Quan hệ dòng họ qua nghi lễ tang ma của người Tày ở Tuyên Quang

No.16_June 2020|S16 Tháng 6 năm 2020|p.24-30  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HC TÂN TRÀO  
ISSN: 2354 - 1431  
QUAN HỆ DÒNG HỌ QUA NGHI LỄ TANG MA  
CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG  
Hứa Đức Hia*  
a Trường Đại hc Tân Trào  
*
Email: huaduchoi@gmail.com  
Thông tin bài viết  
Tóm tt  
Tang ma là một hiện tượng văn hóa tâm linh, đóng vai trò quan trọng trong đời  
sống văn hóa của tộc người Tày. Ở đó ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa trong quan  
hệ gia đình, dòng tộc nội ngoại, cộng đồng và biểu hiện niềm tin về tôn giáo tín  
ngưỡng của một cộng đồng ấy. Nghi lễ trong tang ma thể hiện một quy tắc ứng  
xử giữa cá nhân trong gia đình, dòng họ với cộng đồng. Thế ứng xử đó tạo nên  
mối giao ước và những quy tắc không chỉ liên quan đến người chết, mà rằng  
buộc người sống với nhau, buộc con người phải có nghĩa vụ, trách nhiệm với  
các thành viên trong dòng họ, cộng đồng.  
Ngày nhn bài:  
27/2/2020  
Ngày duyệt đăng:  
10/6/2020  
Tkhóa:  
Dòng h, nghi l, tang ma,  
người Tày.  
1. Đặt vấn đề  
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019, tỉnh  
Tuyên Quang có 784.811 người1. Trên địa bàn tỉnh có  
23 dân tộc cùng sinh sống, dân tộc Tày chiếm khoảng  
25 %. Ở nông thôn người Tày thường sống tập trung  
thành từng làng (bản), tạo thành các quần thể riêng, đây  
là đặc điểm nổi bật của các làng người Tày truyền  
thống. Còn ở các vùng thành phố, thị trấn họ sống xen  
kẽ với các dân tộc khác, chủ yếu là dân tộc Kinh. Dân  
tộc Tày định cư ở Tuyên Quang từ lâu đời, trong quá  
trình tồn tại và phát triển, người Tày và các dân tộc khác  
như Kinh, Dao, Sán Dìu,... có sự giao thoa văn hóa lẫn  
nhau. Trên thực tế, một số hiện tượng văn hóa của dân  
tộc giao thoa mạnh mẽ, khiến cho các nhà nghiên cứu  
khó có thể phân biệt được một cách rõ ràng. Mặc dù  
vậy, một số yếu tố văn hóa của tộc người Tày vẫn tồn  
tại và có bản sắc khá riêng biệt, trong đó có tang ma.  
Tang ma của người Tày ở Tuyên Quang được tổ  
chức theo những cách thức tương đối cụ thể, rõ ràng.  
Đám tang của người Tày phải trải qua nhiều nghi lễ bắt  
buộc như nghi lễ mời thầy cúng; lễ khâm liệm, nhập  
quan; lễ phát tang; lễ đưa ma, hạ huyệt, cúng 49 ngày,  
100 ngày, giỗ đầu, mãn tang. Mục đích nhằm đảm bảo  
nguyên tắc ích âm, lợi dương; một mặt đền đáp công ơn  
sinh dưỡng, mặt khác làm hài lòng người đã chết để phù  
hộ con cháu bình an. Thông qua những nghi lễ này mối  
quan hệ trong dòng họ, cộng đồng thôn bản càng thắt  
chặt hơn.  
