Chính sách của quân phiệt Nhật Bản với triều đình Huế những năm 1940-1945

T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015  
39  
CHÍNH SÁCH CỦA QUÂN PHIỆT NHẬT BẢN VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ  
NHỮNG NĂM 1940 – 1945  
Trần Vân Anh1  
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội  
Tóm tắt: Một năm sau khi chiến tranh thế giới II bùng nổ, tháng 9 năm 1940,  
quân đội Nhật Bản tiến vào Việt Nam. Lúc này, Việt Nam đang là thuộc địa của  
Pháp, nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn được duy trì. Trong thời gian  
chiếm đóng ở Việt Nam, quân đội Nhật Bản đã có những chính sách đối với các lực  
lượng chính trị khác nhau. Đối với triều đình Huế, ban đầu, Nhật thực hiện chính  
sách “duy trì hiện trạng” chính quyền thực dân – phong kiến như trước; sau đó, do  
tình hình biến động, Nhật Bản đã chuyển sang chính sách “trao trả độc lập”. Cho dù  
có khác nhau, bản chất của chính sách mà Nhật Bản thực hiện với nhà Nguyễn cũng  
vẫn là chính sách thực dân xâm lược, phục vụ cho mục tiêu làm chủ khu vực Đông Á.  
Từ khóa: quân phiệt Nhật Bản, triều đình Huế, chính sách, thực dân, xâm lược.  
1. MỞ ĐẦU  
Từ một nước phong kiến lạc hậu, cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản đã vươn mình thành  
một “đế quốc da vàng” sánh ngang với các nước đế quốc phương Tây. Tháng 9 năm 1940,  
quân Nhật đã tiến vào Việt Nam và chiếm đóng cho đến tháng 8 năm 1945, khi Việt Minh  
giành chính quyền từ tay Nhật. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến chính  
sách của quân phiệt Nhật Bản đối với triều đình Huế trong thời gian Chiến tranh thế giới II.  
Bài viết xuất phát từ việc giải đáp các câu hỏi: Quân đội Nhật Bản đã thi hành chính sách  
gì đối với triều đình Huế? Những diễn biến của Chiến tranh thế giới II có tác động gì đến  
chính sách đó? Triều đình Huế, đứng đầu là vua Bảo Đại đã phản ứng ra sao trước chính  
sách của người Nhật? Qua việc trả lời các câu hỏi đó, góp phần lý giải bản chất sự có mặt  
của quân đội Nhật Bản trên lãnh thổ Việt Nam trong những năm 1940 - 1945.  
2. NỘI DUNG  
2.1. Chính sách của quân phiệt Nht Bn vi triều đình Huế những năm 1940 -  
1945  
1 Nhận bài ngày 02.12.2015, gửi phản biện và duyệt đăng ngày 10.12.2015.  
40  
Tr êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi  
Năm 1939, Nhật có đã thể hiện mưu đồ “Nam tiến” và có hành động cthuy hiếp  
nn cai trcủa Pháp ở Đông Dương. Ngày 31-3- 1939, phát xít Nhật chiếm đảo Trường Sa,  
Hoàng Sa. Đây là lãnh thổ đầu tiên của Vit Nam bNhật xâm chiếm1. Ngày 22-9- 1940,  
quân Nhật tQuảng Tây bắt đầu vượt qua biên giới, bng nhiu ngả bao vây và tấn công  
quân Pháp ở Lạng Sơn2. Mặc dù, quân Pháp ở Đông Dương đã có phòng bị, nhưng không  
ngăn được cuc tiến quân của Nht. Ktừ đây, bên cạnh việc đối phó với người Pháp ở  
Đông Dương (chủ nhân thực quyền), quân Nhật đã thực thi những mưu đồ của mình một  
cách khôn khéo đối vi triều đình Huế (chủ nhân danh nghĩa) ở Vit Nam.  
2.1.1. Chính sách “duy trì hiện trng”  
Khi quân Nhật vào Đông Dương, xứ An Nam vẫn còn tồn ti triều đình phong kiến,  
đóng đô tại Huế, dưới thi kcai trca Bảo Đại, ông vua thứ mười ba ca triu Nguyn.  
