Ảnh hưởng tôn giáo phương Đông trong chạm khắc trang trí hình tượng con người thế kỷ XVI-XVII

TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
ẢNH HƯỞNG TÔN GIÁO PHƯƠNG ĐÔNG  
TRONG CHẠM KHẮC TRANG TRÍ HÌNH TƯỢNG  
CON NGƯỜI THẾ KỶ XVI XVII  
Nguyn ThVit Hà1  
TÓM TẮT  
Title: The impact of oriental culture on  
carving human figure during XVI-XVII  
Tôn giáo tín ngưỡng phương Đông nhìn từ góc độ  
mỹ thuật cổ truyền, điểm nhấn là Phật giáo. Thông qua  
century  
các hình tượng trang trí chạm khắc truyền thống, cụ thể  
Từ khóa: Nghệ thuật truyền thống Việt  
là hình tượng con người để gợi mở mức độ ảnh hưởng  
Nam, Chạm khắc, điêu khắc dân gian,  
của văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong tạo hình dân  
mỹ thuật cổ truyền, tín ngưỡng  
gian. Đồng thời, đó cũng là cơ sở khách quan để nhìn  
phương Đông, hoa văn trang trí  
nhận những giá trị truyền thống từ thực tiễn vốn có,  
góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa nghệ thuật  
dân gian hiện nay.  
Keywords: Vietnamese Traditional  
Art, Carving, decorative art, folk  
sculpture, traditional art, oriental  
religion, oriental beliefs  
ABSTRACT  
The oriental religious beliefs are looked from the  
Traditional Art perspective, especially in Buddhism.  
Through traditional carved decorative figures,  
particularly the human image, revealing the influence  
of cultural beliefs and religions on folk shaping. That is  
also an objective basis to recognize the traditional  
Lch sbài báo:  
Ngày nhn bài: 15/4/2020;  
Ngày nhn kết qubình duyt:  
14/5/2020;  
Ngày chp nhận đăng bài: 15/8/2020.  
Tác giả:  
value from artistic creativity and to raise awareness  
about folk art nowadays  
Trường ĐH Kiến trúc TP. HCM  
được nhà nước phong kiến bảo vệ, duy trì để  
làm nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế  
1. Giới thiệu  
Chạm khắc trang trí là phần quan trọng  
của mỹ thuật dân gian Việt Nam. Đề tài và thủ  
pháp tạo hình mang đậm dấu ấn tính chất dân  
dã của dòng chảy mỹ thuật truyền thống. Âm  
vang đời sống sinh hoạt dân gian được khắc  
họa đậm nét còn tồn tại tới ngày nay, nhất là  
giai đoạn thế kỷ XVI - XVII. Giai đoạn này, đất  
nước Việt diễn ra các cuộc chiến tranh liên  
miên giữa các tập đoàn phong kiến (Mạc -  
Trịnh - Nguyễn). Trong hoàn cảnh này, người  
dân vẫn tiếp nối được truyền thống cần lao,  
thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Nho giáo vẫn  
của chính quyền, làm kỷ cương của xã hội,  
nhưng ở thời kỳ này, Nho giáo phải chịu bước  
vào thời kỳ suy thoái, không còn được độc tôn  
như trước. Ngược lại, Phật giáo lại được phục  
hưng, xã hội tôn sùng và tìm đến như một  
chiếc phao cứu sinh. Về phương diện nghệ  
thuật, chính trong thời kỳ lịch sử này thể  
hiện một bước phát triển mới mang đậm đà  
bản sắc dân tộc. Qua các chạm khắc thời bấy  
giờ đã thấy toát lên tính chất dân gian và tính  
dân tộc hết sức đậm đà phong phú những đề  
tài và đặc sắc trong bối cảnh tạo hình.  
Tp 8 (12/2020)  
70  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Trong văn hoá dân gian Việt Nam, hệ tư  
cho mình một sức sống vô biên, vượt qua  
những ngăn cách của địa lý, văn hóa, tôn  
giáo, ý thức hệ, thời gian, không gian… Vì  
vậy, Phật giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với  
tất cả các truyền thống văn hóa tín ngưỡng  
của một quốc gia có một sắc thái sống riêng  
biệt, đặc thù, như Việt Nam.  
tưởng Nho - Phật - Đạo khắc họa đậm nét  
trong đời sống sinh hoạt, quan điểm và cách  
biểu hiện của mỹ thuật với tư tưởng dung  
hòa “tam giáo đồng nguyên”; đã tạo cho văn  
hoá nghệ thuật một nét riêng rất Việt. Đặc  
biệt, đạo Phật đã góp phần hình thành nên  
một quan niệm nghệ thuật truyền thống của  
người Việt, được khắc hoạ sâu đậm trong  
các hình tượng chạm khắc trang trí dân gian  
của mỹ thuật cổ truyền Việt, trong đó có  
hình tượng con người; và “nếu không có sự  
tồn tại của Phật giáo thì mỹ thuật truyền  
thống Việt mất đi hơn một nửa giá trị mà nó  
vốn có”. Thế giới tín ngưỡng, Phật giáo là thế  
giới của sự sáng tạo, thế giới đó được xây  
dựng trên nền của hiện thực, của những  
biểu hiện sinh động trong những công trình  
công cộng làng xã, là sự phát triển đỉnh cao  
của điêu khắc dân gian. Qua đó, con người  
thể hiện những ý niệm của mình mong  
muốn sống một cuộc sống, góp phần tạo nên  
giá trị của kiến trúc đình làng, độc đáo ở thế  
kỷ XVI - XVII. Trong điêu khắc trang trí giai  
đoạn này, thông qua hình tượng con người,  
hoa văn, biểu tượng,… để thể hiện những ý  
tưởng nghệ thuật, những quan niệm nhân  
sinh sâu sắc.  