2. Nội dung nghiên cứu  
2.1. Một số vấn đề cơ bản về tang ma của người  
Tày  
Tang ma là “phức hợp các nghi lễ tôn giáo, tín  
ngưỡng gắn liền với người chết và các quy tắc ứng xử  
của gia đình, cộng đồng người sống dành cho người  
chết”2. Ở người Tày cũng như nhiều dân tộc khác, việc  
1 Ban chỉ đạo tổng điều tra dân svà nhà ở trung ương (2019), tr.157.  
2 Nguyn ThNgân (2011), tr.28.  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
tổ chức tang ma trước hết là để đưa tiễn linh hồn của thường diễn ra trong một hoặc hai ngày đêm (làm ma  
người quá cố sang thế giới bên kia cũng như chuẩn bị  
cho họ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống, sinh hoạt hàng  
ngày. Từ nhà cửa, ruộng đất, trâu, bò, quần áo, đồ ăn,  
thức uống, tiền bạc… Đồng thời việc làm tang ma còn  
nhằm mục đích xoá sạch mọi tội lỗi mà lúc sinh thời  
người ta phạm phải, giúp cho linh hồn của họ chóng  
được siêu thoát để tiếp tục một cuộc sống an nhàn, no  
đủ, sung túc ở thế giới bên kia. Ngoài ra tang ma còn là  
một dịp, một cơ hội hiếm có để con cái báo hiếu, trả  
nghĩa, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha  
tươi), nếu những người bị chết bị bệnh truyền nhiễm thì  
cũng mang đi an táng trong vòng 24 giờ, rồi về tiến  
hành làm các nghi lễ luôn (làm ma khô). Còn đối với  
người Tày ở huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang (qua  
khảo sát xã Hồng Quang, xã Thổ Bình, xã Bình An), đa  
số người chết thường được chôn cất ngay (không phát  
tang) sau một thời gian mới tiến hành làm lễ tang (phát  
tang), một số gia đình hiện nay cũng tiến hành các nghi  
lễ luôn (làm ma khô)4. Điều đó phản ánh một thực tế  
mẹ. Vì thế, tang ma của người Tày thường được tổ chức rằng tồn tại xã hội của người Tày trước đây do điều kiện  
linh đình, kéo dài trong nhiều ngày với những nghi lễ  
rườm rà, phức tạp, tốn kém. Chi phí cho đám ma khá  
lớn, vượt quá khả năng kinh tế của nhiều hộ gia đình và  
do đó từ xưa đến nay, tang ma luôn là một gánh nặng,  
nhất là đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn,  
hộ nghèo. Để nói về điều đó người Tày có câu nói: “Ba  
đêm làm ma, ba năm trả nợ” (Slam hằn hắt phi, slam pi  
chá nỉ). Vì vậy, trong tang ma của người Tày luôn phải  
có sự trợ giúp về cả vật chất, tinh thần từ anh em trong  
dòng họ cũng như cộng đồng thôn bản.  
kinh tế - xã hội còn thấp nên không thể chuẩn bị đầy  
đủ vật chất cho tang lễ mà cần một thời gian chuẩn bị  
nhất định, cần sự trợ giúp từ dòng họ, thôn bản đặc biệt  
là những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.  
Những gia đình người Tày trước đây và bây giờ khi  
trong nhà có người già yếu hoặc đau ốm kéo dài, bệnh  
tình mỗi ngày nặng hơn, khó có qua khỏi, người ta có  
thể làm sẵn một cỗ quan tài để phòng xa lúc lâm sự đỡ  
phần bối rối, cả nơi chôn cất nhiều khi những người già  
cũng đã dặn con cháu khi chết thì chôn ở đâu. Việc đóng  
quan tài đối với những người chưa chết thì thường phải  
được đóng vào ngày giờ tốt và phải tiến hành thắp  
hương trên bàn thờ tổ tiên với ý nghĩa trình báo sự việc.  
Điều đó chứng tỏ người Tày có niềm tin vào mối quan hệ  
của dòng họ mình giữa những người đang sống với người  
đã chết (tổ tiên của mình ở thế giới bên kia). Sau khi làm  
xong nếu chưa cần đến thì cứ để đấy, có thể tạm dùng vào  
một công việc gì đó nhưng tuyệt đối không cho mượn và  
càng không thể đem bán. Vì vậy, có những trường hợp  
đóng áo quan lúc 60 tuổi nhưng thọ gần hoặc trên 100 tuổi  
nên áo quan cũng bị hỏng nên phải đóng áo quan mới.  
Những nghi lễ được coi là quan trọng bậc nhất như  
vào đám hay đưa tang bao giờ cũng bắt đầu vào ngày  
tốt, giờ lành. “Chính vì phải chờ đến giờ tốt, ngày tốt  
mới được phép đưa tang nên trước đây hình thành tập  
quán quản xác chết trong nhà lâu ngày, ít vài ba hôm,  
nhiều có thể tới mười ngày, nửa tháng, thậm chí có  
những trường hợp kéo dài cả một tháng trời”3. Cũng do  
việc chọn ngày mai táng mà đôi khi người ta phải áp  
dụng cả hình thức “tiền táng, hậu tế”, nghĩa là nếu chết  
vào đúng ngày tốt thì xác chết được chôn cất ngay trong  
ngày, hoặc ngày kế tiếp và một thời gian sau người chết  
đã nằm yên dưới mồ thì mới tiến hành ma chay, tế lễ.  
Hoặc một số gia đình do hoàn cảnh kinh tế quá khó  
khăn hoặc chưa kịp chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết  
cho tang lễ cũng cho mai táng người chết trước, sau này  
khi có điều kiện mới tổ chức đám ma. Điều đó cũng  
phản ánh việc thực hiện nghi lễ tang ma của người Tày  
là tốn kém về kinh tế, nên việc thực hiện tang ma nhiều  
khi là do điều kiện kinh tế - xã hội quyết định. Từ khi  
Nhà nước ban hành quy định về việc cưới, việc tang,  
ngày lễ, ngày hội thì đám ma của người Tày đã được tổ  
chức đơn giản hơn, thời gian thực hiện nghi lễ cũng  
được rút ngắn, thường gói gọn trong một hoặc hai ngày  
đêm. Qua khảo sát người Tày ở huyện Hàm Yên, tỉnh  
Tuyên Quang (xã Bằng Cốc, xã Nhân Mục), đám ma  
Người Tày quan niệm, khi người thân trút hơi thở  
cuối cùng là lúc chia tay với thế giới trần gian để về cõi  
âm. Lúc này, gia đình người quá cố thông báo với  
trưởng họ, bà con họ hàng nội, ngoại và cử người đi  
mời thầy cúng để làm các thủ tục tiễn đưa linh hồn của  
người đã chết về nơi an nghỉ cuối cùng được suôn sẻ.  
