroshima Akira, theo Hiệp ước Tokyo ngày 6/5/1941 giữa Pháp và  
Mizutani Otokichi, Nagashima Kikuo, Takeuchi Mat- Nhật, số lượng thương nhân Nhật Bản ở Đông Dương  
sujiro, Ebara Kichinosuke, Yokoyama Seishu (Hải tăng lên đặc biệt là khu vực Nam Kỳ. eo thống  
Phòng), Watanabe Tohichi, Yamada Ryutaro, Oda kê của ống đốc Nam kỳ vào năm 1944, có 98 cửa  
Naohiko, Sumida Kohichi, Kikuchi Ichinosuke, Shi- hàng của thương nhân Nhật đang hoạt động ở Nam  
momura Satoshi, Matsuda Satoshi, Yamada Kiyoshi Kỳ trong đó có 74 cửa hàng đã đã được cấp giấy phép  
(Hà Nội), Ninomiya Matsuhisa (Đà Nẵng), Takatani và 24 cửa hàng đã đăng ký nhưng chưa có giấy phép.  
Makinosuke, Kato Tukasa (Nha Trang), Shiota Keijin, Các cửa hàng này không chỉ tập trung ở Sài Gòn Chợ  
Matsushita Mitsuhiro, Morise Isamu, Murakami Kat- lớn mà còn ở những vùng xa trung tâm như Mỹ o,  
suhiko, Tochi Masakazu, Kato Toshio, Miwa Takas\hi, Biên Hoà. Ngoài ra có nhiều cửa hàng của người Nhật  
Nishizaki Mitsugu, Kim So Ritsu, Vrinat, G.Y (Sài hoạt động chui tại Sài Gòn Chợ lớn mà không khai  
Gòn), Kyu Ren Shin, Shu Kin Paku, Ko To Ko (Chợ báo với Pháp. Các cửa hàng này chủ yếu kinh doanh  
Lớn) [10, tr.392-393]. Bên cạnh đó, các Hiệp hội vải, đồ sứ, giấy, hàng tạp hóa nhập khẩu từ Nhật [11  
người Nhật cũng được thành lập lần lượt tại Hải tr. 142].  
,
Phòng vào năm 1935 và Hà Nội vào năm 1937 với s Nếu như thương nhân Nhật ở các nước Đông Ấn  
tham gia của rất nhiều thương nhân.  
Hà Lan, Philippines hay Malaya thuộc Anh chiếm  
921  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
số lượng đông và hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngắn nhưng sau đó đóng cửa do bị thua lỗ hay ảnh  
như nông nghiệp (trồng và sản xuất gai, cao su), lâm hưởng từ sự biến động của nền kinh tế thế giới mà  
nghiệp, thuỷ hải sản, thương mại thì ở Đông Dương đặc biệt các cuộc khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1907  
số lượng thương nhân Nhật rất ít và phần lớn hoạt công ty Mitsui Bussan đã cử nhân sự đại diện tại Sài  
động trong lĩnh vực thương mại mà cụ thể là nhập Gòn để thu mua gạo. Đến 1909 do kinh doanh không  
khẩu và xuất khẩu các sản phẩm của Nhật Bản và tốt nên công ty này đã ngừng việc cử nhân sự đến Sài  
Đông Dương. Có 2 nguyên nhân khiến cho số lượng Gòn. Mãi cho đến năm 1918 sau khi Chiến tranh ế  
các thương nhân Nhật ở Đông Dương ít hơn so với các giới thứ 1 kết thúc, công ty Mitsui Bussan mới tái lập  
nước Đông Nam Á khác. ứ nhất là do chính sách  
khắt khe của thực dân Pháp đối với thương nhân nước  
ngoài nhằm bảo đảm ưu tiên cho thương nhân mẫu  
quốc. ứ hai là do sự chiếm lĩnh thị trường Đông  
Dương của thương nhân người Hoa đã khiến cho các  
thương nhân Nhật gặp nhiều khó khăn.  
