Đề tài Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh

LỜI MỞ ĐẦU  
Bước vào thập kỷ 90, tình hình thế giới những thay đổi nhanh chóng,  
phức tạp và có những yếu tố khó lường . Sự sụp đổ của chủ nghĩa hội ở Liên Xô  
Đông Âu kéo theo đối đầu với hai cực Xô- Mỹ cũng chấm dứt. Duy chì hoà bình  
ổn định trong môi trường quốc tế mới và tìm kiếm vị trí có lợi nhất trong đó đang  
mục tiêu chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới.  
Được đánh giá là một siêu cường còn lại duy nhất sau chiến tranh lạnh, bên  
cạnh những cơ hội, Mỹ cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới. thế  
để phù hợp với tình hình, tiếp tục triển khai và giành thắng lợi trong chiến lược  
toàn cầu của mình, Hoa Kỳ đã sự điều chỉnh đáng kể trong chiến lược toàn cầu  
của mình. Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ đã ảnh hưởng toàn diện tới chiến lược  
toàn diện của các nước đặc biệt tới các nước lớn, buộc họ cũng phải thay đổi đường  
lối cho phù hợp với tình hình mới.  
Xét trên nhiều góc độ, sự điều chỉnh của Mỹ sau chiến tranh lạnh đã tạo ra  
nhưng thay đổi to lớn mang tính toàn cầu, tác động, mạnh mẽ đến hệ thống quan  
hệ quốc tế bởi vậy việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh  
lạnh, Mục tiêu và sự điều chỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về luận thực  
tiễn trong hoạc định đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay.  
Với lý do đó, tôi đã chọn đề tài “ Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối  
ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” làm nội dung tiểu luận.  
Tiểu luận gồm Phần mởi đầu, 02 chương, kết luận danh mục tài liệu tham  
khảo.  
 
PHẦN NỘI DUNG  
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI  
1.1. Thế lực của Mỹ  
Thế lực của Mỹ yếu tố quan trọng hàng đầu, chi phối chiến lược đối  
ngoại của Mỹ,  
Mỹ hiện nền kinh tế lớn nhất thế giới, với 4,7% dân số thế giới, GDP của  
Mỹ chiếm 31,2 % GDP toàn cầu. GDP năm 200 đạt 9.996,2 tỷ USD, lớn gần gấp  
đôi so vói nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới Nhật Bản là 4.619,8 Tỷ, gấp 10 lần so  
với nền kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc 1.070,7 tỷ tính theo cân bằng sức  
mua (PPP). Như vậy phải mất 30 năm nữa với tốc độ tăng trưởng như hiện nay,  
kinh tế Trung Quốc mới đạt mức của Mỹ hiện nay và tổng thu nhập quốc dân tình  
theo đàu người thấp hơn nhiều. Hơn nữa, thập kỷ đầu của thời kỳ sau chiến  
tranh lạnh lại chứng kiến một thơig kỳ phát trển dài lâu nhất trong lịch sử của nước  
Mỹ khoảng cách giữa Mỹ và các đối thủ đặc biệt như Nhật Bản và EU vành được  
mở rộng sự trờnh lệch lớn trong tộc độ phát triển kinh tế. Từ năm 1990 đến 1998,  
kinh tế mỹ tăng đến 27 % gấn như gấp đôi so với EU 15% Nhật Bản 9%. Mỹ có  
khả năng duy trì được vị trí siêu cường của mình ít nhất trong nhiều thập kỷ tới .  
Nền kinh tế Mỹ vẫn nền kinh tế sức cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới . Mỹ  
giữ vai trò chủ đạo trong các tổ chức tài chính, thương mại thế giới như,MF, WTO,  
WB, ….Nền kinh tế Mỹ nền kinh tế sức cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới.  