Cùng với tổ chức hàng phường của thôn bản, trưởng họ  
sẽ phân công công việc cho từng thành viên cụ thể trong  
dòng họ. Ma chay là một công việc bất thường trong đời  
sống của từng gia đình, nên khi trong dòng họ có người  
chết, các gia đình cùng họ hàng nhất thiết phải có sự  
tương trợ giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần.  
Theo quan niệm của người Tày, nếu trong họ hàng  
có người chết, gia đình nào trong họ tộc không đến nhận  
3 La Công Ý (2010), tr.286.  
4 Hứa Đức Hi (2018), tr 38.  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
tang, coi như gia đình đó đã từ bỏ quan hệ về dòng máu, chết để người đứng đầu thôn bản cùng gia đình phối  
tổ tiên trong dòng họ. Bởi vậy, khi trong họ có việc ma  
chay, các gia đình trong họ đều giúp đỡ tang chủ, gia  
đình có nhiều giúp nhiều, có ít giúp ít, có thế nào giúp  
vậy, có thể là vài cân gạo, chai rượu, bó củi, con lợn,  
con gà và thậm chí cả tiền, các đồ vật cần trong tang  
lễ… nhưng trước hết đó là sự quan tâm về mặt tinh thần,  
hành động, trách nhiệm của những người cùng dòng họ  
đối với gia quyến. Tuy nhiên, trách nhiệm chính trong  
đám ma phải thuộc về con cái của những người đã quá  
cố, đặc biệt là người con trai trưởng (bài viết này chỉ  
nghiên cứu trường hợp tang lễ thông thường mà không  
nói trường hợp chết bất đắc kỳ tử, hoặc các trường hợp  
khác…). Theo tập quán cổ truyền, các con trai, con gái,  
khi cha mẹ qua đời phải tận tâm, gắng sức lo liệu xong  
xuôi công việc tang lễ cho cha mẹ để khỏi có tiếng đồn  
đại về sau và như vậy mới giữ được trọn chữ hiếu với  
cha mẹ.  
hợp tổ chức lễ tang theo đúng phong tục của địa  
phương. Sau khi người đứng đầu thôn bản nắm được  
thông tin gia đình có người chết sẽ báo cho các hộ gia  
đình trong thôn, bản biết, để cử người đến giúp gia đình  
tang quyến cả về vật chất và tinh thần. Vậy, quan hệ  
dòng họ ở đây không chỉ biểu thể hiện qua mối quan hệ  
giữa các thành viên trong dòng họ mà còn là mối quan  
hệ dòng họ với các thành viên trong thôn bản trong việc  
tổ chức thực hiện các nghi lễ tang ma của người Tày.  
Lễ cúng cơm đầu tiên với lễ vật là một con gà nhỏ  
và một bát cơm. Gà được đem mổ rồi luộc chín còn bát  
cơm cúng được tạo thành bằng cách xới 2 bát cơm đầy  
rồi úp vào nhau, trên miệng bát cơm đặt một quả trứng  
gà luộc đã bóc vỏ và cắm hai cái que nhỏ dài khoảng  
một gang tay, trên đầu mỗi que là những sợi phoi vót  
cong và xù ra giống như chùm hoa mía giờ. Trên bàn  
thờ thì những bát hương gia tiên phải dùng nón che đi.  
2.2. Quan hệ dòng họ qua các nghi lễ chính trong  
tang ma của người Tày  
Trong thời gian này thì những người thân trong  
dòng họ nội, ngoại và bên vợ (hoặc bên chồng) có mặt  
đầy đủ. Trong đó họ nội giữ vai trò quyết định, điều  
hành công việc, với sự điều hành của trưởng họ hoặc  
những người có uy tín trong dòng họ (trường hợp  
trưởng họ không đảm nhận được công việc) gọi tắt là  
trưởng họ. Sau khi trưởng họ đã họp bàn với các thành  
viên trong dòng họ nội và đại diện bên họ ngoại, họ bên  
chồng (hoặc vợ) phân công các công việc để chuẩn bị  
cho các công việc trong nghi lễ tang ma. Đầu tiên là tìm  
được vị thầy cúng phù hợp để tiến hành các nghi lễ tang  
ma cho người chết (thầy cúng phải là thầy Tạo hoặc  
thầy Phù thủy còn thầy Then, thầy Pụt không có phép  
thuật cao nên họ không làm đám cúng cho người chết).  
Sau khi đã tìm được vị thầy cúng thích hợp thì trưởng  
họ cử một hoặc hai thành viên trong dòng họ đi đón  
thầy cúng, thường là cháu trai bên nội hoặc con rể.  
Người đi mời thầy cúng phải đảm nhiệm nhiều việc  
trong quá trình mời thầy cúng như gánh đạo cụ của  
thầy, sách cúng, quần áo, khăn mũ, giấy bản (hiện nay  
việc đưa đón chủ yếu thực hiện bằng xe máy hoặc ôtô).  
