Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và sự giao lưu, tiếp biến trong các quan hệ tộc người
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
ĐẶCTRƯNGVĂNHÓAVÙNGTÂYNAMBỘVÀSỰGIAOLƯU,
TIẾP BIẾN TRONG CÁC QUAN HỆ TỘC NGƯỜI
NGUYỄN VĂN CHUỘNG
Tóm tắt
Văn hóa vùng Tây Nam Bộ là bộ phận hợp thành văn hóa dân tộc. Nó là cốt cách, tâm hồn, lý trí,
tình cảm, sức mạnh và là chất keo kết nối các cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông nước. Các
cộng đồng cư dân này đã gắn bó, đoàn kết với nhau suốt hơn ba thế kỷ qua để cùng tồn tại và phát
triển. Trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, tuy có sự giao thoa và tiếp biến của nhiều
vùng văn hóa khác nhau, theo đó văn hóa vùng Tây Nam Bộ nói chung, văn hóa cộng đồng, văn hóa
gia đình nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng, từ đó biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nhưng
nét đặc trưng văn hóa sông nước - văn hóa miệt vườn và văn hóa dung hợp của nhiều tộc người vẫn
không bị mất đi, trái lại, còn được bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện và sâu sắc.
Từ khóa: Văn hóa vùng Tây Nam Bộ, giao lưu, tiếp biến
Abstract
The South West culture is a component of national culture. It is the core, the soul, the rational, the
emotional, the strength and the glue that connects the communities of the delta. These communities
have been sticking together for more than three centuries to co-exist and develop. In the process of
national renovation and international integration, despite the interference and continuity of different
cultural areas, the South West culture in general and community culture, family culture in particular
have been under influence so that they have been changed both in the positive and the negative trends.
However, the cultural characteristics of the water area - the culture of the garden and the culture of the
various races have not been lost, they are developed and adjusted to be more complete and deep.
Keywords: South West culture, exchange, change
1. Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ
ây Nam Bộ hay còn gọi là Đồng bằng
sông Cửu Long, hiện nay gồm 13
chịt, sông ngòi dày đặc, nhiều phù sa do dòng
sông Mê Kông cung cấp. Chính nhờ vậy, đồng
ruộng nơi đây màu mỡ, cây trái tốt tươi, trĩu
quả. Và cũng chính đặc điểm tự nhiên này đã
hình thành nên văn hóa sông nước - văn hóa
miệt vườn.
T
tỉnh và thành phố, chiếm hơn 18%
dân số và 21% diện tích của cả nước. Nơi đây
trước kia là vùng đất mới nổi, hoang vắng,
trũng thấp, rất nhiều đầm lầy, kênh rạch chằng
34 Số 21 - Tháng 9 - 2017
VĂN HÓA DÂN GIAN - TRUYỀN THỐNG
Người dân Nam Bộ nói chung, Tây Nam Bộ
nói riêng chủ yếu là dân di cư từ miền Bắc, miền
Trung, thậm chí cả người Hoa đến đây khai phá
đất hoang, sinh cơ lập nghiệp. Đến với vùng
đất Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt
cũng theo truyền thống để tổ chức quần cư
thành làng, ấp. Tuy nhiên, về nội dung và hình
thức tổ chức, làng, ấp của người Việt Nam Bộ
có nhiều điểm khác biệt với làng quê ở đồng
bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Về nội dung, làng,
ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư
dân đến từ nhiều vùng miền khác nhau, nhiều
họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải
do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan
hệ láng giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng,
ấp cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến
người đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự
phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân
ngụ cư. Về hình thức tổ chức, để tiện cho việc