Mỹ cũng nước đi đầu trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ đồng đô la Mỹ chiếm  
hơn 60 % giao dịch thương mại toàn cầu . Đồng đụla cũng đồng tiền dự trữ của  
hầu hết các nước trên thế giới.Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tiềm  
lực kinh tế của Mỹ vô cùng to lớn . Những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dưới  
tác động của thành tựu khoa học công nghệ toàn cầu hoá và chính sách kinh tế và  
mô có hiệu quả làm cho chu kỳ tăng trưởng kinh tế của mỹ kéo dài và bền vững  
hơn chù kỳ suy thoái giảm hơn một cách đáng kể như thời gần đây kéo dài chỉ  
     
khoảng 2 quý, ngay cả duúi tác động của vụ khủng bố 11-9. Đăc biệt công nghệ tin  
học ứng dụng của nó dã góp phần tăng lăng suất lao động đáng kể và làm cho  
“nền kinh tế mới” của Mỹ duy trì đươc tăng trưởng trong khi một loạt các nền kinh  
tế ở châu Á Thái Bình Dương lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Căn cứ vào mức  
tăng trưởng hiện nay khoảng 3% và dự báo trong thời gian tới 4% Mỹ vẫn tiếp tục  
nễn kinh tế lớn nhất thế giới trong vòng mấy thập kỷ tới .  
Sức mạnh quân sự của Mỹ đứng đầu trên thế giới. Theo Josph Nye, giáo sư  
trường Đại Học Haward và nguyên trợ bộ trưởng quốc phòng Mỹ, về măt quân  
sự, thể nói thế giới đơn cực Mỹ nước duy nhất cả vũ khí hạt nhân  
xuyên lục địa cũng như sức manh vô địch,về không quân, hải quân và bộ binh. Chỉ  
tiêu quân sư chiếm 37% chỉ tiêu quân sự toàn cầu năm 20005. Do mức giảm chi  
ngân sách quân sự của mỹ thấp hơn so với các nước khác thời kỳ, sau chiến tranh  
lạnh kết thúc với khoảng 80% toàn bộ chi phí trên thế giới dành cho nghiên cứu và  
phát triển quân sự, Mỹ cường quốc duy nhất một quân sự ở cả năm châu lục  
và có tầu ngầm nguyên tử tầu sân bay ở cả ba đại dương. Kho khi hạt nhân  
lớn nhất của Mỹ trên thế giới Mỹ cũng nước lãnh đạo các liên minh quân sự  
xuyên Đại Tây Dương, NaTo và qua đó duy trì sự phụ thuộc của các nước Tây Âu  
vào Mỹ về mặt chính trị và quân sự. Ở châu Á hệ thống Sanfransisco do Mỹ thành  
lập từ sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn được duy trì và củng cố về tiềm năng khoa  
học công nghệ: sức sáng tạo khoa học kỹ thuật cua mỹ chiếm 40,6% của tổng chi  
phÝ toàn cầu là 652,7 tỷ USD. Chi phí cho nghiờn cứu và phát triển khoa học công  
nghệ của các tập đoàn, công ty Mỹ lên tới 200 tỷ đô la, nhiều hơn ngân sách của  
toàn bộ các nước còn lại trên thế giới. Bằng phát minh khoa học của mỹ chiếm hơn  
60% toàn bộ số bằng phát minh khoa học trên thế giới. Mỹ đi đầu ở 20 trong tổng  
số 29 ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh  
vực công nghệ tin học. Mỹ nắm giữ vai trò chủ đạo trong các thiết chế tài chính  
thương mại thế giới như IMF. WTO, WB… Xét về tổng thể, Mỹ đang là siêu  
cường duy nhất ưu thế vượt trội của Mỹ đươc thể hiện rõ nét trong lĩnh vực như  
kinh tế, quân sự khoa học và công nghệ. Hơn thế nữa, phạm vi và sức mạnh Mỹ cã  
thể vươn tới phạm vi toàn cầu, khả năng khống chế toàn cầu của Mỹ thông qua  
sức mạnh áp đảo được thúc đẩy bởi một thế giới toàn cầu hoá và ngày càng phụ  
thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, ưu thế của Mỹ nằm trong một thế tương quan lực lượng  
khác biệt về cơ bản so vơi thời kỳ sau chiến tranh thÕ giới thứ hai, hơn thế nữa,  
cho dù sức mạnh áp đảo nhưng pham vi triển khai sức mạnh trên toàn cầu của nước  
Mỹ ngày nay đang phải đương đầu với những thách thức phi truyền thống, những  
mối đe doạ không cân sức mà trong cuộc chơi đó sức mạnh áp đảo của Mỹ chưa  
hẳn là nhân tố quyết định thắng lợi bởi những lý do sau :  
Thứ 1: Nước Mỹ không còn ở thế độc quyền vũ khí nguyên tử, kho khí  
hạt nhân của Nga vẫn đứng vtrí thứ 2 thế giới, cho dù mối đe đoạ hạt nhân từ Nga  
giảm đi đáng kể . Kho khí hạt nhân của Nga tuy đã giảm đáng kế nhưng vẫn còn  
đủ sức tiêu diệt 10 lần nước Mỹ. Ngoài và còn phải kể dến cường quốc hạt nhân  
khác .  