Tuy nhiên, vì tình cảm “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với  
gia đình tang chủ nên họ không quản ngại công việc  
khó khăn. Lúc này, tại nhà tang chủ, con cháu chưa  
được khóc, chỉ khi nào thầy cúng đến khâm liệm và  
phát tang xong mới được khóc. Còn đội kèn trống của  
đám ma thì con cháu không phải trực tiếp đi đón. Khi  
thầy cúng đến nhà đám thì tất cả con cái (trực tiếp là  
Dòng họ là “toàn thể những người cùng huyết thống,  
cùng tổ tiên. Tính huyết thống được tính theo bên bố, họ  
bên nội, người Tày gọi là pạng nả, còn những người thuộc  
bên mẹ, họ bên ngoại gọi là pạng lăng5.  
Khi nhận thấy người thân của mình trong dòng họ ở  
trong tình trạng hôn mê sâu, có dấu hiệu sắp lìa trần,  
người ta đem những bộ quần áo mới, đẹp nhất mặc vào  
cho họ. Tiếp đó họ nhét vào miệng những đồng xu hoặc  
đặt vào tay người chết coi đo là tiền hành sai khi qua  
cầu và phủ lên mặt xác chết một miếng vải trắng hay  
một tờ giấy bản với 03 lỗ thủng ở các vị trí tương ứng  
với hai mắt và chóp mũi được tạo ra bằng cách dùng  
nén hương đang cháy châm vào đó. Xác chết được đặt  
tại khu vực phía trước bàn thờ theo cách quay đầu về  
phía bàn thờ, được che đi bằng cái màn mà họ vẫn dùng  
lúc còn sống, tuy nhiên cái màn lúc này được mắc bằng  
3 góc (hai góc phía đầu và một góc phía chân). Những  
công việc này thường là con cái hoặc anh chị em ruột,  
cháu nội, ngoại… làm, (trường hợp người chết là con,  
cháu trong khi bố mẹ và ông bà vẫn còn sống thì xác  
chết đặt ra gian nhà bên ngoài mà không đặt trước bàn  
thờ tổ tiên của gia đình) dưới sự chỉ đạo của trưởng họ  
hoặc những người có uy tín, am hiểu về phong tục lễ  
nghi trong dòng họ. Đồng thời gia đình tang quyến báo  
lên người đứng đầu thôn bản về việc gia đình có người  
5 Hứa Đức Hi (2018), tr 10.  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
con trai trưởng hoặc cháu trai trưởng) người chết phải chỉ liên quan đến người chết mà còn liên quan đến cả  
ra tận ngõ đón chào và lạy thầy 03 lạy để tỏ lòng kính  
trọng. Thầy cúng đáp lễ bằng cách niệm thần chú và hơ  
hơ ngón tay trỏ lên đỉnh đầu mỗi người, viết hờ lên đó  
chữ Phúc với ý nghĩa ban phúc lành cho tang chủ. Thầy  
cúng dùng phép thuật để thu toàn bộ tà ma xung quanh  
nhà. Người Tày gọi là đuổi âm binh - phi dữ quanh quẩn  
ngoài vườn, không để ma cũ bắt nạt ma mới. Với việc  
làm này có ý nghĩa như dọn đường, tạo môi trường sạch  
sẽ để cử hành tang lễ. Sau đó thầy cúng mời thánh thần  
xuống chứng giám, cúng chiêu hồn người chết, phần  
hồn người chết với người sống không dính vào nhau.  
Sau đó ta mới tiến hành nghi lễ khâm liệm.  
người sống, do đó người nào không may chết phải giờ  
xấu (do đó thầy cúng trước khi nhận lời đến đón,  
thường phải xem giờ nhập quan trước rồi mới báo cho  
gia đình đến đón). Khi đưa thi hài vào quan tài, thầy  
cúng đọc một tờ giấy gọi là tờ “phan”, trong đó ghi rõ  
thân thế người đã mất. Trước khi nắp quan tài đóng lại,  
tờ giấy đó được bỏ vào trong coi như biên bản bàn giao  
giữa người sống và người chết. Trong nghi lễ nhập quan  
thì anh em, nội ngoại trong dòng họ thực hiện các nghi  
lễ theo phong tục thì những người trong thôn bản chuẩn  
bị cho áo quan vào vị trí, khiêng người chết vào áo  
quan…. và các công việc khác theo sự phân công.  
Cùng thời gian này, trưởng họ sẽ bàn bạc với đại  
diện thôn bản để kết hợp trong phân công việc thực hiện  
các nghi lễ tang ma như: Thành lập ban tang lễ, công  
tác hậu cần, đào huyệt mộ, di quan… Ban tang lễ bao  
gồm: Đại diện thôn bản, đại diện hội phụ nữ, hội người  
cao tuổi, đoàn thanh niên…của thôn cùng với đại diện  
gia đình. Công tác hậu cần, đào huyệt mộ, di quan… là  
những công việc mà thôn bản giúp đỡ. Còn việc thực  
hiện các nghi lễ tang ma theo phong tục là công việc  
của gia đình gia quyến, anh em bên nội, bên ngoại cùng  
tham gia.  