đi lại, làng, ấp ở Nam Bộ thường hình thành
dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ
tre làng đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng
của làng, ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở
đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
hóa dân tộc, sự tiếp biến văn hóa, bối cảnh tự
nhiên - xã hội Tây Nam Bộ. Ba nhân tố này tạo
thành một hệ tọa độ, hình thành hai đặc trưng
văn hoá cơ bản của vùng Tây Nam Bộ là: Đặc
trưng đồng bằng sông nước (văn hóa sông nước,
văn hóa miệt vườn) và sự tiếp biến các yếu tố văn
hoá của người Chăm, người Khmer, người Hoa
vào văn hoá Việt trong vùng (văn hóa dung hợp
hay hỗn dung văn hóa). Xét về mức độ, hai yếu
tố này là hai nét nổi trội của văn hoá vùng Tây
Nam Bộ, bởi vì, yếu tố sông nước, thực ra, cũng
có mặt trong các vùng văn hoá đồng bằng Bắc
Bộ và Trung Bộ, nhưng chỉ ở Đồng bằng sông
Cửu Long mới nổi lên thành một đặc trưng chủ
đạo, chi phối toàn diện cuộc sống cũng như
các thành tố văn hoá khác của các cộng đồng
dân cư. Và mặc dù các vùng văn hoá đồng
bằng ở Bắc Bộ và Trung Bộ cũng đều có sự tiếp
biến văn hoá của các tộc người khác nhau,
nhưng chỉ ở Đồng bằng sông Cửu Long, nét
văn hoá các tộc người thiểu số cộng cư mới đủ
sức giao thoa với văn hoá của cư dân Việt trong
vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa quen
thuộc vừa mới lạ đối với chính người Việt đến
từ miền Bắc, miền Trung.
Dân cư vùng Tây Nam Bộ gồm người Việt,
Khmer, Hoa, Chăm,… trong đó có người theo
đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo
Hoà Hảo, đạo Hồi,… Đặc biệt, ở Nam Bộ còn
xuất hiện thêm những phong trào tôn giáo
cứu thế, những nhà tiên tri, những ông đạo,
như: đạo Dừa, đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo Câm,
Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa,… và
cả những người không theo tôn giáo nào. Do
vậy, Tây Nam Bộ là vùng đa tộc người, đa tôn
giáo nhưng lại kết cấu trên cơ sở tinh thần bao
dung, hoà hợp, đồng nguyên. Có thể nói, Tây
Nam Bộ là vùng văn hóa dung hợp của nhiều
tộc người, trong đó văn hoá Việt là nền tảng,
chi phối, ảnh hưởng lớn nhất.
Về đặc trưng văn hóa sông nước - văn hóa
miệt vườn: Tây Nam Bộ là vùng đất trũng thấp,
có nhiều kênh rạch, sông ngòi chằng chịt,
cùng với nó là những chiếc ghe, chiếc xuồng.
Hình ảnh này gắn liền với đời sống hằng ngày
của người dân nơi đây. Có thể nói chiếc ghe,
chiếc xuồng là phương tiện để truyền tải văn
hóa dân gian đi khắp nơi. Trải qua quá trình
phát triển, hình ảnh đó ngày càng được tôn
vinh, gìn giữ, tạo nên sắc thái văn hóa riêng,
đặc sắc của vùng sông nước. Chính vì thế, Chu
Xuân Diên mới có nhận định “Cũng thuộc nền
văn minh lúa nước nhưng Nam Bộ còn là xứ sở
của văn minh kênh rạch với những biểu hiện rất
phong phú trong phương thức canh tác, trong
nhịp điệu làm ăn, trong giao thông, trong tín
Có thể nói, văn hóa vùng Tây Nam Bộ
(Đồng bằng sông Cửu Long) là sản phẩm tổng
hợp của ba nhân tố chính: Truyền thống văn
NGHIÊN CỨU
Số 21 - Tháng 9 - 2017
35
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
ngưỡng, phong tục tập quán, trong ngôn ngữ
thậm chí có tính chất pha tạp. Nguyên nhân
là bản thân các lớp cư dân người Việt cũng có
tính chất là những người tứ xứ, họ đến vùng
đất mới với một tinh thần phóng khoáng, cởi
mở, nên dễ dung hòa, dễ tiếp nhận những yếu
tố văn hóa khác” (1, tr.172). Chính đặc trưng
văn hóa vùng Tây Nam Bộ làm cho con người
nơi đây sống rất nghĩa khí, hòa hiệp, bao dung,
năng động, sáng tạo, cởi mở, phóng khoáng,
lạc quan, yêu đời, rất quý trọng tình nghĩa và
mến khách.
và văn học nghệ thuật”(1, tr.171-172).