lại việc cử nhân sự đại diện tại Sài Gòn. Bên cạnh  
Sài Gòn, Mitsui Bussan còn cử nhân sự đại diện tại  
Hải Phòng để thu mua gạo Tonkin và xuất khẩu than  
đá nhưng cũng phải tạm ngừng vào năm 1920. Sau  
Mitsui thì các công ty Mitsubishi và Menka cũng tiến  
vào Đông Dương để kinh doanh gạo vào năm 1918  
Bên cạnh hoạt động kinh doanh, một vài thương nhân và 1925 nhưng đến cuối những năm 1930 thì rút lui  
Nhật Bản ở Đông Dương còn tham gia các hoạt động khỏi Đông Dương do làm ăn không hiệu quả. Nguyên  
mang tính chính trị. Tiêu biểu Yamane Doichi ở nhân thất bại của các công ty Nhật Bản ở Đông Dương  
miền Bắc và Matsushita Mitsuhiro ở miền Nam là hai trong giai đoạn này là do không thể cạnh tranh với  
thương nhân người Nhật đã hỗ trợ cho phong trào các công ty của người Pháp trong việc thu mua, xuất  
giành độc lập của Việt Nam. Yamane Doichi đến  
Đông Dương vào năm 1937 và hoạt động thương mại  
tại Hà Nội. Ông đã thành lập “Viện nghiên cứu kinh  
tế Đông Dương” như một nơi để giao lưu kiến thức,  
thu hút sự tham gia của nhiều học giả, nhà nghiên  
cứu, trí thức ở Đông Dương trong đó có những người  
Việt Nam đang hoạt động chống Pháp [12, tr. 74].  
Ông đã liên hệ và giúp đỡ cho các hoạt động của  
những người này trong thời gian từ cuối những năm  
1930 đến đầu những năm 1940 trước khi trở về nước.  
Matsushita Mitsuhiro là thương nhân Nhật Bản đến  
Đông Dương vào năm 1912. Matsushita có quan hệ  
mật thiết với Kỳ Ngoại hầu Cường Để và có rất nhiều  
đóng góp đối với các hoạt động của Việt Nam Phục  
Quốc Đồng Minh Hội, một tổ chức trị được thành lập  
với mục đích đánh đuổi người Pháp tại Đông Dương,  
khôi phục chủ quyền cho Việt Nam. Vào năm 1943  
khi thực dân Pháp tăng cường đàn áp những chí sĩ  
yêu nước Việt Nam, ông đã giúp đỡ Ngô Đình Diệm  
và Trần Trọng Kim trốn thoát sự truy sát của Pháp.  
Bên cạnh đó, Matsushita đã dùng tiền cá nhân để hỗ  
trợ tài chính cho các hoạt động chống Pháp của Việt  
Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội và quân đội Cao Đài  
vào đầu những năm 1940.  
khẩu gạo và không thể cạnh tranh với thương nhân  
người Hoa trong việc bán gạo ở thị trường nội địa  
Đông Dương thông qua các cửa hàng. Ngoài mua  
bán lúa gạo, nhiều công ty Nhật Bản ở Đông Dương  
còn kinh doanh các loại hàng hóa khác như than  
đá, tơ sợi, thực phẩm... Có 9 tập đoàn kinh lớn của  
Nhật Bản đã có măt tại Đông Dương như Mitsui Bus-  
san, Mitsubishi Shoji, Nihon Menka, Daido Boeki,  
Sanko Shokai, Ataka Shokai, Iwai Shokai, Asano Bus-  
san, Kanematsu Shoten. Ngoài các tập đoàn kinh tế  
lớn, các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản cũng hoạt  
động ở Đông Dương từ những năm 1920 trong đó  
tiêu biểu là Dainan Koshi, 1 công ty chuyên về xuất  
nhập khẩu hàng hoá đầu tiên của Nhật Bản được thiết  
lập tại Đông Dương (không phải chi nhánh hay văn  
phòng đại diện mà là công ty mẹ) với trụ sở chính đặt  
tại Sài Gòn vào năm 1922. Ngoài ra, Dainan Koshi còn  
có 4 chi nhánh ở Đông Dương (Hà Nội, Hải Phòng,  
Chợ Lớn và Pnompenh) và 20 văn phòng đại diện ở  
các nước Đông Nam Á [8, tr. 207].  