Tuy nhiên, triều đình đó chỉ tn ti một cách hình thức, vì cả ba xthuộc lãnh thổ Vit  
Nam đã là bộ phn của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Người Pháp đã thiết lp hệ  
thống chính quyền cht chtcấp liên bang đến cấp làng, bằng cách kết hp bộ máy do  
các quan Pháp cai trị với chính quyền phong kiến ca triều đình Huế, được nhiều nhà  
nghiên cứu gọi là chính quyền thực dân – phong kiến3. Bộ máy cồng kềnh này, đối với nhà  
cm quyn, tuy rng “tốn kém” nhưng cũng có mặt chp nhận được. Người Pháp thâu tóm  
mi quyền hành chính trị, giữ vai trò ông chủ; vua quan phong kiến nhà Nguyễn trthành  
người thực thi chính sách và lệ thuộc vào nền cai trca thực dân Pháp.  
Người Nhật khi vào Đông Dương, đã tận dụng ưu điểm và “duy trì nguyên trạng”  
chính quyền thực dân – phong kiến. Mặc cho quân Pháp và Nhật tranh giành quyền hành ở  
Đông Dương, triều đình Huế vẫn “êm đềm” tồn tại trong chính sách “duy trì hiện trạng”  
ca Nht từ tháng 9 năm 1940 cho đến ngày 9 tháng 3 năm 1945. “Người Nht vẫn kín  
đáo. Họ đóng quân xa trung tâm các thành phố, dân chúng ít trông thấy họ. Quân đội ca  
nước Mt tri mọc còn nhiều vic phải làm ở những nơi khác”4. “Quân đội Thiên hoàng  
không chiếm đóng Trung kì. Sự có mặt ca hchỉ được chng thc bng mt hiệp định  
mơ hồ về phòng thủ chung, nói theo một cách khác là họ đến để bo vệ Đông Dương”5.  
Vì sao quân phiệt Nhật lại duy trì nguyên trạng nền chính trị ở Đông Dương trong  
một thời gian dài? Vì sao người Nhật đã tính tới việc “quét sạch” người Pháp ở Đông  
1 Dương Trung Quốc, Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo dục, 2001, tr.294.  
2 Dương Trung Quốc, Sđd, tr.318.  
3 Xem Trần Thị Thu Hoài, Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ năm 1858 đến 1945, Nxb Chính trị Quốc gia,  
2015.  
4 Daniel GrandClément, Bảo Đại – hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam (người dịch Nguyễn  
Văn Sự), Nxb Phụ nữ, 1997, tr. 143.  
5 Daniel Grand Clément, Sđd, 1997, tr.144.  
T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015  
41  
Dương và thay bằng một hoàng thân (Cường Để) được Tokyo bảo trợ, mà khi vào Đông  
Dương lại “duy trì hiện trạng” với triều đình Huế?  
Nguyên do của vic này chính là ở sự “được việc” của chính quyền Pháp trong phc  
vụ quân đội Nhật và duy trì sự ổn định cn thiết để Nht mrng chiến tranh châu Á –  
Thái Bình Dương. Trong khi đó, ở Paris, Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, và chính phủ  
Pétain thân phát xít không phải là mối lo ngi ca Nhật. Hơn nữa, chính quyền Decoux ở  
Đông Dương đã bị Nht Bản dùng chính sách “tách khỏi mu quốc”, buộc nó phải “tận  
tụy” với phát xít Nhật trước khi nhà cầm quyn ở Pháp đồng ý1. Đối vi triều đình Huế, ít  
người nhắc đến vì vai trò “cai trị” chỉ là hư danh, thực quyn nm cả trong tay người Pháp.  
Vic Nht Bản “duy trì hiện trạng” triều đình Huế trong gn 5 năm có lẽ là do người Nht  
nhn thy sự “vô hại” của ông vua – bà hoàng và đám quan đại thần đối với công cuộc xâm  
chiếm ca Nht xứ này. Triều đình Huế vn hoạt động bình thường như trước, dường  
như sự có mặt của quân Nhật ở đất nước chng ảnh hưởng gì đến cuc sống hoàng gia.  
Daniel Grand Clément đã nhận xét: “Trong khoảng 5 năm, chế độ chiếm đóng của Nht  
trên bán đảo Đông Dương chưa biết gọi tên là gì”2.  
Chính sách “duy trì hiện trạng” chỉ là một giải pháp trước mắt, một ván bài để đi đến  
ván bài sau cùng là thành lập Khu Thịnh vượng chung Đại Đông Á do Nhật lãnh đạo, cho  
nên, đến thời điểm thích hợp, Nhật chuyển sang dùng chiêu bài “trao trả độc lập” cho Việt  
Nam như đã làm với các dân tộc khác trong khu vực.  