Về mặt tư tưởng, đạo lý duyên khởi, tứ  
diệu đế và bát chánh đạo. Ba đạo lý này là  
nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo,  
nguyên thủy cũng như đại thừa đã ăn sâu  
vào lòng của người dân Việt.  
Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân  
quả báo của đạo Phật đã được truyền vào  
nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã  
trở thành tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với  
người Việt, chẳng những thích hợp với giới  
bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí  
thức.  
Về đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ  
bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật  
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc  
trong tâm hồn của người Việt. Đều này ta  
thấy rõ qua lĩnh vực nghệ thuật cổ truyền  
Việt. Người xưa đã khéo vận dụng đạo lý từ  
bi và biến nó thành những biểu tượng mang  
ý nghĩa nhân bản trong mỹ thuật Việt.  
Bên cạnh đó, Phật giáo tuy là một tôn  
giáo xuất thế, nhưng Phật giáo Việt Nam có  
chủ trương nhập thế, tinh thần nhập thế  
sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh,  
Lê, Lý, nhất là thời Trần. Trong các thời này  
các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh đều  
được mời tham gia triều chính hoặc làm cố  
vấn trong những việc quan trọng của quốc  
gia. Trong bản trường ca suốt chiều dài lịch  
sử, Phật giáo chung chịu biết bao cảnh thăng  
trầm cùng đất nước, thể hiện bằng nội dung  
tư tưởng tiến bộ thích hợp với cuộc sống  
từng thời đại.  
2. Một số nét về tôn giáo phương  
Đông ảnh hưởng đến mỹ thuật truyền  
thống Việt  
Trước hết, phải đề cập đến Phật giáo  
Việt Nam như một sợi chỉ đỏ bền bỉ, dung  
hòa và phát triển với học thuyết về thuật  
sống lương thiện, góp phần trong việc hình  
thành nền tư tưởng Việt Nam, văn hóa dân  
tộc Việt Nam. Phật pháp là bất định pháp,  
luôn luôn uyển chuyển theo hoàn cảnh và  
căn cơ của chúng sanh để hoàn thành sứ  
mạng cứu khổ của mình. Với tinh thần nhập  
thế tùy duyên bất biến mà Đạo Phật đã tạo  
Tp 8 (12/2020)  
71  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Một trong những hiện tượng cho thấy  
việc mở rộng bờ cõi cộng đồng người Việt  
đã có sự giao thoa, hoà đồng và tiếp biến độc  
đáo với văn hoá Chăm (về mặt kiến trúc, thủ  
pháp điêu khắc trong trang trí). Độc đáo là  
các ngọn Tháp Chàm, đến nay vẫn là những  
câu đố kỹ thuật xây tháp, về chất liệu đất, về  
thủ pháp điêu khắc và ý niệm về những biểu  
tượng của Tháp. Đến với Tháp Chàm, sự  
giao thoa của hai nền văn hoá Việt - Chăm  
không chỉ được tìm thấy qua vô vàn những  
di vết kiến trúc và điêu khắc mà ở đó còn  
hiện hữu một lớp văn hoá tín ngưỡng hội  
dung. Tục thờ Thánh Mẫu và bà chúa Ngọc  
(Thiên Vana Diễm Phi Chúa Ngọc). Khi  
người Việt vào đến nơi đây lập nghiệp, ông  
bà ta gần như tiếp thu trọn vẹn dựng nước  
của người Chăm và tôn thờ bà Thiên VaNa  
như một vị thánh mẫu trong Tam Phủ, Tứ  
Phủ đậm chất dân gian thuần Việt.  
sự chan hòa của Phật giáo là "tam giáo đồng  
nguyên”; không gì khác chính là tinh thần  
đoàn kết, hoà hợp tôn giáo. Tinh thần này  
không chỉ thể hiện tinh thần phá chấp, vô  
ngã vị tha của Phật giáo mà cao hơn thế, tinh  
thần này còn được phát huy, được chuyển  
hoá, hay nói một cách khác là đã được thăng  
hoa để chuyển biến trong nhận thức, trong  
hành động, rằng chớ quá coi trọng thành  
phần, xuất thân, chớ phân chia tôn giáo, dân  
tộc. Chẳng hạn, Nho giáo với các phạm trù  
đạo đức như tam cương (quân thần, phụ tử,  
phu thê) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí,  
tín) cũng được Việt hoá. Ngũ luân (quân  
thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu)  
và ngũ thường cũng được gọi cho gọn là  
luân thường, hay luân thường đạo lý. Hệ tư  
tưởng đạo này lấy việc “bình thiên hạ” làm  
trọng nên không tồn tại bền bỉ với người  
Việt. Tuy nhiên, sự biến động thực tiễn xã  
hội đã tạo nên làn sóng cao trào phản đối hệ  
tư tưởng phong kiến áp đặt, tiếng nói dân dã  
đả kích được biểu hiện mãnh liệt trong điêu  
khắc đình làng. Trong hoàn cảnh đó, biểu  
hiện của Phật giáo là tinh thần bao dung của  
người Việt Nam được tìm thấy ở ca dao hay  
tục ngữ, cả trong cách thờ cúng trong các  
công trình tôn giáo. Ví dụ, Chùa Việt không  
hẳn chỉ là nơi thờ Phật. Có chùa thờ cả Quan  
thánh đế quân như ở làng Kim Bảng (Vụ  
Bản, Nam Định) có chùa Tam giáo, tức là thờ  
cả Tam giáo Tổ sư (Thích ca, Khổng tử, Lão  
tử). Trong chính điện một số ngôi chùa ta  
thấy Đức Phật Thích ca (ở giữa), đức Lão tử  
(bên trái), đức Khổng tử (bên phải).  