Việc quân đội Nhật tiến vào Việt Nam vào năm 1940  
đã tạo cơ hội thuận lợi cho các công ty Nhật Bản tăng  
cường sự hiện diện của mình ở Đông Dương. Phần  
với các công ty đã rút lui khỏi Đông Dương do thua lỗ  
trước đây đều đã quay trở lại, tái lập lại các văn phòng  
đại diện hay nâng cấp thành các chi nhánh. Bên cạnh  
Hoạt động của các công ty Nhật Bản  
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các tập đoàn kinh tế đó, có nhiều công ty mới cũng ồ ạt tiến vào Đông  
và công ty của Nhật Bản đã bắt đầu cử nhân sự đại Dương bằng cách tăng cường đầu tư vốn, thiết lập các  
diện hay mở các văn phòng đại diện, chi nhánh tại cơ sở sản xuất. Vào năm 1940 vốn đầu tư của các công  
Đông Dương với lĩnh vực kinh doanh chính là thu ty Nhật tại Đông Dương là 12,5 triệu franc, đến năm  
mua lúa gạo. Tuy nhiên, trước những năm 1930, số 1943 tăng 43 triệu francs [11, tr. 143]. Bảng 3 sẽ cho  
lượng các công ty Nhật Bản rất ít và hoạt động không thấy vốn đầu tư cụ thể của từng công ty Nhật Bản ở  
liên tục. Một số công ty hoạt động trong thời gian Đông Dương trong những năm 1940.  
922  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
Bảng 3: Đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương trong những năm 1940 (Đơn vị: 1000 Piastre, %) [13  
,
tr. 116]  
Tên công ty  
Vốn đầu tư  
39.890  
30.310  
6.150  
6.000  
5.410  
4.600  
4.000  
3.000  
2.0000  
1.900  
1.800  
1.200  
1.120  
1.000  
1.000  
1.000  
1.120  
920  
Tỷ lệ  
35,0  
26,6  
5,4  
5,3  
4,7  
4,0  
3,5  
2,6  
1,8  
1,7  
1,6  
1,1  
1,0  
0,9  
0,9  
0,9  
1,0  
0,8  
0,8  
0,7  
Mitsui Bussan  
Mitsubishi Shoji  
Dainan Kosi  
Daiken Sangyo  
Ataka Sangyo  
Nichinan Zosen  
Daikyo  
Nanmei  
Shinko Sangyo  
Iwai Sangyo  
Nichimen  
Hayashikane Sangyo  
Taiwan Takushoku  
Shionogi  
Takaoka Suisan  
Nichinan Insatsu  
Obayashi Kosi  
Iida Takashimaya  
Nissho  
870  
Các công ty khác  
800  
Tại Đông Dương, các công ty Nhật Bản chủ yếu đầu Bên cạnh các công ty, các ngân hàng lớn của Nhật  
Bản cũng lập chi nhánh ở Đông Dương. Ví dụ như  
Ngân hàng Yokohama đã mở chi nhánh tại Sài Gòn  
vào tháng 4 năm 1920. Để đảm bảo cho các hoạt động  
trong chi nhánh được thuận lợi, vào tháng 7 và tháng  
12 hàng năm, Ngân hàng Yokohama đều cử nhân viên  
đến chi nhánh Sài Gòn làm việc và những người này  
thường nắm giữ chức vụ thư ký và quản lý. Từ năm  
1927 đến 1930 Ngân hàng Yokohama đã cử 125 nhân  
viên đến Sài Gòn làm việc trong đó có 38 thư ký và 87  
quản lý [17, tr. 109]. Bên cạnh ngân hàng của người  
Nhật, các ngân hàng của Trung Quốc cũng lập các chi  
nhánh của mình ở Sài Gòn như Ngân hàng Hoa Nam  
có trụ sở chính đóng tại Đài Loan. Vào năm 1929 do  
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên  
các ngân hàng này đều bị đóng cửa do bị thua lỗ.  
tư vào các lĩnh vực như thương mại (90 triệu yên),  
lâm nghiệp (31 triệu yên), nông nghiệp (28 triệu yên),  
công nghiệp (17 triệu yên), tàu thuyền (16 triệu yên),  
giao thông đường bộ (8 triệu yên), khai khoáng (6  
triệu yên), thuỷ hải sản (1 triệu yên), vận tải đường  
biển (1 triệu yên), các ngành khác (5 triệu yên). Tỷ lệ  
vốn đầu tư của Nhật Bản phân theo lĩnh vực được thể  
hiện theo Hình 1.  