Trước khi tang lễ chính thức (phát tang) diễn ra thì  
gia chủ phải chuẩn bị đầy đủ quần áo, tư trang và các  
loại vật dụng thông thường mà lúc sinh thời người chết  
hay sử dụng, con cháu còn chuẩn bị chia thêm của cải  
cho bố mẹ, ông bà dưới dạng đồ hàng mã và các hiện  
vật mang tính tượng trưng, trong đó trước hết là ngôi  
nhà táng chụp lên quan tài được làm bằng những đoạn  
nứa nhỏ ghép lại với nhau, bên ngoài dán bằng giấy  
màu. Những vật dụng cùng với ngôi nhà táng sẽ được  
đem đốt khi tiến hành hạ huyệt. Còn những người trong  
thôn bản giúp gia đình gia quyến bằng củi, gạo, tiền,  
Nghi lễ khâm liệm. Đây là những nghi lễ đầu tiên ngày công theo quy định.  
mà người thầy cúng thực hiện cho người chết với sự  
Tang lễ chính thức (phát tang). Đó là khi vị thầy  
tham gia của anh em dòng họ gần (3 đến 4 đời). Xác  
chết được rửa qua theo kiểu làm phép với thứ nước  
“tinh khiết” lấy ở sông, suối hay múc từ dưới giếng lên  
rồi bỏ thêm mấy cành thanh táo, vài chiếc lá bưởi với ý  
nghĩa tẩy uế, thanh trần, làm cho linh hồn người quá cố  
được sạch sẽ, thơm tho, mát mẻ. Anh em bên nội, ngoại,  
bên vợ (chồng) đứng xung quanh xác chết theo sự chỉ  
đạo của trưởng họ nhưng không được khóc.  
cúng chủ trì buổi lễ cùng với những người phụ việc cho  
ông ta niệm chú, yểm bùa để trừ tà, giải uế rồi treo tranh  
thờ lập đàn cúng. Khi lễ phát tang chính thức được diễn  
ra thì con, cháu… trong dòng họ nội, ngoại những  
người vai dưới người chết phải đeo tang và “khóc ma”.  
Trước khi mặc áo tang, con cháu phải cầm áo tang đến  
bên linh cữu của người chết để bái lạy. Tại thời điểm  
nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ giữa các thành viên  
Nghi lễ nhập quan. Khi làm lễ nhập quan thì người trong gia đình - dòng họ có thể được nhận biết qua tang  
thầy cúng phải niệm chú, làm phép để gom hết số hồn phục của đám ma. Con trai (hoặc cháu trai trong trường  
vía còn rớt lại vào trong quan tài. Cũng như trong quan hợp bố đã chết hoặc không đội tang cho ông được) mặc  
niệm của người Việt thì người Tày cũng cho rằng trong quần áo trắng lộn trái được khâu rất sơ sài. Đầu quấn  
khi làm lễ nhập quan thì những ai có tuổi hợp với người khăn tang trắng có hai đuôi dài về phía sau lưng, mũ  
chết không nên chứng kiến lễ nhập quan cả anh em bên chụp phía trên được làm từ rơm hay dây chuối bện chặt  
nội, ngoại và bên vợ (hoặc chồng), vì hồn vía của họ có hình tròn đội trên đầu, chống gậy tre, quấn giấy trắng.  
thể bị người chết kéo vào trong quan tài (cả con, anh Con gái, con dâu mặc áo vải trắng lộn trái, tóc buông  
chị em ruột, các cháu). Trong lễ nhập quan thì anh em xõa phía sau lưng. Con rể mặc quần áo trắng, khăn trắng  
bên nội (con, anh chị em ruột, cháu…) là những người quấn tròn trên đầu. Các cháu mặc áo trắng hai tay lộn  
trực tiếp làm lễ nhập quan cho người chết dưới sự điều trái, khăn trắng quấn tròn trên đầu. Họ hàng bên họ nội  
hành làm lễ của người thầy cúng và trưởng họ. Giờ đội khăn tang như con cháu của người quá cố, còn  
nhập quan được người Tày rất coi trọng, vì nó không những nguời bên họ ngoại mặc áo tang trắng, đầu quấn  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
khăn tang trắng. Kể từ đây, con cháu phải ngồi hai bên những người trong cùng dòng tộc với người quá cố.  
quan tài để thụ lễ, không một ai được phép đi lại tùy Thông thường, con cháu trong họ nội đảm nhiệm các  
tiện. Riêng người con trai phải chống gậy đứng túc trực nghi lễ chính của một đám tang những người thuộc  
bên linh cữu, thực hiện các nghi lễ theo phong tục và dòng họ bên ngoại thu xếp công việc gia đình để đến  
đáp lễ của những người đến viếng. Tiếp đó các nghi lễ gia đình gia quyến phụ giúp công việc đến các nghi lễ,  
khác lần lượt được tiến hành theo một trình tự nhất công tác hậu cần…. có liên quan.  