Thứ 2: Những trung tâm quyền lực khỏc đó mạnh lên tương đối so với mỹ và  
khả năng thách thức vị trí của mỹ trong tương lai sau chiến tranh thế giới thứ 2 tổng  
thu nhập quốc nội (GDP)của Mỹ chiếm khoảng 30% (GDP) toàn cầu. Sức mạnh  
kinh tế không còn áp đảo như trước những trung tâm kinh tế như EU, Nhật bản đã  
nổi nên cạnh tranh gay gắt .  
Thứ 3: Sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau trong kỷ nguyên toàn cầu hoá không  
mang tính chất một chiều. Sự thịnh vượng kinh tế Mỹ phụ thuộc vào một phần vào  
buôn bán, đầu tư với các nước khỏc trờn thế giới . Vì vậy lợi ích của Mỹ trong quan  
hệ kinh tế với các nước khác đòi hỏi của Mỹ cũng phải hợp tác tính đến lợi ích của  
các đối tác khác chứ không thể chỉ thể áp đặt những điều kiện của mình.  
Thứ 4: Những mối đe doạ không cân xứng một trong những thách thức và  
hạn chế to lớn đối với sức mạnh của Mỹ. Sự biểu dương sức mạnh của Mỹ trong  
cuộc chiến tranh vùng vịnh năm 1991 cuộc không kích Kosovo năm 1999 và cuộc  
chiến tranh Afghamstan là những bức thông điệp mạnh mẽ về “sự địch” của Mỹ  
trong cuộc chiến tranh thông thường, chính vì vậy, kẻ thù của Mỹ sẽ sử dụng  
những phương tiện phi truyền thống như khủng bố đe doạ hạt nhân hay khí hoá  
học chiến tranh tin học hay phá hoại môi trường, đây mối đe doạ không cân xứng  
với Mỹ .  
Thứ 5: Tuy là siêu cường duy nhất còn lại sau khi liờn xụ sụp đổ nhưng nước  
Mỹ ngày nay không có đủ ý chí và khả năng lãnh đạo thế giới theo kiểu chả bất cứ  
lúc nào, đi bất cứ nơi đâu, chống lại bất cứ kẻ thù nào và bảo vệ bất cứ người bạn  
nào. Nói một cách khác sự thiếu nhất chí trong nội bộ của Mỹ về vai trò của trong  
một thế giới mới với những thách thức đa dạng phức tạp một trong những hạn  
chế cơ bản đối với khả năng thiết lập bản quyền của Mỹ trên toàn thế giới. Henoi  
Kissilger cho rằng mâu thuẫn giũa ba cách tiếp cận khác biệt của ba thế hệ khác  
nhau là nguyên nhân sâu xa. Tại sao nước Mỹ không đưa ra một chiến lược đối  
ngoại gắn liền với nhất quán trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh? Thế hệ của các cựu  
chiến binh trong chiến tranh lạnh nhìn thế giới với lăng kính của chủ nghĩa hiện  
thực mà cân bằng quyền lực là khái niệm chủ đạo đối phó với mối đe doạ tiềm  
tàng là nhiệm vụ hành đầu của chiến lược đối ngoại hành đàu của mỹ. Thế hệ của  
những người phải đối cuộc chiến tranh ở Viờt Nam mà Clinton là đại diện tiếp cận  
thế giới với lăng kính của chủ nghĩa tưởng thế giới quan của thế hệ sau chiến  
tranh lạnh thiên về chủ nghĩa toàn cầu kinh tế việc theo đuổi lợi ích kinh tế của  
Mỹ tất yếu sẽ dẫn đến hoà bình và dân chủ trên thế giới.  