Quần di tích Mỹ Sơn. Nguồn: khoahoc.tv  
Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ thần linh  
của người Việt. Từ thời xa xưa người Việt  
sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự  
nhiên, vì vậy tín ngưỡng thờ cúng thần linh  
đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống  
tâm linh của người dân. Tin rằng các vị thần  
sẽ phù hộ cho mùa màng tốt tươi để cuộc  
sống được no ấm như tục thờ Tứ Pháp ở  
miền Bắc. Trong bối cảnh xã hội nông  
nghiệp, lòng tin thần linh, đấng siêu nhiên  
luôn gắn liền với sinh hoạt của con người.  
Nhắc đến sự giao thoa về tôn giáo, trong  
văn hoá tín ngưỡng Việt Nam thật thiếu sót  
nếu ta không đề cập đến văn hoá Chăm, một  
cung bậc tín ngưỡng đã ăn sâu vào tín  
ngưỡng Việt. Từ thế kỷ thứ XVI, cùng với  
Những yếu tố của nền văn hóa ngoại  
nhập, chúng được nền văn hóa bản địa hấp  
thụ đến mức chúng trở thành những bộ  
phận cấu thành của nền văn hóa bản địa.  
Tp 8 (12/2020)  
72  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Được vậy, đòi hỏi phải có thời gian và trải  
các vũ nữ dâng hoa, những hình người nhỏ  
bé mang yếu tố dân gian, rồi Garuđa (đầu  
chim mình người) và cả linh thú thân  
người... Về mặt hình tượng của Apsara ở  
nghệ thuật tạo hình. Lý do chịu ảnh hưởng  
của nghệ thuật và Phật giáo Ấn Độ mà tính  
chất phồn thực được biểu hiện trên các bộ  
phận của con người phần nào bị hạn chế,  
thay vào đó là một cơ thể khá cân đối, gắn  
với tự nhiên, ít bị cường điệu. Nhìn chung,  
Apsara có khuôn mặt thuần hậu, ít nhiều có  
nét chân dung, đẹp một cách chân phương,  
khác với khuôn mặt có mắt to, môi dày như  
ở một số hình tượng của Chămpa. Về cơ thể  
hình như cố phơi bày chiếc hông lớn, trong  
điệu múa vũ trụ sinh ra từ thần Siva (Siva  
bao gồm ý niệm về sự sinh sôi, nảy nở của  
trời đất, gắn với nông nghiêp).  
qua thử thách của thời gian mới chứng tỏ  
giá trị cho sự củng cố và phát triển mọi mặt  
của cộng đồng dân tộc tiếp thu những văn  
hóa đó. Theo vậy, bên cạnh sự ảnh hưởng  
Nho giáo, Lão giáo, chỉ duy nhất Phật giáo có  
đầy đủ điều kiện để có một thành tựu hội  
nhập thật sự vào nền văn hóa Việt Nam, vào  
cuộc sống của dân tộc Việt hình thành nên  
tính đặc sắc của mỹ thuật cổ truyền Việt mà  
tiêu biểu là điêu khắc dân gian.  
3. Biểu hiện tôn giáo tín ngưỡng  
phương Đông trong chạm khắc trang trí  
hình tượng con người thế kỷ XVI – XVII  
Nối tiếp hình tượng con người từ thời  
kỳ đồ đồng, ngay từ đầu thời tự chủ, đề tài  
này luôn được người Việt quan tâm để có  
một vị trí xứng đáng, tạo điều kiện thành  
mẫu hình của mỹ thuật truyền thống. Họ đã  
khơi dậy vốn cổ truyền và trở về đại gia  
đình Đông Nam Á. Suốt cả ngàn năm Bắc  
thuộc, tới thế kỷ XI, nghệ thuật tạo hình  
Việt lại có phần gần gũi Ấn Độ hơn Trung  
Hoa. Bởi cơ bản, trước một vấn đề có tính  
chất sống còn của dân tộc Việt, trong lĩnh  
vực văn hóa nghệ thuật, người Việt cần  
phải lột xác để “giải Hoa”. Tất nhiên, trong  
dòng chảy lịch sử, người Việt cũng tạo cho  
mình một tư cách độc lập về văn hóa  
(đương nhiên không có nghĩa chối bỏ văn  
hóa Trung Hoa và Ấn Độ).  