định, một nghi lễ quan trọng, mang nhiều ý nghĩa nhất  
Ở lễ tế họ nội, họ ngoại: Tế họ là lễ tế của dòng họ  
là lễ phá ngục và các lễ tế của các con, anh em bên nội,  
bên họ nội, họ ngoại thể hiện sự đau buồn, tiễn đưa  
bên ngoại, thông gia, liên gia và hàng phường. Còn  
người chết khỏi đời sống thực tại với anh em trong dòng  
những người trong thôn bản sẽ giúp gia quyến công tác  
tộc về với tổ tiên của dòng họ mình ở thế giới bên kia.  
hậu cần như: bếp núc, cỗ bàn, tiếp khách, chuẩn bị lễ  
Lễ vật thường có một con lợn (40 - 50kg), 1 con gà, 1  
vật cho gia đình, đào huyệt… Bởi phong tục của người  
con vịt luộc, xôi, bánh giầy, gạo và vàng hương xếp  
Tày là ai đến viếng đều phải ăn cơm vì vậy, những công  
trước linh cữu. Thầy cúng tiến hành đọc các bài tế lễ  
việc trên gia đình gia quyến không thể chuẩn bị được  
theo sách cúng cho con cháu, anh em trong dòng tộc  
mà phải nhờ anh em nội, ngoại, thôn bản từ đó tạo nên  
bên nội, bên ngoại nghe. Con cháu, anh em trong dòng  
mối quan hệ dòng họ, cộng đồng thôn bản thêm chặt  
tộc quỳ trước linh cữu của người quá cố thụ tang. Sau  
chẽ, khăng khít để thực hiện được đám tang trọn vẹn.  
đó, thầy cúng theo vai vế trong dòng tộc sẽ gọi tên từng  
Lễ phá ngục kéo dài từ 2,5 giờ đến 3 giờ. Người Tày người lên trước bài vị thắp hương, rót rượu và vái ba  
quan niệm rằng, lúc sống con người ta phạm rất nhiều lần trước anh linh của người đã mất. Thầy cúng đọc  
tội lỗi; đặc biệt là phụ nữ khi hành kinh cũng như chửa những lễ vật được dòng họ nội, họ ngoại mang đến để  
đẻ và giặt tã lót cho trẻ em đã thải chất bẩn ra các dòng cúng người chết. Lễ vật để tế thường là anh em trong  
suối, dòng sông làm uế tạp thuỷ cung, do đó khi người họ góp nhau để cùng chuẩn bị. Điều đó chứng tỏ mối  
chết, hồn vía của họ bị Diêm Vương bắt giữ và giam quan hệ dòng họ của người Tày là rất chặt chẽ, có tôn  
vào ngục tối cho đám quỷ dữ tra khảo, trị tội. Vì thế, ti trật tự. Gia đình tang chủ mời cơm, nước để chia buồn  
phải phá bỏ nhà ngục, giải phóng hồn người chết khỏi cùng gia đình tang chủ. Gia đình tang chủ cũng để lại  
hàm răng sắc nhọn của sư tử; đồng thời xoá sạch mọi “lộc” cho dòng họ bên ngoại bao gồm: ¼ con lợn đến  
tội lỗi, giúp họ chóng được “siêu sinh tịnh độ”, lên viếng, các thứ khác là ½. Để sau khi anh em bên nội,  
“mường trời” sống một cuộc sống sung sướng, an nhàn, bên ngoại viếng xong trở về làm bữa cơm cảm ơn anh  
no đủ. Lễ phá ngục của người Tày được thực hiện ở em họ hàng đã đến giúp đỡ, phúng viếng, đồng thời đây  
ngoài trời. Nhà ngục hình vuông, làm bằng mảnh vải cũng là dịp để trưởng họ hoặc những người am hiểu về  
trắng và vàng quây xung quanh 4 chiếc cọc tre, giữa phong tục tập quán của người Tày, dòng họ truyền lại  
ngục đặt một ngọn nến và đặt bài vị của người chết, 4 cho thế hệ sau, qua đó thể hiện mối tương trợ về tinh  
ngọn nến tượng trưng cho bốn cửa đông tây, nam, bắc. thần, vật chất của dòng họ người Tày.  
Thầy cúng niệm chú, làm phép dẫn đầu người nhà tang  
Lễ tế của thông gia, liên gia: Quá trình thực hiện lễ  
chủ đi vòng quanh nhà ngục với ý nghĩa lùng sục, tìm  
nghi tang ma, người Tày không chỉ có lễ tế của dòng họ  
kiếm hồn người chết bị giam giữ trong ngục tối, sau đó  
bên nội, bên ngoại mà còn có lễ tế của bên thông gia,  
dùng kích trượng hoặc dao nhọn gạt đổ từng cây nến  
liên gia cũng được coi trọng và là lễ nghi bắt buộc với  
một tượng trưng cho các cửa ngục lần lượt bị phá bỏ và  
những người đã có con đã dựng vợ, gả chồng. Lễ vật  
nhờ đó hồn người chết được thoát ra ngoài. Như vậy,  
thường là một con gà, một con vịt, gạo tẻ, rượu gạo,  
trong lễ phá ngục thì tang chủ cùng các con, các cháu  
vàng mã. Sau đó, mời họ vào lễ trước anh linh người  
họ nội là những người trực tiếp thực hiện các nghi lễ  
quá cố. Thầy cúng tiến hành đọc bài tễ tiễn biệt người  
dưới sự trụ trì của thầy cúng. Đảm bảo linh hồn của  
chết và các lễ vật do bên thông gia, liên gia cấp cho  
người chết được “siêu thoát” sang thế giới bên kia và  
người quá cố. Còn con cháu người chết phải đứng thụ  
gặp tổ tiên của dòng họ mình. Tang ma của người Tày,  
tang. Sau khi tham dự lễ tế xong, gia đình bên thông  
ngoài lễ tế của các con thì dòng họ bên nội và bên ngoại  
gia, liên gia ở lại ăn cơm, chia buồn cùng với gia đình  
đều phải có một lễ tế đối với người quá cố, đây là một  
tang chủ.  