1.2. Những xu thế quốc tế chủ yếu tác động đến chiến lược đối ngoại của  
Mỹ  
Một là: xu thế khách quan về sự phát triển về khoa học công nghệ các ngành  
công nghệ cao phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử tin học, truyền  
thông. Để giữ được hàng đầu trong việc chạy đua này nước Mỹ sẽ buộc phải chạy  
 
đua kinh tế khoa học kỹ thuật bởi các trung tâm trên thế giới như Nhật Bản và EU  
luôn có khả năng đuổi kịp và thách thức của mỹ, vậy Mỹ sẽ phải tiếp tục chính  
sách ưu tiên phát trển kinh tế đầu tư mạnh mẽ vào khoa học kỹ thụõt để dảm bảo  
trong cuộc chiến tranh này .  
Hai là : Xu thế hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành su thế chủ đạo chi  
phối quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh tuy vậy ở nhiều khu vực trên thế  
giới, xung đột cục bvà tình trạng bất ổn định vẫn tiếp tục sảy ra. Xong chanh chấp  
lãnh thổ xung đột cục bkhó có khả năng lan rộng, kéo dài sự đối đầu trực tiếp của  
các nước lớn và làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thư 3. Khả năng chiến tranh  
thế giới khó có thể xảy ra vỡ cỏc nước lớn hiện nay khó có thề xảy ra vớ cỏc nước  
lớn hiện nay có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hòa bình để phát triển  
kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cao tuy không trừ khả năng chiến tranh  
nhưng có tác dụng giảm khả năng sung đột lợi ích đan xen, trồng chéo .  
Ba là: Sự chuyển đổi công nghệ tới năm 70 và cuộc cách mạng mạnh mẽ tiến  
trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Một mạng lưới toàn cầu về mậu dịch, sản xuất  
thông tin dần được hình thành. Xu hướng toàn cầu hoá là một su thế khách quan  
không thế đảo ngược. Song hành với xu thế toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Ở  
Châu Âu về quá trình mở rộng của EU được tiến hành đồng thời với quá trình phát  
triển về chiều sâu kinh tế. Ở châu Á Thái Bình Dương tiến trình tự do hoá thương  
mại của APECH đang tiếp tục tiến triển. Liên kết tiểu khu vực cũng được thúc đẩy  
toàn cầu hoá và khu vực hoá mà hệ quả trực tiếp sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các  
nền kinh tế ngày càng tăng, một EU thế giới quan trọng có tác động to lớn đến  
việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước hiện nay trên thế giới.  
Bốn là: xu thế đa cực hoỏ, Liờn Xụ tan rã Mỹ trở thành siêu cường duy nhất  
trật tự thế giới hai cực sụp đổ. Thế giới đang chuyển tiếp sang một chật tự đa cực.  
Dù là siêu cường duy nhất Mỹ không thể chi phối toàn bộ cộng việc của thế giới và  
áp đặt ý chí của mình, những vẫn đề bức xúc đòi hỏi phải sự hợp tác của các  
nước trên thế giới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sức mạnh còn lại khả nnăng hồi  
phục của Nga, tính độc lập ngày càng cao của Nhật Bản và EU cũng như sự lớn  
mạnh của ấn độ đã làm cho Mỹ khó có thể thực hiện đựoc tham vọng chủ của  
mình.  