Hình về các nhạc sĩ thiên thần  
(Gandharva) hiện nay chỉ tìm thấy ở tảng  
chân của chùa Phật Tích gồm cả nam lẫn  
nữ, với hình thức tương tự nhau ở bốn  
mặt đứng bao quanh. Trong khung hình  
chữ nhật của một mặt chân đá tảng, nên  
bắt buộc hình tượng của Gandharva phai  
nhỏ hơn Apsara nhiều, song gần như vẫn  
đầy đủ mọi chi tiết. Trên một nền dày đặc  
các vân xoắn, dải lụa… cả mảng chạm đã  
như mang tư cách gần gũi với đồ khảm và  
như biểu hiện một sự thao diễn kỹ thuật  
hết sức khéo léo. Trong bố cục này, mỗi  
nhạc sĩ thiên thần cầm một nhạc cụ khác  
nhau như trống (trống đại thấp hay trống  
cơm), nhị, sáo, tiêu, đàn tì bà, phách kép…  
tất cả có mười người trong thế đang đối  
giả, hướng vào trung tâm là chiếc lá đề  
đặt ở trên đài sen, người ta có thể dễ dàng  
hiểu: đề là biểu tượng của giác ngộ. Bởi  
bồ đề (bodhi) có nghĩa là giác ngộ đạo lý,  
gần gũi với Bouddha (Phật là người giác  
ngộ Phật pháp đến tột cùng, tức là người  
nắm được bodhi).  
Trong những dòng chảy đó, có thể nói  
rằng mối giao lưu văn minh Ấn, dù bằng  
cách nào đi nữa, cũng mang tính chất tự  
nhiên (giao lưu vô thức) hơn sự giao lưu với  
văn minh Trung Hoa (giao lưu hữu thức)  
nên đề tài con người niên đại ở thế kỷ XI, XII  
phần nhiều gắn với huyền thoại Ấn (tương  
tự như các cư dân Đông Nam Á khác) là điều  
tất yếu. Có thể thấy cụ thể các Apsara (vũ nữ  
thiên thần), Gandharva (nhạc sĩ thiên thần),  
Kinnara (linh điểu đầu người mình chim),  
Tp 8 (12/2020)  
73  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Nhạc công thiên thần (Gandharva), tìm  
thấy ở bệ tượng, chùa Phật Tích, thời Lý  
hac/p2_articleid/167  
Chim thần Garuđa đỡ bệ tượng ở chùa  
Bối Khê. Nguồn: http://noithatnghiduong.com/  
y-nghia-thuc-su-cua-dieu-khac-truyen-  
thong-trong-cac-danh-lam-viet-nam  
Nữ thần đầu người mình chim (Kinnari),  
trang trí chim thn Kinnari trên cn gchùa  
Thái Lc. Nữ thần đầu người mình chim  
được sử dụng trong thời Lý đến Mạc, do ảnh  
hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm.  
/y-nghia-thuc-su-cua-dieu-khac-truyen-  
thong-trong-cac-danh-lam-viet-nam  
/y-nghia-thuc-su-cua-dieu-khac-truyen-  
thong-trong-cac-danh-lam-viet-nam  
Tp 8 (12/2020)  
74  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Tiên nữ (Apsara), trang trí chùa Thái Lc.  
Chạm khắc tại chùa Thái Lạc (Hải Dương)  
thai-lac  
/y-nghia-thuc-su-cua-dieu-khac-truyen-  
thong-trong-cac-danh-lam-viet-nam  
Tp 8 (12/2020)  
75  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Đặc biệt, hình tượng con người trong  
thể đặt các hình ảnh này vào cùng không  
gian bối cảnh được. Trong cái ồn ào của  
các mảng chạm ấy là nhiều tích truyện, là  
biết bao vấn đề khác nhau và không phải  
toàn bộ đã mang ý nghĩa đơn thuần theo  
hình thức được nhìn thấy, phải chăng bên  
trong hình ảnh đó là các ý niệm mà nó  
muốn chuyển tải.  
trang trí đình làng đã phản ánh về cuộc  
sống dân dã, rất hiếm có đề tài về vua  
quan. Tuy xã hội đã phân hóa, nhưng đấu  
tranh giai cấp chưa trở thành khốc liệt thì  
sự mơ ước nói chung của nông dân vẫn là  
tiến tới thành địa chủ. Cho nên trên đình  
đã có nhiều bức chạm về kẻ giàu có, mà  
qua đó ít thấy nét châm biếm, mỉa mai, dù  
rằng người trong đề tài này kém sinh  
động. Mặt khác, về đề tài sản xuất hoặc  
những bất công trong xã hội cũng rất hiếm  
thấy. Phải chăng trong trí tưởng tượng  
dân gian chỉ dành cho những ước mơ hạnh  
phúc, về sự rộn rã ngày hội… được chạm  
dưới nhiều hình thức nổi, bong, lọng…  
Người to, người nhỏ hàng dãy dài song tất  
cả không phải cùng chung một đề tài hay  
cốt truyện. Hình tượng con người trong  
một số đề tài cụ thể như vũ nữ thiên thần,  
cảnh lao động, cảnh đấu võ, cảnh săn đấu  
với thú dữ, cảnh chèo thuyền, trong cảnh  
chọi gà. Ngoài sinh hoạt như kể trên ở  
nông thôn nước ta còn nhiều trò vui ngày  
hội, nào là chơi cờ, nào là hát cửa đình, rồi  
đá cầu, uống rượu … hoạt cảnh náo nức.  