lễ nghi bắt buộc, thể hiện tình cảm tiếc thương của  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
Nghi lễ hạ huyệt. Trước lúc hạ huyệt, con cháu làm  
Đối với người Tày ở huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên  
Quang tại thời điểm chúng tôi nghiên cứu tại xã Hồng  
Quang thì còn có lễ tế của các cháu gái đã xây dựng  
gia đình riêng. Lễ vật cũng giống như dòng họ nội, hoặc  
ngoại nhưng là do các cháu ngoại góp vào để tiến hành  
lễ tế. Qua đây nó thể hiện trách nhiệm rất lớn của các  
cháu gái ngoại đối với cội nguồn của mình. Đây cũng  
là dịp để các cháu thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ, tương  
trợ lẫn nhau cả về tinh thần và vật chất đối với gia đình  
tang chủ1.  
lễ tiễn biệt người chết sang thế giới bên kia, thầy cúng  
niệm thần chú làm phép “an sơn thần”. Tiếp đó thầy  
cúng làm lễ cúng vong cho người chết trước lúc hạ  
huyệt. Sau khi lấp huyệt và đắp thành nấm mồ, thầy  
cúng một lần nữa niệm thần chú, làm phép gom nốt số  
hồn vía người chết còn rơi rớt lại, đồng thời gọi hồn vía  
những người tham gia đưa tang về với thể xác. Sau đó  
là đốt ngôi nhà táng, các thứ hàng mã… cho người chết.  
Cuối cùng là lấy hòn đá to đặt dưới chân mộ đánh dấu  
vị trí ngôi mộ và dựng nhà mồ. Trong nghi lễ này con,  
cháu, anh em bên nội, ngoại là những người thực hành  
các nghi lễ còn thôn bản là những người giúp gia đình  
hạ huyệt, đắp mộ….đến khi hoàn thành các công việc  
trong một đám tang trọn vẹn của gia đình người Tày.  
Nghi lễ đưa tang (slống phi, óc phi). Thầy cúng  
niệm chú, làm phép nhằm góm nốt số hồn vía người  
chết còn sót lại vào trong quan tài. Nếu chồng chết  
trước vợ thì trước lúc đưa quan tài ra khỏi nhà phải làm  
lễ chia tay. Người vợ cùng con cháu quỳ ở phía chân  
quan tài, mặt ngoảnh ra cửa, mỗi người cầm một chén  
rượu và vòng tay đưa ra phía sau lưng. Tiếp đó, các con  
trai, con gái, con dâu, con rể lấy thân mình “lát đường”,  
“bắc cầu” cho linh hồn bố mẹ đi sang thế giới bên kia.  
Họ nằm sấp, úp mặt xuống phía dưới, nối đuôi nhau  
làm thành một hàng dài từ chỗ đặt quan tài ra đến ngõ  
nhà để khiêng quan tài lên phía trên. Theo phong tục  
người Tày, khi đưa quan tài ra khỏi nhà (nhà sàn truyền  
thống) không được đi qua cầu thang lên xuống hàng  
ngày mà phải làm một chiếc cầu thang tạm bằng cây  
tươi với số bậc là chẵn. Chiếc cầu tạm này do thôn bản  
giúp dựng.  
Lễ mở cửa mồ (khay tu mả thực hiện vào ngày thứ  
03 tính từ lúc làm lễ phát tang) với ý nghĩa để hồn vía  
của họ ra mắt sơn thần. Hiện nay lễ mở cửa mồ thường  
được các thầy Tào và gia đình thực hiện sau khi nghi lễ  
hạ huyệt kết thúc nhằm giảm bớt thời gian, vật chất…  
cho gia đình tang chủ.  
Khi tất cả các nghi lễ trên đã thực hiện xong “mồ  
yên, mả đẹp” gia đình tang chủ sẽ làm cỗ mời thôn bản  
những người đến giúp gia đình. Bữa cơm là dịp để gia  
đình bày tỏ biết ơn hoặc xin lỗi đến thôn bản, những  
người đến giúp gia chủ hoàn thành công việc theo đúng  
phong tục. Qua đó thể hiện mối quan hệ của gia đình,  
dòng họ, thôn bản ngày càng thắt chặt. Ngoài những lễ  
nghi trên, tang ma của người Tày còn phải trải qua  
nhiều nghi lễ khác như: cúng 49 ngày, 100 ngày, giỗ  
đầu, mãn tang. Nhưng những nghi lễ này chỉ có sự tham  
gia của gia đình họ nội và ngoại, không có sự tham gia  
giúp đỡ của thôn bản.  