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI  
CỦA MỸ  
2.1. Mục tiêu và trọng điểm chiến lược  
Mục tiêu chiến lược đối ngoại bao chùm của Mỹ tập trung củng cố thực  
lực vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ  
lãnh đạo ở đó giá trị của Mỹ được phổ biến, ngăn chặn không cho bất cứ nước  
nào nổI lên đe doạ vị trí của mình. Mục tiêu chiến lược dài hạn bao trùm này tiếp  
tục được thể hiện trong ba mục tiêu cơ bản: tăng cường an ninh, củng cố thịnh  
vượng kinh tế và thúc đẩy dân chủ nhân quyền. mục tiêu chiến lược xuyên suốt và  
dài hạn những xu thế quốc tế chủ đạo phân tích trên sẽ tiếp tục chi phối đường  
hướng chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh thúc đẩy kinh tế thị trường,  
mở rộng tự do hoá thương mại can dự vào thế giới. Đú chớnh những nguyên tắc  
cơ bản định hình chính sách đối ngoại của Mỹ trong nửa thế kỷ qua và những  
nguyên tắc này tiếp tục cốt lõi cho chính sách đối ngoại của Mỹ sau này.  
Sự kiện 11- 9 và cuộc chiến của mỹ ơ Afghamstan là một bước ngoặt quan  
trọng mở ra một thời mới, thời hậu chiến tranh lạnh theo cách gọi của ngoại  
trưỏng mỹ Colin Powel. Cuộc chiến chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược  
hàng đầu của Mỹ. Đối với Mỹ ở khía cạnh nào đó chống khủng bố đã thay thế mục  
tiêu “chống cộng sản” thời chiến tranh lạnh trở thành ngọn cờ tập hợp lực  
lượng, và danh giới phân định bạn thù. Học thuyết bus “hoặc các bạn đứng về phía  
chúng tôi, hoặc đứng về phía bộn khủng bố” lời tuyên bố mạnh mẽ nhất về chính  
sách của mỹ đối với các nước khỏc trờn thế giới trong cuộc chiến chống khủng bố.  
Từ góc độ này có thể khẳng định trọng tâm chiến lược đối ngoại của Mỹ trong  
   
tương lai ngắn đến trung hạn sẽ cuộc chiến chống khủng bố. Mục tiêu này sẽ chi  
phối và xác định những ưu tiên chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng vấn đề,  
khu vực đối tượng cụ thể. Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ thể hiện sự kế  
thừa, hơn là thay đổi mục tiêu cơ bản then chốt nhất trong chính sách an ninh, đối  
ngoại cuả Mỹ. Những mục tiêu cốt lỗi cho chính sách đối ngoại của Mỹ như duy trì  
vị trí cường quốc số một trên thế giới, thiết lập một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo.  
Ngăn chặn không để cho bất kỳ một cường quốc thù địch nào nổi lên đe doạ vị trí  
và vai trò của Mỹ, thúc đẩy một nền kinh tế mở toàn cầu , tự do hoá thương mại,  
dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới.  
Châu Âu tiếp tục một hướng chiến lược quan trọng hàng đầu của Mỹ bởi  
người Mỹ những lợi ích sống còn khu vực này, do đó Mỹ sẽ tiếp tục tăng  
cường can dự với Châu Âu , thúc đẩy quá trình NATO mở rộng, thúc đẩy cải cách  
kinh tế , chính trị ở Nga và các nước Đông Âu và SNG, lôi kéo các nước này vào  
một cơ cấu chính trị mới nhằm mục đích lâu dài là xây dựng một châu Âu không bị  
chia cắt, hoà bình và đõn chủ.  