2.1.2. Chính sách “trao trả độc lập”  
Để thc hin tham vọng bá chủ vùng Đông Á, “ Nhật đã phát triển một kĩ thuật tuyên  
truyn rt giật gân và những khu hiệu như “Đông Á cho các dân tộc Đông Á”, “Một trt  
tmi ở Đông Á”, “Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á” đều có sức hp dn thc sự đối  
với các dân tộc châu Á khác”3. “Trao trả độc lập” là chính sách mà Nhật Bản đã thực hin  
những nơi Nhật chiếm đóng, như thành lập Mãn Châu quốc (1932), chính phủ Quốc dân  
Nam Kinh Trung Quốc (1940), tuyên bố trao trả độc lp cho Miến Điện, Philippin  
(1943). Như vậy, việc áp dụng chính sách này Việt Nam không phải là ngoại l.  
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngay sau  
đó, Nhật đề nghị tuyên bố “trao trả độc lập” cho triều đình Huế. Ngày 11 tháng 3 năm  
1945, Bảo Đại ra “Tuyên cáo Việt Nam độc lập” với các nội dung:  
“Cứ tình thế chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, Chính phủ Vit Nam  
công nhiên tuyên bố từ ngày này điều ước bo hvới nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi  
phc quyền độc lập. Nước Vit Nam sgng sc ttiến trin cho xứng đáng một quc gia  
1 Xem Trn Thị Thu Hoài, Sđd, Nxb Chính trị Quc gia, 2015.  
2 Daniel GrandClément, Sđd, 1997, tr.150.  
3 Edwin O.Reischauer, Nhật Bản – Quá khứ và hiện tại, Nxb Khoa học Xã hội, 1994, tr.228.  
42  
Tr êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi  
đc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, tự coi mình là một phn tử Đại  
Đông Á, đem tài lực giúp cho cuc thịnh vượng chung. Vậy Chính phủ Vit Nam một lòng  
tin cậy lòng thành hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt mục đích  
như trên”1. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Trn Trng Kim chuyn ti Bảo Đại mt danh  
sách nội các trước sự có mặt ca cvn ti cao Nht Bản Yokohama. Cùng ngày, Bảo Đại  
ký một đạo dchuẩn y thành phần nội các của chính phủ do Trn Trọng Kim là Thủ  
tướng2.  
Tuy nhiên, cuộc tng khởi nghĩa tháng Tám của nhân dân Việt Nam dưi sự lãnh đạo  
ca Việt Minh đã lật đổ chính phủ thân Nhật. Bảo Đại thoái vị, chm dt chế độ phong  
kiến cùng nền “nền độc lập” của Đế quc Vit Nam va mới được người Nht vra.  
Để xác định bn chất chính sách “trao trả độc lập” mà Nhật Bản đã thực thi đối vi  
triều đình Huế sau vụ đảo chính Pháp, cần làm rõ mấy vấn đề:  
Thnht, ti sao, mặc dù chiếm đóng từ tháng 9 năm 1940 mà mãi sau ngày 9 tháng  
3 năm 1945, Nhật Bn mi vội vàng “trao trả đc lập” cho triều đình Huế?  
Thhai, ti sao Nht chn Bảo Đại, mà không phải là ông hoàng Cường Để, người  
đã sinh sống Nht Bản và chờ đợi thời cơ đã ba chục năm?  
Thba, vai trò của triều đình Huế trong bộ máy cai trị Đông Dương mà Nhật đưa ra  
như thế nào? So với bộ máy cai trị ca thực dân Pháp, vai trò của triều đình Huế có thay  
đổi gì không?  