Vi những thuận lợi có được từ Hiệp ước Tokyo ngày  
6/5/51941 giữa Pháp và Nhật quy định về các quyền  
lợi của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương, số  
lượng các công ty tăng lên nhanh chóng đặc biệt là  
ở Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng (Bảng 4). Vào  
năm 1943, riêng ở Nam Kỳ, trung tâm kinh tế quan  
trọng nhất của Đông Dương, có 106 công ty Nhật Bản  
hoạt động trong đó có 88 công ty chuyên về xuất nhập  
khẩu hàng hoá, 9 công ty chuyên về sản xuất công  
nghiệp, 9 công ty chuyên về vận tải đường biển và 1  
công ty chuyên về vận tải đường bộ [15, tr.71].  
Đánhgiávhoạtđộngthươngmicacông  
ty Nhật Bản tại Đông Dương  
Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Đông Dương  
có những đặc điểm nổi bật như sau:  
923  
 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
Hình 1: Sơ đồ đầu tư của công ty Nhật tại Đông Dương vào cuối năm 1944 [14, tr.117]  
Bảng 4: Các công ty thương mại Nhật Bản ở Đông Dương vào đầu những năm 1940 [16, tr. 118 - 119]  
Loại hàng hoá  
Hà Nội  
Sài Gòn Chợ lớn  
Hải Phòng  
Dệt, sản xuất tơ sợi, may Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi,  
mặc, kim chỉ, đồ da  
Yuasa Shinomura Yoko, Tajima  
Shikko, Tajima Yoko, Koshi, Yagi Koshi, Han- Yoko,  
Dainan Koshi,  
Shinomura Yoko,  
hatsu Koshi,  
Shoten  
Okasaki Kikuchi Shikko,  
Máy móc, dụng cụ gia đình,  
đồ điện gia dụng, hoá chất, Kikuchi  
sơn sống, phân bón, khai Urushi Ten, Shinomura Okamoto Yoko, Tajima Ureshi Ten, Yamada Karo,  
Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Daiwa Shokai, Kikuchi  
Shikko,Saito Koshi, Morise Shokai, Shikko, Fuue Yoko, Saito  
khoáng  
Yoko,  
Yamada Karo, Yoko,  
Yasuda  
Yoko, Shinomura Yoko  
Daiwa Shokai  
Miyazaki Shoten  
Giấy, bút  
ực phẩm  
Dainan Koshi, Soibudo  
Koshi  
Dainan Koshi, Kikuchi Dainan Koshi, Morise Kikuchi Shikko, Shino-  
Shikko, Shinomura Yoko, Shokai, mura Yoko, Yasuda Yoko,  
Yasuda Yoko Kontai Koshi, Nomura Dainan Koshi  
Shokusan Boeki Kabushiki  
Kaisha  
Dược phẩm  
Dainan Koshi  
Xe đạp, các phụ tùng tự  
động  
Morise Shokai,  
Dainan Koshi,  
Yuasa Koshi  
Tạp phẩm  
Dainan Koshi, Fuue Yoko, Mitsui Bussan, Dainan Yasuda Yoko, Yamada  
Kikuchi Shikko, Shino- Koshi, Saito Shoten, Karo, Kikuchi Shikko,  
mura Yoko, Yamada Karo, Morise Shokai, Shioda Shinomura Yoko, Daiwa  
Daiwa Shokai, Yasuda Shokai  
Yoko  
Shokai  
924  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
ứ nhất, ngay từ khi đặt chân đến Đông Dương, các động thương mại. Chính phủ Nhật đã chỉ định cho  
công ty Nhật Bản luôn phải đối mặt với những khó các công ty như Mitsui, Dainan, Murakami, Namba,  
khăn từ chính sách độc quyền về nội thương lẫn ngoại Akatsuya, Mitsubishi thu mua và nắm giữ toàn bộ gạo,  
thương của Pháp và sự cạnh tranh gay gắt của người bắp, ngũ cốc của Đông Dương và chuyển trực tiếp  
Hoa. Bên cạnh đó, khác với các nước như Đông Ấn cho các tàu hải quân Nhật đang tham gia chiến tranh.  