So với Châu Âu, tình hình khu vực Châu Á còn nhiều yếu tố bất ổn định.  
Các vấn đề an ninh khu vực khả năng bùng nổ thành xung đột, chưa dấu hiệu  
được giải quyết. Trong các khu vực ở Châu Á chưa một cơ chế hợp tác an ninh  
hữu hiệu. Quan trọng hơn hết sự trỗi dậy của Trung Quốc khả năng của  
Trung Quốc đang thách thức đến các lợi ích của Mỹ ở khu vực, cũng như vị trí siêu  
cường duy nhất của Mỹ trên thế giới. vậy, trọng tâm chiến lược an ninh cảu Mỹ  
đang chuyển dịch về châu Á nhằm đối phó với những bất trắc trong môi trường an  
ninh khu vực châu Á Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch trọng tâm chiến lược đã  
bắt đầu manh nha từ cuối nhiệm kỳ của BillClinton và dưới chính quyền Bush, nó  
đó được tiếp tục thúc đẩy.  
2.2. Nội dung và những hướng chiến lược cơ bản  
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến chính quyền G.W.Bush hiện nay, trải  
qua nhiều đời tổng thống Mỹ, nước Mỹ đã nhiều lần thay đổi chiến lược lớn,  
chiến lược toàn cầu.  
Vào năm 1989 G.H.Bush (Bush cha) lên làm tổng thống thay thế cho Rigõn.  
Đứng trước sự thay đổi của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, G.H.Bush đã  
nêu ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn” nhằm mục tiêu tiến công toàn diện bằng  
diễn biến hoà bình làm sụp đổ Liờn Xụ, Đông Âu và các nước XHCN khác, tiến tới  
xây dựng trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo. Chiến lược này được thực hiện trong  
bốn năm (1989-1992) trong nhiệm kỳ của tổng thống G.H.Bush .  
Đầu năm 1993 Billclinton nhận chức tổng thống thứ 42 của nước Mỹ, sau  
nhiều lần điều chỉnh, bổ sung chính sách, đến năm 1995 Mỹ đã công bố chiến lược  
an ninh quốc gia cam kết (dính líu) và mở rộng. Chiến lựơc này vừa có tính chất kế  
thừa những ý tưởng của Busơ vừa điều chỉnh cho phù hợp thực tế nước Mỹ và tình  
hình thế giới biến chuyển phức tạp trong thập niên cuối thế kỉ 20. Chiến lược này  
nhằm mục tiêu: ra sức củng cố và phát huy sức mạnh mọi mặt của Mỹ ở trong  
nước cũng như trên thế giới, tập trung chấn hưng nền kinh tế Mỹ, bảo vệ an ninh  
và các lợi ích chiến lược của Mỹ, xây dựng trật tự thế giới ngăn chặn không để  
xuất hiện một đối thủ nào có khả năng tranh giành quyền chủ của Mtrong thời  
hậu chiến tranh lạnh đang còn những phức tạp Mỹ phải đối phó.  
cuối năm 1998 chính quyền Billcliton công bố bản “chiến lược an ninh quốc  
gia của Mỹ cho thế giới mới”. Đõy bước điều chỉnh chính sách đối ngoại mang  
tính chiến lược, đồng thời nền tảng định hướng chiến lược đối ngoại của Mỹ  
“chiến lược an ninh quốc gia cam kết mở rộng” điều chỉnh một số nội dung  
mới: sau khi G.W.Bush lên thay Billclinton lắm chính quyền ( 2001) về cơ bản  
chiến lược đối ngoại vẫn tiếp tục theo định hướng đã được xác lập dưới thời  
Billclinton. Tuy nhiên chính sách đối ngoại trong giai đoạn trước sự kiện ngày 11/9  
 
của chính quyền tổng thống G.W.Bush vẫn đang trong qua trình định hình và sẽ có  
những điều chỉnh mới cho phù hợp với bối cảnh quốc tế trong giai đoạn hiện nay.  