Vthời điểm “trao trả độc lập” cho triều đình Huế: Nhật đề nghtrả độc lp ngay sau  
vụ đảo chính Pháp. Điều này khiến cho mục đích của cuộc đảo chính cần được xem xét,  
liệu có phải mục tiêu ca Nht chỉ là giành quyền lc với người Pháp ở Đông Dương? Đầu  
năm 1945, quân phát xít gặp tht bại trên nhiều chiến trường, ở Pháp, chính phủ Vichy sp  
đổ, chính phủ kháng chiến ca De Gaulle nm quyền. Quân Nhật đang gặp khó khăn ở mt  
trận Châu Á – Thái Bình Dương trước quân Đồng minh Anh M. Ngay Vit Nam,  
quân đội Nhật cũng đứng trước hai nguy cơ nghiêm trọng, có thể “mất trắng” Đông  
Dương. Mt là, quân Pháp theo phái De Gaulle nổi dậy đánh Nhật; hai là, lực lượng Vit  
Minh ngày càng lớn mạnh, đang quyết lit chun bmt cuộc vũ trang khởi nghĩa giành  
đc lập. Đến lúc này, chính quyền thực dân – phong kiến ở Đông Dương đã không còn  
“được việc”. Trong khi người Pháp và đại bphận người Vit Nam ở Đông Dương ráo riết  
chng Nhật thì triều đình Huế lại hoàn toàn “vô hại ” với quân Nhật. Chính vì thế, người  
Nhật nhìn thấy mt giải pháp để hóa giải tình thế, ra tay nhằm giành thế chủ động ở Đông  
Dương bằng cách chuyển sang nước ctiếp theo là “trao trả độc lập” cho triều đình Huế.  
Muốn có “độc lập” để trao, Nht cn phải giành lấy vai trò làm chủ Đông Dương từ tay  
1 Dương Trung Quốc, Sđd, tr.388.  
2 Dương Trung Quốc, Sđd, tr.393.  
T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015  
43  
Pháp. Chính vì vậy, mặc dù đã vào Đông Dương từ tháng 9 năm 1940, nhưng mãi đến,  
tháng 3 năm 1945, triều đình Huế mới được Nhật “trao trả độc lập”.  
Ti sao Nht Bn chn Bảo Đại thay cho ông hoàng lưu vong Cường Để? Cường Để  
đã được nuôi dưỡng và chờ đợi Tokyo một cách nhẫn nhn từ sau phong trào Đông Du  
(1905-1908), trong khi, Bảo Đại được giáo dục tnhỏ ở Pháp và tỏ ra trung thành với  
“mẫu quốc”. Xét về yếu tố trung thành với nước Nht, Bảo Đại hẳn không thể bằng Cưng  
Để. Nhưng, Bảo Đại có những yếu tố để nhanh chóng tiếp nhận “nền độc lập” mà người  
Nhật “trao trả”, đó là danh nghĩa chính thức của Hoàng đế An Nam và sự dễ dãi phản bi  
lại “chủ cũ” để theo “chủ mới”. Về phía Bảo Đại, dễ dãi nhận mt nền độc lập không mấy  
chc chắn, nhưng những gì ngưi Nhật đã làm với Pháp trong vụ đảo chính không cho Bảo  
Đại nhiu la chọn. “Bảo Đại sau này viết hồi ký: Cái đầu Pháp bị cắt lìa khỏi cơ thể Vit  
Nam. Chcn một đêm, nước An Nam cổ xưa đã chuyển thành một nước Vit Nam mới”1.  
Gisử như Bảo Đại tuyệt đối trung thành với chính quyền Pháp, có thể Cường Để đã có  
một cơ hội trv(?). La chn trao trả độc lp cho triều đình Bảo Đại, người Nht mt ln  
na lại đảm bảo chính sách của mình được thc thi một cách triệt để nht, dựa trên sự ổn  
định chính trị và sự phục tùng ca Quốc vương An Nam.  
Về vai trò của triều đình Huế: Ngày 16 tháng 3 năm 1945, nhà cầm quyn Nhật đã  
thông báo về chính sách bộ máy cai trị Đông Dương. Theo đó, chính phủ Nam triu,  
Phnôm Pênh và Luang Prabang vẫn githeo hin trạng. Còn Nam kỳ vốn là thuộc đa, Bc  
kỳ và Lào là xứ bo hcủa Pháp thì nay sẽ do các Thống đốc, Thng sứ phía Nhật cra  
tm thi cai quản. Ngày 20 tháng 3 năm 1945, Thống sNht Nishimura Bc Bộ đã tiếp  
các quan Tổng đốc, Tun phcủa các tỉnh Bc Bộ, tuyên bố duy trì nguyên vẹn bộ máy  
hành chính và đội ngũ quan lại cũ nhưng sẽ dưới quyn của các quan thủ hiến người Nht  
và phục vcho một chính phủ mi do Nhật và Nam triều slập ra”2. Như vậy, về cơ bản,  
bộ máy hành chính và quan lại cũ vẫn được duy trì, một kiểu “giữ nguyên hiện trạng nô lệ”  
trong cái vỏ “độc lập”. Người Nht vn sdng triều đình Huế cho công cuộc cai trị người  
Việt Nam, còn chính phủ Nam triu, thc chất là một công cụ thc thi mnh lnh của ông  
chmi Nht Bản, cũng giống như trước kia triều đình đã từng làm tay sai cho thực dân  
Pháp. Khi sụp đổ, triều đình Huế chm dứt vai trò của mình trong lịch sử, mà ở thi kỳ  
cui, chỉ còn danh nghĩa để cho các thế lc ngoi bang li dng.  