Cảnh múa nhạc thường được thể hiện cách  
khác nhau. Ở Dương Liễu (Hoài Đức, Hà  
Tây) và đình Xốm (Vĩnh Phúc) là cảnh múa  
nhạc để hầu rượu. Trên một bình diện, các  
đề tài ít ăn nhập về nội dung với nhau,  
người ta có thấy trên một bức chạm, ở một  
đầu là con voi mà trên bành có ba người  
đội mũ nghiêm chỉnh, phía dưới bụng voi  
là hai người đang tắm, kỳ lưng cho nhau,  
tiếp theo là đôi trai gái đang cởi trần ôm  
nhau, rồi cưỡi hổ… ở ván nong cũng nhiều  
người, bên cạnh hai người đá cầu là người  
hút thuốc lào với điếu bát, rồi cảnh người  
Tây ôm một cô gái và đang định thò tay  
vào ngực… suy cho cùng cũng không có  
những giới hạn ngăn cách, nhưng không  
Tp 8 (12/2020)  
76  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Trai gái vui đùa đình Hưng Lộc (Nam  
/vietnamese/dinh-lang-viet-nhung-dieu-  
con-mat/195057.html  
Điêu khắc gỗ, thế kỷ 17, đình Phù Lão  
(Bắc Giang), là ngôi đình thời Lê, thế kỷ 17,  
dựng năm 1688. Với cách chạm thủng kênh  
bong ở những chỗ cần thiết để làm các hình  
nổi hẳn lên theo lối tượng tròn.  
Còn nhiều đề tài khác nữa, nhưng nổi  
lên hơn thế là cảnh đàn bà khỏa thân, trai  
gái tình tự, nghịch ngợm, cảnh giao hợp nam  
nữ… Những hình ảnh như nêu trên thực ra  
không phải để nói về hiện tượng dâm dục  
hay chưa hẳn là hình thức đả phá trực tiếp  
vào đạo đức Nho giáo mà có thể nghĩ đó là  
những hình ảnh kế thừa xa xưa từ bốn cặp  
nam nữ giao phối ở nắp tháp đồng Đào  
Thịnh (Yên Bái), trên nghệ thuật tạo hình  
mang tính chất trang trí các đề tài này đã có  
xấp xỉ ba trăm năm tuổi. Ngắm nhìn những  
tạo hình chạm khắc trang trí hình tượng con  
người, phải chăng hình thức kể trên đã  
mang một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những  
điều cầu mong phồn thực cho hạnh phúc của  
cư dân nông nghiệp mà người xưa thể hiện.  
Người đàn bà với các bộ phận sinh nở và  
nuôi dưỡng được thể hiện sung mãn, như  
chứa đựng ở trong đó một nguồn của cải bất  
tận. Tuy nhiên, bởi ý nghĩa của các hình ảnh  
Nguồn:  
/index.php?category=2500&itemid=21232  
Cảnh giao hoan trong lễ hội, chạm khắc  
trên cốn đình Ngọc Canh (Vĩnh Phúc)  
com/2011/08/bieu-tuong-nu-trong-nho-  
giao-va-gia-tri_30.html  
Tp 8 (12/2020)  
77  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
được bảo lưu một cách vô thức, và thời gian  
của thân người gánh đã tạo nên sức nặng  
vất vả. Cái dí dỏm được thể hiện rất rõ ở  
cảnh ông già chơi trống bỏi, với vài nếp  
nhăn hằn trên trán, tay cầm lược, tay vỗ lên  
vai người con gái. Hình thức cô gái hoàn  
toàn là thôn nữ, được chạm đơn giản, đang  
trong trạng thái bẽn lẽn, đưa tay cầm tóc,  
như muốn qua đi.  
đã làm phai mờ dần tính chất linh thiêng của  
buổi khởi nguyên để nghệ nhân đã tạo nên  
nhiều nét dí dỏm. Nhiều hình ảnh táo bạo  
khác như cảnh sờ vú đã có nhiều đình khác  
(Thổ Tang, Dương Liễu…); bạo dạn hơn là ở  
đình Diềm (Hoa Lư), đình Phù Lao (Lạng  
Giang), đình Ngô Nội (Yên Phong), ...  
Suy rộng ra, cảnh nam nữ giao phối  
trong tạo hình ở đình có phải chỉ là một  
tiếng cười e thẹn, ở hiện tượng đối đãi âm  
dương mà đại diện là hai con người nam nữ  
đã tạo nên sinh lực mang tính chất “vũ trụ”,  
là sức sống của tự nhiên sinh sôi và mặt nào  
là sức sống của dân dã, ở đó như chứa đựng  
sự hình thành một sức sống khởi nguyên.  
Nhiều đề tài người được chạm gắn với  
kiến trúc chùa đã như vượt ra ngoài tính  
chất cốt lõi của Phật giáo. Trong đó, có một  
thế giới đáng sợ là địa ngục. Mặc dù nhằm  
mục đích là răn đe tội ác, nhưng thế giới này  
như một thể đối lập với cuộc sống thực.  