Hà Lan, Malaya thuộc Anh, các công ty Nhật Bản tại Bên cạnh đó, các công ty Nhật tại Đông Dương còn bị  
Đông Dương không nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính phủ sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động  
chính phủ Nhật Bản do quan hệ Nhật Bản - Pháp nội thương và ngoại thương của Đông Dương. Ví dụ  
không tốt như quan hệ Nhật Bản - Hà Lan hay Nhật như ở khu vực Nam Kỳ của Đông Dương, công ty  
Bản - Anh. Mãi cho đến những năm 1940 chính phủ Daido Boeki được chỉ định quản lý và phân phối toàn  
Nhật Bản mới hỗ trợ cho sự tiến xuất của các công ty bộ các sản phẩm tơ sợi nhập khẩu tại Đông Dương.  
tại Đông Dương thông qua viện trợ cho sự hoạt động Mỗi nhà nhập khẩu phải khai rõ số lượng tơ sợi nhập  
của ”10 công ty Nam Tiến” chuyên về nhập khẩu hay khẩu cho công ty Daido Boeki và công ty này được độc  
còn có tên gọi khác là “Thợp các công ty nhập khẩu quyền về tiêu thụ. Danh sách các cơ sở bán lẻ tơ sợi  
tại Đông Dương” [4, tr. 83] do chính chính phủ Nhật được công ty Daido boeki phân phối tại Đông Dương  
Bản tuyển chọn.  
đều phải được chính phủ Nhật Bản xét và phê duyệt  
[
ứ hai, dưới áp lực từ chính quyền Pháp ở Đông  
Dương cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các thương  
nhân người Hoa, các công ty Nhật Bản tại Đông  
Dương sử dụng rất nhiều cách thức kinh doanh khôn  
khéo như dùng hàng hóa nhập từ Nhật đổi lấy hàng  
hóa nội địa của người sản xuất hoặc người thu mua  
rồi mang bán lại với giá cao, sử dụng những nguyên  
liệu nhập khẩu từ Nhật để chế biến sản phẩm ngay tại  
Đông Dương, tiến công thương mại vào vùng nông  
thôn của các địa phương với việc thiết lập mạng lưới  
các đại lý, cửa hàng đại diện của người Nhật để thay  
thế cho mạng lưới phân phối của người Pháp và Hoa.  
ứ ba, khi Chiến tranh ế giới ứ 2 bùng nổ với sự  
tham gia của Nhật Bản, các nước như Anh, Hà Lan,  
11, tr.149].  
KẾT LUẬN  
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát  
triển của mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và  
các nước Đông Nam Á, các thương nhân và công ty  
Nhật Bản cũng đã tiến vào khu vực Đông Dương.  
Trong giai đoạn trước những năm 1930, hoạt động  
thương mại của người Nhật ở Đông Dương không  
phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam  
Á khác như Đông Ấn Hà Lan, Malaya thuộc Anh,  
Philippines do những rào cản trong chính sách kinh  
tế khắt khe của thực dân Pháp cũng như sự cạnh tranh  
của các thương nhân Hoa kiều và phương Tây. Hoạt  
Mĩ đã thực hiện chính sách cấm vận đối với Nhật Bản động thương mại của các thương nhân và công ty  
mà đặc biệt là cấm xuất khẩu các mặt hành quan trọng Nhật Bản tại Đông Dương từ giữa những năm 1930 đã  
như thiếc, cao su, sắt thép cho Nhật. Đông Dương có sự phát triển cả về lượng lẫn về chất so với giai đoạn  
trở thành nơi duy nhất có thể cung cấp những mặt trước đó. Tuy sự gia tăng không ngừng về số lượng  
hàng mà Nhật Bản đang cần. Do đó, trong giai đoạn và hoạt động của các thương nhân và doanh nghiệp  
1941 - 1945, các công ty xuất nhập khẩu của Nhật có Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của  
sự phát triển mạnh mẽ hơn giai đoạn trước đó. Bên nền kinh tế Đông Dương cũng như quan hệ thương  
cạnh đó, nhiều côngty của Nhậtcòn tìm cách tấncông mại giữa Nhật Bản và Đông Dương nhưng thực tế chỉ  
vào các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, mang đến lợi ích cho chính Nhật Bản chứ không phải  
xây dựng, những lĩnh vực vốn thuộc về độc quyền của cho người dân bản xứ. Sự hiện diện của các thương  
người Pháp và người bản xứ. Đến năm 1944 các công nhân và công ty Nhật ở Đông Nam Á vẫn tiếp tục tồn  
ty lớn của Nhật đã kiểm soát hầu như toàn bộ các nhà tại khi cuộc Chiến tranh ế giới thứ hai diễn ra và  
máy xay gạo, nhà máy nấu đường, xưởng sản xuất mỹ chỉ thực sự biến mất sau khi Nhật Bản bị bại trận.  