Sau khi ra khỏi nhà, quan tài được đặt lên đòn khiêng  
để đưa đến nơi chôn cất. Thầy cúng niệm chú và tung vài  
nắm gạo lên mái nhà táng với ý nghĩa bố thí cho những  
hồn ma không ai thờ cúng rồi mới đưa quan tài đi chôn  
cất. Dẫn đầu đoàn đưa tang là một người con hoặc cháu  
cầm bó đuốc đang cháy tượng trưng cho việc soi đường,  
dẫn lối, đưa linh hồn người chết sang cõi âm. Tiếp đến là  
một người cầm đồ lễ và tiền vàng làm bằng giấy cắt nhỏ  
rắc dọc đường từ nhà đến nơi chôn cất với ý nghĩa bố thí  
cho cô hồn. Theo sau là thầy cúng, họ hàng thân thích  
cuối cùng là hàng xóm, láng giềng. Khi đưa tang con trai  
trưởng bao giờ cũng đi phía trước quan tài (phía đầu  
3. Kết luận  
Quan hệ dòng họ qua nghi lễ tang ma của người Tày  
ở Tuyên Quang biểu hiện trong những không gian, thời  
gian cụ thể khi thực hiện các nghi lễ. Khi thực hiện các  
nghi lễ mối quan hệ giữa những người đã chết, giữa  
người đã chết với người đang sống, giữa những người  
người chết), con trai thứ đi phía sau (phía chân người đang sống với nhau tạo nên mối quan hệ dòng họ ngày  
chết), cháu, chắt đi hai bên, con gái, con dâu đi ngay phía  
sau quan tài. Như vậy, trong nghi lễ đưa tang quan hệ  
dòng họ thể hiện “tôn ti trật tự”, thấy được vị thế của  
người con trai, vị trí của trưởng họ, của các thành viên  
trong dòng họ theo một trật tự nhất định, không bị đảo  
lộn.  
càng bền chặt và bảo tồn, phát huy những giá trị văn  
hóa truyền thống của tộc người. Thực tế, tang ma của  
người Tày, trách nhiệm nặng nề thuộc về người con trai  
trưởng, trưởng họ và dòng họ nội. Trưởng nam phải  
gánh vác trách nhiệm lễ tế, cõng bài vị, dâng, hóa sớ….  
Gia đình nào không có con trai phải nhận một cháu trai  
1 Hứa Đức Hi (2018), tr 47.  
H.D.Hoi/ No.16_June 2020|p.24-30  
hoặc em chú trong nội tộc gánh trách nhiệm trên. Người  
cháu hoặc người em chú có trách nhiệm như con trai đẻ  
trong gia đình, lúc cha, mẹ chết phải chống gậy, chịu  
tang. Điều đó cho thấy, trong xã hội người Tày, vai trò  
phụ quyền chiếm ưu thế, nhưng khi gia đình có việc hệ  
trọng như tang ma, tất cả các thành viên trong gia đình  
dòng họ, trai cũng như gái đều đồng lòng chịu tang thực  
hiện nghĩa vụ báo hiếu. Tang ma của người Tày còn cho  
thấy vai trò của dòng họ nội, họ ngoại đặc biệt là trưởng  
họ người điều hành mọi công việc trong thực hiện các  
nghi lễ tang ma, biểu hiện cho sự đoàn kết trong dòng  
họ và mối quan hệ của dòng họ với cộng đồng thôn bản.  
Họ ứng xử như những thành viên trong gia đình tang chủ,  
cùng chia sẻ với gia đình tang chủ thông qua những lễ tế  
riêng. Điều đó đã trở thành một phong tục, tập quán quan  
trọng đối với người Tày để sự cố kết trong dòng họ; dòng  
họ với thông gia, liên gia, cộng đồng thôn bản.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở trung  
ương (2019), Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời  
điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Nxb Thống kê,  
Hà Nội.  
2. Triệu Quỳnh Châu (2017), Dòng họ của người  
Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kan, Luận án Tiến  
sĩ nhân học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,  
Hà Nội.  
3. Hứa Đức Hội (2018), Quan hệ dòng họ trong đời  
sống tín ngưỡng của người Tày tỉnh Tuyên Quang, Đề  
tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở, Trường Đại học  
Tân Trào, Tuyên Quang.  
4. Nguyễn Thị Ngân (2011), Tang ma của người  
Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ  
Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học, Trường Đại học  
Khoa học xã hội & Nhân văn, Hà Nội.  
5. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa  
Tày, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.  
Lineages relations through funeral rites  
of the Tay in Tuyen Quang  
Hua Duc Hoi  
Article info  
Abstract  
Funeral is a spiritual cultural phenomenon, playing an important role in the cultural  
life of the Tay people. There are hidden cultural values in family relationships, paternal  
lineages, maternal lineages, communities and expression of belief in religious beliefs  
of that community. Funeral rites represent rules of behavior between individuals in  
families, lineages and communities. That behavior creates covenants and rules that not  
only relating to the dead, but also tying the alive people with each other which asks  
people to have obligations and responsibilities to members of their lineages and the  
community.  
Recieved:  
27/2/2020  
Accepted:  
10/6/2020  
Keywords:  
Lineages, ritual, funeral,  
The Tay people.  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 720
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ dòng họ qua nghi lễ tang ma của người Tày ở Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfquan_he_dong_ho_qua_nghi_le_tang_ma_cua_nguoi_tay_o_tuyen_qu.pdf