Thông thường Thập Điện Diêm Vương gắn  
với mười pho tượng còn mang hình ảnh của  
các ông vua, nhưng ở nhiều chùa, nhất là các  
chùa ven sông Đáy, thuộc đất Hà Đông cũ,  
thập điện được phơi diễn ra dưới dạng phù  
điêu thuộc âm cảnh của các Diêm Vương.  
Bằng tạo hình các âm cảnh đó đầy hình tra  
khảo đau buồn, đồng thời còn phản ánh một  
thực tế bất công mà xã hội đương thời vẫn  
thực hiện với nhân dân.  
Ở thế kỷ XVI - XVII hình tượng con  
người được thể hiện cả ở đình và chùa, tính  
chất dân gian thể hiện qua đề tài con người  
là sâu đậm nhất trong nghệ thuật chạm khắc  
đình làng. Ở đình Tây Đằng có mảng chạm  
ông già ngồi nghỉ, chỉ với vài khối nổi và vài  
chi tiết mà thấy rõ là người trán rộng tai dài,  
râu ba chòm, áo thụng, bụng nở, thoải mái  
trong hình thức vuốt râu… mang tư cách  
tiên phong đạo cốt. Nghệ thuật mộc mạc, tự  
nhiên, mang tính cởi mở, chứa đựng cái đẹp  
nhân hậu của tâm linh làm chính. Đi vào  
cuộc sống thường nhật, ở đình Tây Đằng có  
cảnh chèo thuyền hái hoa, chèo thuyền uống  
rượu, trai gái tình tự, làm xiếc, đèo gỗ, khóc  
cho măng mọc, nhổ cây, đấu thú… tại chùa  
cói còn có nhiều cảnh khác như dắt ngựa  
cho quan, cầu hiền, cưỡi hổ báo… tất cả đều  
nói lên một hình thức đơn giản, khái quát  
cao. Cảnh gánh con, ở đình Tây Đằng, hình  
đứa bé ngồi ôm gối trong thúng của người  
mẹ được thể hiện đầu với một u tròn lớn,  
một vòng cung nổi nối hai bên đầu gối, vành  
thúng cũng là cung tròn nổi khác trông rất  
vững chãi, mạnh bạo. Và chỉ một chút cong  
Các nét chạm thuần thục, nhiều mảng có  
giá trị cao về điêu khắc. Trong cảnh làm xiếc  
nghệ nhân đã chạm một người đang diễn  
trò, hình thức rất mạnh bạo, chỉ lộ đôi mông  
và phía sau đôi chân với khối nổi căng  
phồng, tràn đầy sức sống… Hoạt cảnh dân  
dã thế kỷ XVI, cũng như nhiều đề tài khác,  
khẳng định một bước đi mới của nghệ thuật  
tạo hình dân tộc, nó còn giữ lại được cốt lõi  
của nhiều vấn đề xã hội và lịch sử, ước mơ  
của tâm linh tín ngưỡng, đồng thời đề tài  
này cũng mang nét khởi đầu làm tiền đề cho  
sự phát triển của nghệ thuật dân dã cuối thế  
kỷ XVII.  
Ở thế kỷ XVII được diễn ra dưới hai  
hình thức rõ rệt, được coi như là đỉnh cao  
của nghệ thuật tượng, những năm còn lại  
Tp 8 (12/2020)  
78  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
được coi là đỉnh cao của nghệ thuật dân dã  
cũng không thể thiếu các hoa văn, linh vật  
trong bố cục trang trí. Chúng bổ sung cho  
nhau trong tạo hình bố cục và thể hiện ý  
đồ thể hiện tổng thể công trình điêu khắc,  
kiến trúc.  
Việt Nam và chủ yếu gắn với các mảng  
chạm của đình làng. Vào đầu thế kỷ, đề tài  
chủ yếu bao gồm những linh vật, những  
biểu tượng vũ trụ, đồng thời qua đó cũng  
có vài hình ảnh sinh hoạt dân dã. Giai đoạn  
giữa, nổi lên với những đề tài liên quan đến  
Phật giáo, những con người thường gắn với  
kiếp tu (trên tháp quay, Bút Tháp). Trang  
trí ở thế kỷ XVII đã có quá nhiều đề tài được  
thể hiện riêng lẻ mà sự đan xen và hình  
tượng con người vẫn được nổi lên mang tư  
cách trung tâm.  
Hoa văn trang trí truyền thống Việt thể  
hiện quan niệm của nghệ thuật tạo hình  
Việt, những đồ án trang trí hay các đề tài  
của những tác phẩm mỹ thuật nói chung  
thường mang ý nghĩa về tư tưởng của Phật  
Giáo và triết lý của Khổng, Lão. Khi trang trí  
một vật, người xưa chẳng những muốn làm  
cho những vật đó đẹp thêm ra, mà lại còn  
làm cho nó có ý nghĩa về chúc tụng, mong  
ước nào đó.  
Những thế kỷ sau, sự phát triển của đạo  
Phật và đạo Nho, hình tượng con người đã  
phát triển khá mạnh về loại hình, đã phản  
ánh được nhiều khía cạnh của lịch sử, xã hội  
và một phần khúc mắc trong tư tưởng dân  
Việt. Hình tượng con người trong chạm khắc  
trang trí là sản phẩm của một xã hội có  
nhiều biến động. Đạo Phật vốn sẵn lòng  
nhân ái, cửa chùa luôn rộng mở đón mọi  
chúng sinh, khi hệ tư tưởng chính thống của  
xã hội bị khủng hoảng trầm trọng… thì ít  
nhiều tam bảo vẫn an ủi được con người.  