Có thể nói thêm rằng, ở vùng sông nước,
do kênh rạch chằng chịt nên con người đi lại,
chuyên chở chủ yếu bằng ghe, xuồng, chèo
chống theo con nước, tiện đâu đi đó, không
đi về theo một lối. Vả lại, làng ở vùng sông
nước Cửu Long là nơi con người tứ phương
tụ lại nên không khép mình trong một không
gian chung đụng; thay vào đó, mỗi người có
thể chọn cho mình một mảnh đất riêng bên
hàng dừa, trong rặng trâm bầu, dưới tán mù
u, hay cây giá, cây đước, cây bần, v.v… nhưng
vẫn giữ được quan hệ chòm xóm. Chính vì thế,
người dân lập vườn, định cư, ban đầu thường
chọn hai bên bờ kênh, rạch, sau đó tiến dần
đến những trục lộ giao thông. Sở dĩ có sự lựa
chọn hai bên bờ sông, kênh, rạch để lập vườn
sinh sống như thế là vì phương tiện giao thông
bằng ghe, xuồng rất thuận tiện và dễ mua sắm,
thậm chí họ làm nhà trên ghe, xuồng. Hơn nữa,
ở cạnh sông, rạch, nguồn cá, tôm sẵn có, tiện
cho việc tìm thức ăn, sinh hoạt tắm giặt và nấu
nướng. Có thể nói, miệt vườn là tiêu chuẩn mơ
ước của nhiều người dân nơi đây. Theo Sơn
Nam, “Miệt vườn là nơi sông nước chảy (thông
lưu quán khái), hợp vệ sinh, nhiều phù sa, giao
thông dễ dàng. Vì vậy mà con người không có
óc địa phương, cực đoan. Phù sa ở lại, rác rến
trôi”(3, tr. 339).
2. Sự giao lưu và tiếp biến văn hoá vùng Tây
Nam Bộ
Không gian văn hoá vùng Tây Nam Bộ là
phần mở rộng của không gian văn hoá Việt
Nam trên một vùng đất mới mà ở đó, chung
tay khai phá với người Việt còn có các tộc
người bản địa và các tộc người đến từ nơi khác.
Vì vậy, trên vùng đất này, ngay từ đầu, văn hoá
của cư dân Việt, mà trong đó đã có sẵn yếu tố
Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá của
các cư dân Khmer, Hoa. Trong suốt một thời
gian dài, vùng đất này lại chịu ảnh hưởng của
văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Từ năm
1975 đến nay, do điều kiện cuộc sống thay đổi,
nơi đây cũng trở thành một địa bàn biến động
mạnh mẽ về thành phần tộc người, không
kém vùng miền Đông và Tây Nguyên. Vì vậy,
Tây Nam Bộ cũng là một vùng đất mà giao lưu,
tiếp biến văn hoá đã và đang diễn ra với tốc độ
rất nhanh. Điểm khác biệt là hầu như không có
một nền nếp, lối sống văn hoá nào đến nơi đây
mà còn giữ nguyên chất thuần Việt, nó luôn có
bóng dáng của những nền văn hoá khác đan
xen, hội tụ, hòa quyện vào nhau trong hơn ba
thế kỷ qua. Chính vì thế, có thể nói, giao thoa
văn hoá chính là một trong những điểm khác
biệt, nổi trội, là bản sắc của văn hoá Tây Nam
Bộ. Điều đó làm cho văn hoá Tây Nam Bộ vừa
tương đồng lại vừa khác biệt với cội nguồn
của nó là văn hoá Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ
và Trung Bộ. Tuy nhiên, nói như thế không có
Về đặc trưng văn hóa dung hợp (hỗn dung
văn hóa): Vùng Tây Nam Bộ là nơi cư dân“tứ xứ”
về sinh sống nên có nhiều tộc người, nhiều tôn
giáo (thậm chí có tộc người, tôn giáo chỉ hiện
hữu ở nơi đây mà không ở các vùng khác như
tộc Khmer, đạo Cao Đài, Hòa Hảo). Do nhiều
phong tục, tập quán và tín ngưỡng khác nhau