2.2. Bn cht sự có mặt của quân đội Nht Việt Nam qua chính sách của quân  
phit Nhật đối vi triều đình Huế  
Dựa trên hình thức của chính sách trao trả độc lập, một số người cho rằng hành động  
Nhật Bản đánh các thế lực thực dân Âu – Mỹ là giúp nhân dân Đông Nam Á giành độc lập.  
1
Trích tCon rồng An Nam – hồi ký của Bảo Đại. Dẫn theo Daniel Grand Clément, Sđd, 1997, tr.167.  
2 Dương Trung Quốc, Sđd, tr.389.  
44  
Tr êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi  
Tuy nhiên, để hiểu bản chất sự có mặt của quân đội Nhật Bản ở Việt Nam, cần phân tích  
mục tiêu của Nhật trong cuộc Chiến tranh thế giới II và đặt những chính sách của Nhật với  
triều đình nhà Nguyễn trong bối cảnh cuộc chiến. Thực chất chính sách “duy trì hiện trạng”  
và “trao trả độc lập” ở Việt Nam là gì?  
Hc giả Seizaburo Sato đã có giả định cho thy mi quan hệ tác động ràng buộc  
trong cuc tiến quân của Nhật vào khu vực Đông Nam Á với các nước ln cuc chiến  
tranh: “Nếu Đức Quốc xã đã không chiến thắng quá mạnh mẽ trong giai đoạn đầu ca cuc  
Chiến tranh thế gii thhai; nếu Hà Lan và Pháp không đầu hàng Đức để li khong trng  
quyn lc to ln ở Đông Nam Á; và nếu khởi đầu xung đột Đức và Liên Xô không để Nht  
rnh rang khi suy hiếp của quân đội Liên Xô, Nhật Bản đã không thể tiến quân xuống  
Đông Nam Á một cách dễ dàng như thế. Hơn nữa, nếu Mỹ không trả đũa bằng đình chỉ  
thương mại (trong đó có dầu lửa) và yêu cầu Nhật rút các lực lượng quân đội khi Trung  
Quốc, thì chiến tranh M- Nhật có thể không bùng nổ, ít nhất ti thời điểm năm 1941”1.  
Mặc dù, lịch sử không chấp nhận “nếu”, nhưng rõ ràng, chính sách chính trị mà Nhật thc  
hin Vit Nam gn lin din tiến cuc chiến. Khi Đức thng ở châu Âu, Nhật tiến quân  
vào Lạng Sơn; trong khi phe Phát xít thắng thế, Nhật duy trì nguyên trạng chính quyền  
thực dân – phong kiến ở Đông Dương; khi phe Đng minh thng thế, Nht loi bthực dân  
Pháp để sdng triều đình phong kiến với chiêu bài trao trả độc lập cho chính phủ Nam  
triu. Như vậy, mỗi “bước đi chính trị” của Nht Việt Nam đều được đặt trong bi cnh  
Chiến tranh thế gii thhai.  
Mục tiêu xuyên suốt của phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới II đối với Đông  
Dương là chiếm vùng đất chiến lược này, biến nó thành một bộ phận của Khu Thịnh vượng  
chung Đại Đông Á. Chính vì thế, bản chất của chính sách “duy trì hiện trạng” và “trao trả  
độc lập” mà Nhật thi hành với triều đình Huế vẫn chỉ là chính sách xâm lược của thực dân,  
cho dù nó được ngụy trang bằng những mỹ từ. Nếu phát xít Nhật “thực lòng” giúp nhân  
dân Việt Nam giải phóng, như khẩu hiệu “Giải phóng Đông Á”, “Đông Á của người Đông  
Á”, tại sao không trao độc lập ngay trong tháng 9 năm 1940? Nếu phát xít Nhật có thiện  
chí với dân tộc Việt Nam, có thể trao trả độc lập cho nhân dân Việt Nam thông qua các lực  
lượng chính trị có sức mạnh thực sự, như Việt Minh. Việc Nhật thông qua chính quyền  
thực dân phong kiến bóc lột nhân dân Việt Nam, gây ra những tội ác đối với nhân dân Việt  
Nam, trong đó có nạn đói năm 1945 là bằng chứng không thể chối cãi về hành động xâm  
lược và cai trị của phát xít Nhật. Rõ ràng, cái gọi là chính sách “trao trả độc lập” cho triều  
1
Robert A. Scalapino, Foreign Policy of Modern Japan, University of California Press Berkeley, Los  
Angeles, London, 1977, tr.380.  