Mặt khác, ngôi đền luôn gắn với tín ngưỡng  
thờ thần của người Việt, một tín ngưỡng  
vừa có tính địa phương, vừa phổ cập, do như  
vậy, mà tâm hồn của cư dân trong cộng đồng  
Việt ở buổi đương thời một phần được gửi  
gắm nhiều hơn vào chùa và đền. Từ đó,  
nhiều hoạt cảnh trong tạo hình được đưa  
o kiến trúc này. Tuy nhiên, về tính chất  
của các đề tài đã khác xa thế kỷ XVI - XVII,  
chúng mang nét nghiêm trang, mất đi sự dí  
dỏm, thiếu hẳn sự bạo liệt … đó là một thực  
trạng của lịch sử. Tính chất của mảng chạm  
như một kế thừa trực tiếp từ nghệ thuật dẫn  
dã đỉnh cao ở cuối thế kỷ XVII.  
Các đồ án hoa văn sáng tạo liên quan  
đến Phật Giáo như lá bồ đề, hoa sen, vũ nữ  
uốn mình theo điệu Tribanga của Ấn trở  
nên rất phổ biến trong nghệ thuật trang trí  
của những chùa, đền, tháp. Những vũ nữ  
muá những khúc ngây thường lại biến  
thành những vũ nữ dâng hoa, chẳng hạn  
như hình ở những bậc đá của tháp đời nhà  
Lý ở Chương Sơn (Hà Nam) hay những  
thiếu nữ sùng bái Phật như hình khắc ở  
những chân cột của chùa Phật Tích còn  
thấy như ngày nay.  
Trang trí trên đá trong các công trình  
kiến trúc  
Bên cạnh hình tượng con người là  
chủ đạo của bài viết, chạm khắc trang trí  
Tp 8 (12/2020)  
79  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Các biểu tượng về Phật Giáo và dịch học  
Nguồn: Sưu tầm  
Hai là, biểu tượng trang trí linh vật. Đó là  
các con vật không có thực, nó được hội nhập  
bởi các bộ phận biểu hiện sức mạnh của nhiều  
loài. Cũng có nhiều con là vật thực nhưng  
được linh hóa thành vật thiêng. Rồng là sức  
mạnh tổng hợp ở cả ba tầng vũ trụ, là chủ  
muôn loài, là biểu tượng của mây mưa và mọi  
nguồn nước no đủ. Phượng là linh vật tầng  
trên, tượng cho vũ trụ. Con Lân cũng chính là  
hiện thân của sức mạnh tầng trên, của trí tuệ,  
trong một dạng đặc biệt (long mã) nó tượng  
cho cả không gian và thời gian. Rùa qua triết  
học phương Đông, nó biểu hiện cho sự vững  
bền, là sự tổng hòa củaâm dương đối đãi, ... Đó  
là những đề tài thường gặp trong tạo hình của  
người Việt, của các nước Đông Nam Á (cũng  
như Ấn Độ và cả Trung Quốc). Ngoài ra, người  
ta cũng gặp hổ, voi, hươu, ngựa, trâu… những  
con vật này phần nào được hình tượng hóa  
trên cơ sở thực; chất thiêng của chúng chỉ gắn  
với ý nghĩa mà dân gian ước vọng.  
Hình nh rồng được sdng rt nhiu  
trong các ha tiết trang trí kiến trúc  
Cũng về phương diện này, chúng ta  
thấy được những hoa văn hình những đám  
mây đang xoắn chung quanh những nhân  
vật thần thoại, chẳng hạn như những bức  
chạm nổi tại chùa Thái Lạc (Hải Dương)  
hay những cánh cửa của chùa Phổ Minh  
(Hà Nam), những hoa văn hình sóng nước  
như ở nền tháp Phổ Minh, hoa văn hình hoa  
cúc theo từng dây dài, như mặt đá chạm nổi  
tìm thấy ở tháp Chương Sơn. Đây là những  
ví dụ điển hình của những công trình sáng  
tạo nổi bật trong nền mỹ thuật trang trí  
thời đại Lý Trần.  
Tựu chung, hoa văn trang trí truyền  
thống thường mang tính biểu tượng, đó là  
một trong những loại hình văn hóa mang  
tính nhân văn cao nhất, nó được sinh ra từ  
thực tế của cuộc sống, và mỗi thời kỳ sẽ hình  
thành cho mình một số biểu tượng riêng, đó  
là đỉnh vàng son của bản sắc Việt.  
Biểu tượng linh vật: Rồng, phượng, kỳ  
lân, rùa  
Một là, biểu tượng trang trí có tính logic,  
hình học, vừa như để thấy được sự kế thừa  
gần gũi với hoa văn thời tiền sử, vừa như để  
thấy tiếng “thầm thì” của tổ tiên. Những biểu  
tượng gắn với tôn giáo đã đầy yếu tố triết  
học, mà ở đây là vòng tròn “sắc không”, là  
ngọn lửa thiêng “tam muội” tức chữ vạn của  
nhà Phật … Rồi biểu tượng gắn với Dịch học,  
từ những yếu tố âm dương, những vòng tròn  
lưỡng nghi, bát quái, hà đồ, lạc thư…để như  
muốn nói về sự tạo lập vũ trụ và muôn loài.  