cùng tồn tại nên Tây Nam Bộ là vùng giao thoa,
tiếp biến văn hóa rất lớn, tạo thành đặc trưng
văn hóa dung hợp. Theo Chu Xuân Diên, ở Nam
Bộ“quá trình giao lưu văn hóa mau lẹ, dẫn đến
những hiện tượng hỗn dung văn hóa phức tạp,
36 Số 21 - Tháng 9 - 2017
VĂN HÓA DÂN GIAN - TRUYỀN THỐNG
nghĩa là văn hoá Tây Nam Bộ chỉ là con số cộng
các luồng văn hoá đã hội tụ vì trong quá trình
giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây không
tiếp thu nguyên vẹn các nền văn hoá khác mà
chỉ chọn lọc những yếu tố phù hợp, đáp ứng
các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình để
bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo.
Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây không tự đánh
mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá thu
nạp được theo hướng làm cho nó thích ứng
với nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới.
Chính vì lẽ đó mà có thể nói, sự tái tạo các giá
trị văn hoá cũng là một trong những nét đặc sắc
của văn hoá nơi đây.
chung, văn hóa cộng đồng và văn hóa gia đình
nói riêng (từ nhận thức cho đến cách lao động
sản xuất, tổ chức xã hội; cách ăn, mặc, ở, đi lại;
cách vui chơi giải trí; tín ngưỡng, phong tục, lễ
hội,…) đều có nhiều biến đổi và phát triển. Sự
chuyển biến rõ nét nhất là nền dân chủ trong
xã hội và gia đình ngày càng phát triển, tạo cơ
sở cho việc thiết lập các mối quan hệ xã hội
và quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
ngày càng tiến bộ hơn. Nền nếp, lối sống gia
đình truyền thống theo kiểu mệnh lệnh, áp
đặt một chiều, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy
đang từng bước được thay thế bằng phương
pháp giáo dục hiện đại, mang tính dân chủ, cởi
mở và bình đẳng hơn, tạo được sự đồng thuận
và tiếng nói chung giữa các thành viên trong
gia đình.
Trong quá trình sinh sống và giao lưu văn
hóa, do điều kiện môi trường tự nhiên và xã
hội đặc thù (vùng đất mới, dân di cư, đa sắc
tộc, đa tôn giáo) nên tất cả các nền văn hoá
sinh tụ nơi đây đều buộc phải tự cấu trúc lại,
lược bỏ những giá trị không còn phù hợp, phát
triển hoặc sáng tạo những giá trị mới giúp cho
các cộng đồng dân cư có thể cùng tồn tại và
phát triển. Vì vậy, sự uyển chuyển, linh động,
phóng khoáng, bao dung, dần dà đã trở thành
nét bản sắc của văn hoá Việt ở Tây Nam Bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, mặt trái
của nền kinh tế thị trường cùng với biết bao hệ
lụy xã hội của nó đã và đang ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển văn hóa vùng Tây Nam
Bộ, nhất là văn hóa gia đình truyền thống. Sự
canh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường
khiến cho nhiều gia đình, vì cuộc sống phải
bất chấp luân thường, đạo lý để làm giàu bất
chính; tính cá nhân chủ nghĩa, vị kỷ theo đó
cũng phát triển; mối quan hệ trong giao tiếp,
sinh hoạt, học tập ngày càng bị thương mại
hóa, dẫn đến con người lạnh lùng, vô cảm,
nhất là lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi học đường.