nghệ, cơ sở sản xuất gỗ, nhà máy chế biến hải sản, cơ Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh ế giới thứ hai kết  
sở khai thác lâm sản... ở Đông Dương. Vi những thúc, Nhật Bản đã phục hồi một cách nhanh chóng và  
thành công đó, giới doanh nghiệp Nhật đã thâu tóm một lần nữa các thương nhân và công ty Nhật lại tiến  
hầu như toàn bộ nền nội thương lẫn ngoại thương của vào các nước Đông Dương. Do đó có thể nói những  
Đông Dương [18, tr. 122]  
bước ”Nam tiến” về mặt thương mại của người Nhật  
ứ tư, trong những năm 1941 - 1945, hoạt động ở Đông Dương trong giai đoạn trước Chiến tranh  
của các công ty Nhật Bản tại Đông Dương bị chính ế giới thứ hai đã cung cấp những tiền đề hết sức  
phủ quân phiệt và quân đội lợi dụng để phục vụ cho quan trọng cho việc thực hiện chính sách ”ngoại giao  
chiến tranh. Các công ty được xem là bàn đạp để kinh tế” cũng như hoạt động của các thương nhân và  
tấn công vào Đông Dương thông qua đầu tư và hoạt doanh nghiệp Nhật tại Đông Dương trong giai đoạn  
925  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):919-927  
sau Chiến tranh ế giới thứ hai và cả trong giai đoạn  
hiện nay.  
second world war. Waseda University Institute of Asia Pacific  
Studies. 2017;p. 209 –222.  
6. Kiichi Y. Tổng quan về Nam Dương. Tokyo: Heibonsha. 1934;.  
7. Isao T. Nguồn gốc và chiến lược của các công ty Nhật Bản ở  
Đông Nam Á trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ 2.  
Tokyo: Dobunkan. 2017;.  
8. Yuyama E. Japanese merchants’ activities in French Indochina  
- A Study of the lacquer trade. Vietnam - Indochina - Japan re-  
lations during the second world war. Waseda University Insti-  
tute of Asia Pacific Studies. 2017;p. 197–208.  
LỜI CẢM ƠN  
Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia ành  
phố Hồ Chí Minh (ĐHQG - HCM) trong khuôn khổ  
đề tài mã số C2019-18b-08.  
9. Tomokazu O. Cư dân ở các phố phường Hà Nội thời kỳ thuộc  
địa - tầng lớp tiểu thương trong những năm 1930. Tạp chí  
Nghiên cứu Châu Á. 2015;(05):87–114.  
10. Fusaji T. Công ty Dainan và phong trào dân tộc của Việt  
Nam thời chiến: sự ra đời của công ty chủ nghĩa châu Á  
tại Đông Dương. Tạp chí nghiên cứu văn hoá Đông Dương.  
2017;(19):357–398.  
11. Quang NP. Tương quan kinh tế Pháp - Nhật tại Nam Kỳ 1940 -  
1945. ShiệndiệncangườiNhậtmiềnNamViệtNamtrong  
giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG TP.HCM. 1998;p. 125–157.  
12. Kyoichi T. Nhật Bản và phong trào giành độc lập của Việt Nam  
trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2. Kỷ yếu Viện Nghiên  
cứu Quốc Phòng. 2000;3:67–88.  
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.  
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
- Sưu tầm, khai thác những tư liệu mới về tiến trình  
tiếp cận, triển khai và phát triển các hoạt động thương  
mại của người Nhật ở khu vực Đông Dương giai đoạn  
từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Các tư liệu được  
khai thác và sử dụng được viết bằng các ngôn ngữ như  
tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật và đều là những tư  
liệu đáng tin cậy.  
13. Cụcđiều trakinh tế Đông Á -Đường sắtNam Mãn Châu. Người  
Hoa ở Đông Dương. 1939;.  