T¹P CHÝ KHOA HäC Sè 1/2015  
45  
đình Huế, cũng như tương lai phồn thịnh của Đại Đông Á mà phát xít Nhật đưa ra chỉ là  
thứ lừa bịp, để ẩn giấu tham vọng làm chủ trật tự mới ở Á Đông.  
3. KẾT LUẬN  
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam đã lật đổ ngai vàng  
phong kiến triều Nguyễn, giành được độc lập dân tộc từ lực lượng quân phiệt Nhật Bản và  
chính quyền thân Nhật. Một giai đoạn đen tối giữa Nhật Bản và Việt Nam đã trôi qua bảy  
mươi năm. Ngày 21 tháng 9 năm 1973, quan hệ ngoại giao Nhật Bản và Việt Nam (Việt  
Nam Dân chủ Cộng hòa) chính thức được thiết lập. Trải qua thăng trầm, hai bên đã nâng  
lên tầm quan hệ đối tác chiến lược từ 2007 đến nay. Bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay,  
nhất là tranh chấp trên biển Đông có xu hướng làm gần hơn mối quan hệ Nhật Bản và Việt  
Nam. Không chỉ quan hệ chính trị, sự hợp tác Nhật Bản – Việt Nam được mở rộng và đi  
vào chiều sâu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kĩ thuật, đã thắt chặt  
sự gắn bó giữa chính phủ và nhân dân hai nước. Những di sản quan hệ giao lưu lâu đời  
giữa Nhật Bản – Việt Nam trong lịch sử, ngay cả quan hệ đen tối trong một giai đoạn xung  
đột trực tiếp, cũng giúp tăng cường sự thấu hiểu lẫn nhau để phát triển quan hệ toàn diện,  
bền vững trong hiện tại và tương lai.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Daniel Grand Clément, Bảo Đại – hay những ngày cuối cùng của vương quốc An  
Nam (người dịch Nguyễn Văn Sự), Nxb Phụ nữ, 1997.  
2. Trần Thị Thu Hoài , Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ năm 1858 đến 1945, Nxb  
Chính trị Quốc gia, 2015.  
3. Lê Kim, Đạo quân Nhật Bn Vit Nam (1940-1945), Nxb Quân đội Nhân dân,  
1996.  
4. R.H.P. Mason; J.G.Caiger, Lch sNht Bn, Nxb Lao động, 2003.  
5. Vũ Dương Ninh, Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940-2010, Nxb Chính trị  
Quốc gia, 2015.  
6. Edwin O.Reischauer, Nhật Bản – Quá khứ và hiện tại, Nxb Khoa học Xã hội.  
7. Dương Trung Quốc, 2001, Việt Nam – Những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb  
Giáo dục, 1994  
8. Robert A. Scalapin, Foreign Policy of Modern Japan, University of California  
Press Berkeley, Los Angeles, London, 1977.  
9. Văn Tạo – Furuta Moto, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam, những chứng tích lịch sử,  
Viện Sử học Việt Nam xuất bản, 1995.  
46  
Tr êng §¹i häc THỦ ĐÔ hµ néi  
THE JAPANESE MILITARISM’S POLICY TO HUE IMPERIAL COURT  
IN THE YEARS 1940 - 1945  
Abstract: In 9 /1940, one year after starting The Second World War, Japanese troop  
occupied Vietnam. In that time, Vietnam was one of French colonies, but Nguyen dynasty  
was remained. Japanese army has different policies for political powers in Vietnam. To  
Hue government, firstly, Japan implemented policy of “maintaining present condition”,  
then moved “returning independent”. Anyway, nature of policies that Japan carried out  
was an argressive and colonial policy for her purpose of dominating East Asia.  
Keywords: the Japanese stratocracy, the Hue dynasty, the policy, the colonial, the  
invasion.  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 1400
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách của quân phiệt Nhật Bản với triều đình Huế những năm 1940-1945", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_cua_quan_phiet_nhat_ban_voi_trieu_dinh_hue_nhung.pdf