Kiếntrúchìnhlá đề trangtrồngđượclàm  
từ đất nung. Triều – Trần (thế kỷ 11 14).  
Nguồn:  
tri/tuyet-dep-nhung-hinh-tuong-rong-tren-  
co-vat-57200.html  
Tp 8 (12/2020)  
80  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
Ba là, biểu tượng đồ án trang trí hoa lá  
cây cỏ trong tạo hình của người Việt so với  
các đề tài khác thì không nhiều, nhưng cũng  
đủ để chúng ta nhận diện được tâm tưởng  
của từng thời kỳ (như đã đề cập ở trên). Đó  
là những đài sen, về hình thức thì mỗi đài  
sen mà mỗi thời một khác, nhưng điểm  
chung là chúng vượt lên trên thực tế để  
chứa đầy ý niệm linh thiêng. Rồi lá đề tượng  
cho giác ngộ, hoa lá cúc nhiều khi là biểu  
tượng của tinh tú hoặc mặt trời nó đối đãi  
cùng sen để thành một cặp “lưỡng nghi”  
(âm-dương). Ngoài ra, còn có tre, trúc tượng  
của chúng sinh quần tụ và nói lên đặc tính  
của đạo là: Tùy duyên mà hóa độ. Ở cây cỏ  
chúng ta còn gặp tứ liên – tứ hựu tượng cho  
bốn mùa, hay cho các ý nghĩa thanh cao, đó  
là sen, mẫu đơn, tùng, trúc, mai, cúc, lan,  
đào… được thiên hóa, tạo cho biểu tượng  
thêm phần phong phú.  
Ở chính giữa mái cung điện là hình  
tượng lá đề lớn - biểu tượng của Phật giáo  
với đôi phượng chầu ở hai bên.  
Biểu tượng đồ án trang trí hoa lá cây cỏ  
Mảnh vỡ về các hình tượng trang trí bên  
thành bậc cung điện, gồm bàn chân linh vật  
sấu thần và một đoạn thân rồng (bên trái)  
Trang trí hoa Bảo tiên trên các bia Tiến  
sĩ ở Văn Miếu  
Nguồn:  
/PrintView.aspx?ID=5FD212  
/2009 /10/08/734042/  
Tp 8 (12/2020)  
81  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  
của hệ tư tưởng Nho giáo của văn hóa  
4. Kết lun  
phương Bắc trong thời khắc lịch sử; là cơ  
sở cho niềm tự hào của dân tộc thể hiện  
qua những tác phẩm điêu khắc dân gian  
còn lại. Đó là vốn cổ của cha ông, không chỉ  
dừng lại ở tư duy mỹ thuật, phương thức  
tạo hình mà còn chuyên chở cả một triết lý  
nhân sinh, như một nền tảng và hành  
trang để phát huy bản sắc văn hóa nước  
nhà trong thời đại văn minh phát triển,  
công nghệ bùng nổ.  
Bên cạnh sự hòa quyện của các nền  
văn hoá (như Trung Quốc và Ấn Độ) cùng  
với nền văn hoá cư dân lúa nước và tư duy  
nông nghiệp của người dân bản địa; tôn  
giáo, tín ngưỡng là một yếu tố kết tinh và  
tạo nên sự đặc trưng riêng cho văn hóa  
nghệ thuật Việt Nam. Sự uyển chuyển và  
cộng sinh của đạo Phật mang đến sự khởi  
sắc và sinh lực mới cho các nền văn hóa  
Việt, giúp dân tộc ta vượt qua sự đồng hóa  
TÀI LIU THAM KHO  
PGS.TS. Trn Lâm Bin, PGS.TS. Trnh Sinh  
(2011). Thế gii biểu tượng trong di  
sản văn hóa Thăng Long. Hà Ni, NXB  
Hà Ni.  
Trần Lâm Biền (1996). Chùa Việt. NXB  
VHTT.  
PGS.TS. Trn Lâm Bin (2008). Din Biến  
Kiến Trúc truyn Thng Vit. NXB. Văn  
Hoá Thông Tin Hà Ni.  
PGS.TS. Trn Lâm Bin (2007). Giáo trình  
MThut CTruyn Vit. Viện văn  
Hóa NghThut Vit Nam.  
Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam.  
Tập 1 (1999) tập 2 (2001) tập 3  
(2002), NXB TP.HCM.  
PGS.TS. Trn Lâm Bin (2001). Trang trí  
trong mthut truyn thng ca  
người Việt, NXB Văn Hoá Dân Tộc. Tp  
Chí Văn Hóa Nghệ Thut.  
Nguyễn Duy Hinh (1999). Tư Tưởng Phật  
giáo Việt Nam. NXB. KHXH. Hà Nội.  
Nguyễn Đăng Duy (2001). Văn hóa tâm  
linh. NXB VHTT  
Tp 8 (12/2020)  
82  
pdf 13 trang yennguyen 21/04/2022 1460
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng tôn giáo phương Đông trong chạm khắc trang trí hình tượng con người thế kỷ XVI-XVII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_ton_giao_phuong_dong_trong_cham_khac_trang_tri_hin.pdf