3. Ảnh hưởng của quá trình đổi mới và hội
nhập quốc tế đến phát triển văn hóa vùng
Tây Nam Bộ hiện nay
3.1. Ảnh hưởng của quá trình đổi mới đất
nước đến phát triển văn hóa vùng Tây Nam Bộ
3.2. Ảnh hưởng của quá trình toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế đến phát triển văn
hóa vùng Tây Nam Bộ
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta xác định đường lối phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự
chuyển hướng chiến lược này là một khâu đột
phá về mặt tư duy chính trị nhằm giải phóng
lực lượng sản xuất và mọi tiềm năng của xã
hội. Chủ trương đó đã khơi dậy và thúc đẩy
khả năng sáng tạo của người lao động, nâng
cao mức sống và chất lượng cuộc sống của
mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có vùng Tây
Nam Bộ. Theo đó, văn hóa Tây Nam Bộ nói
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu
thế tất yếu khách quan trong quá trình phát
triển của nhân loại. Đây là một quá trình mở,
với nhiều yếu tố tích cực, đồng thời cũng chứa
đựng không ít những yếu tố tiêu cực. Nó đã và
đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến mọi
mặt của đời sống gia đình và xã hội Việt Nam.
Cả nước nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, về cơ
bản hiện nay vẫn giữ được giá trị văn hóa cộng
NGHIÊN CỨU
Số 21 - Tháng 9 - 2017
37
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
Tài liệu tham khảo
đồng và văn hóa gia đình truyền thống, đồng
thời tiếp thu những giá trị văn hóa, lối sống
hiện đại như: sự dân chủ, bình đẳng trong xã
hội; sự bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa cha
mẹ và con cái trong gia đình; sự tôn trọng tự
do cá nhân, tôn trọng quyền lựa chọn các giá
trị văn hóa, đạo đức, lối sống…Tuy nhiên, bên
cạnh những tác động tích cực, toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều nguy
cơ, thách thức cho chính quyền và các bậc
làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục lớp trẻ.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền
thông, nhất là mạng Internet đánh dấu bước
tiến lớn của nhân loại song cũng là điều kiện
thuận lợi cho các sản phẩm văn hóa độc hại
xâm nhập, làm thay đổi các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc, gây ra những bất ổn
về mặt tâm lý và sự lệch lạc về nhân cách, lối
sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên
hiện nay.
1. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Vũ Minh Giang (2014), Lược sử vùng đất
Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Sơn Nam (2006), Đình miếu và Lễ hội dân
gian miền Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Phan Xuân Sơn và Chu Thị Thanh Huyền
(2016), Vấn đề văn hóa trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3.
5. Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hóa
Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
Ngày nhận bài: 15 - 6 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 9 - 2017
Ngày chấp nhận đăng: 30 - 9 - 2017
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao
lưu và tiếp biến văn hóa giữa các vùng miền
rất mạnh mẽ. Các yếu tố văn hóa tích cực cũng
như tiêu cực lan tỏa rất nhanh chóng. Văn hóa
Tây Nam Bộ không nằm ngoài vòng xoáy đó.
Song có điều, để mỗi cộng đồng cư dân Tây
Nam Bộ không tự đánh mất văn hóa của mình
mà qua giao lưu, còn bổ sung, phát triển thêm
các giá trị văn hóa mới thì trước hết, các cơ
quan hữu trách cần có chủ trương, giải pháp
phát triển văn hóa, xây dựng con người phù
hợp với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Đồng thời, mỗi tộc người
ở vùng đất Tây Nam Bộ phải biết tự bảo vệ,
phải có bản lĩnh “độc lập văn hóa”; mặt khác,
phải biết lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mẫu
số chung để xây dựng và phát triển văn hóa
cho tộc người mình. Có như vậy, thì hội nhập
mới thành công và đất nước mới phát triển
bền vững.
N.V.C
(NCS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)
38 Số 21 - Tháng 9 - 2017
Bạn đang xem tài liệu "Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và sự giao lưu, tiếp biến trong các quan hệ tộc người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dac_trung_van_hoa_vung_tay_nam_bo_va_su_giao_luu_tiep_bien_t.pdf