14. Yukichika T. Kế hoạch thực dân hoá của Nhật Bản đối với Đông  
- Góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ quan trọng trong  
lịch sử quan hệ kinh tế thương mại giữa Nhật Bản và  
Đông Dương (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), một thời  
kỳ mà chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều trong  
giới học thuật ở Nhật Bản và Đông Nam Á.  
Dương và thực trạng của nó. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á  
- Lịch sử và Văn hoá. 1980;(9):103 –133.  
15. Nghiêm ĐH. Biến động xã hội ở Nam Kỳ dưới tác động của  
người Nhật 1940 - 1945. Sự hiện diện của người Nhật ở miền  
Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG  
TP.HCM. 1998;p. 45–88.  
16. Hiệp hội thương mại Nhật Bản. Đông Dương thuộc Pháp và  
tình hình thương mại. Tokyo: Hiệp hội thương mại Nhật Bản.  
1941;.  
17. Eiko Y. Hoạt động của các công ty Nhật Bản ở Indochina - Khảo  
sát từ việc cử nhân viên đến Indochina của công ty Mitsui và  
Mitsubishi từ năm những1920 đến đầu những năm 1940. Tạp  
chí nghiên cứu kinh tế học Đại học Hokaido. 2013;62(3):107  
–121.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Shinya S. Sự cọ sát về kinh tế của Đông Nam Á thời chiến.  
Tokyo: Dobunkan. 1990;.  
2. Cục thống kê Nhật Bản. Thống kê trường kỳ Nhật Bản. Tokyo:  
Cục thống kê Nhật Bản. 1988;.  
3. Hiệp hội Nam Dương. Bảng biểu thống kê mậu dịch Nam  
Dương. Tokyo: Hyoron. 1943;.  
4. Yasuyuki H. Khối thịnh vượng chung Nam Phương.Tokyo:  
Taga. 1995;.  
5. Dung NM. Japanese in Tokin during the first half of twenti-  
eth century. Vietnam - Indochina - Japan relations during the  
18. Ngọc TTB. Sự hiện diện của người Nhật ở Nam Kỳ- Tác động  
về mặt kinh tế (1940 - 1945). Sự hiện diện của người Nhật ở  
miền Nam Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1940 - 1945. ĐHQG  
TP.HCM. 1998;p. 90 –125.  
926  
                                 
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):919-927  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
Japanese commercial activities in French Indochina from the late  
19thcentury to 1945  
Huynh Phuong Anh*  
ABSTRACT  
From the late 19th century to the early 20th century, Japan promoted trade and investment in  
Southeast Asia, including French Indochina. As a subregion with an abundance of natural resources  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
and potential consumption market, Indochina became an attractive destination for Japanese mer-  
chants and companies. The Japanese merchants moved into French Indochina from the end of  
the 19th century and the early 20th century together with the great surge of Japanese immigration  
to Southeast Asian countries since the end of the Meiji period. In the first phase, the number of  
Japanese merchants in Indochina was relatively small and mainly engaged in importing and ex-  
porting activities or grocery trading. In addition to merchants, Japanese economic zaibatsu and  
companies started to open representative offices or branches in Indochina such as Mitsui Bussan,  
Mitsubishi, Menka which focused on purchasing rice and coal. However, from the early 20th cen-  
tury to the late 1930s, commercial activities of Japanese merchants and companies in Indochina  
were restricted due to various reasons. From the late 1930s to the 1940s, along with Japanese com-  
mercial policy towards Southeast Asia, especially the entry of Japanese military into Indochina, the  
Japanese merchants and companies expanded their commercial activities in this region, through  
which the great impacts were put upon foreign trade activities in Indochina as well as the commer-  
cial relationship between Japan and Indochina.  
Key words: Japan, French Indochina, Japan - Indochina, Commercial activity  
University of Social Sciences &  
Humanities, VNU-HCM  
Correspondence  
Huynh Phuong Anh, University of Social  
Sciences & Humanities, VNU-HCM  
Email: phuonganhjps@hcmussh.edu.vn  
History  
Received: 03/06/2020  
Accepted: 12/3/2021  
Published: 31/3/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.646  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article: Anh H P. Japanese commercial activities in French Indochina from the late  
19thcentury to 1945 . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):919-927.  
927  
pdf 9 trang yennguyen 21/04/2022 1400
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động thương mại của người Nhật ở Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_thuong_mai_cua_nguoi_nhat_o_dong_duong_tu_cuoi_the.pdf