Những thách thức đối ngoại mà chính quyền G.W.Bush phải đối, mặt trải rộng từ  
Châu Âu qua Trung Đông sang Châu Á, các vấn đề trong quan hệ quốc tế với các  
cường quốc lớn như Mỹ -Nga; Mỹ- Trung Quốc và các đồng minh của Mỹ vẫn còn  
tiềm ẩn nhiều khó khăn phức tạp cũng như cựu tổng thống Billclinton, ông  
G.W.Bush theo chủ nghĩa quốc tế. Nước Mỹ sẽ tiếp tục can dự tích cực vào công  
việc quốc tế trọng tâm chiến lược của Mỹ vẫn là châu Âu, Trung Đông, Châu Á,  
đặc biệt tăng cường quan hệ với các đồng minh chủ chốt của Mỹ, ủng hộ việc  
triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa hạn chế trên mặt đất, trên biển và trên không.  
thể khẳng định rằng đảng dân chủ hay đảng cộng hoà lắm chính quyền  
cũng đều chủ trương một chính sách đối ngoại phục vụ mục tiêu chiến lược toàn  
cầu của Mỹ là lãnh đạo thế giới. Nội dung chiến lược toàn cầu mới của Mỹ hiện  
nay bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:  
- Thúc đẩy sự thịnh vượng ở nước Mỹ lấy đối ngoại phục vụ đối nội bảo  
đảm sức cạnh tranh cuả nền kinh tế Mỹ. chiến tranh lạnh đã làm cho nền kinh tế  
Mỹ yếu đi so với các nước khác như Nhật Bản, Đức… chi phớ quỏ tốn kém cho  
cuộc chạy đua trang, ngân sách quân sự chiến tranh khiến cho nền kinh tế Mỹ  
lâm vào suy thoái, tài chính thâm hụt, nợ nần quốc gia tăng lên, cán cân ngoại  
thương không cân bằng, các tệ nạn hội gia tăng. Sự khuyếch trương quá mức  
của G.W.Bush trên trường quốc tế càng làm cho nền kinh tế Mỹ phải chịu gánh  
nặng quá tải.  
- Sau khi thắng cử tổng thống Billclinton đã đặt ưu tiên cho nhiệm vụ vực  
dậy nền kinh tế Mỹ ụng núi “giỏi thì thế giới ngày nay, chính sách đối ngoại, chính  
sách đối nội có quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời nhau nếu thực hư bên  
trong của nước Mỹ không mạnh thì chúng ta không có cái nhìn để phát huy tác  
dụng lãnh đạo cống hiến to lớn với thế giới”. Nếu chúng ta thoái lưu ở các nơi  
trên thế giới, hội của chúng ta, sẽ bị tổn thất (Mỹ điều chỉnh lớn chiến lược toàn  
cầu của Thực Cốc, trang 31).  
- Chính quyền Mỹ hiện nay nhận thức lợi ích an ninh và kinh tế của Mỹ là  
không tách rời. Họ đã đang ra sức thực hiện phương hướng tăng cường cạnh  
tranh nền kinh tế, tăng cường thâm nhập thị trường nước ngoài, đảm bảo an ninh về  
năng lượng, giảm thâm hụt ngân sách, đầu tư vàog khoa học kĩ thuật, chuyển một  
phần kinh tế quân sự sang dân sự, cải thiện hệ thống thông tin, tăng cường giáo dục,  
đào tạo… nhờ vậy Mỹ đã cải tạo lên kinh tế một phần. Mỹ có tham vọng về kinh  
tế, dùng mô hình Mỹ để quy hoạch cục diện kinh tế thế giới.  
- Mở rộng nguồn khai thác tài nguyên và thị trường ra toàn thế giới để lợi  
cho Mỹ với vai trò lãnh đạo nền kinh tế toàn cầu và chi phối cả EU và Nhật Bản.  
ngày 18/1/1993 trong diễn văn nhận chức của tổng thống Billclinton nhấn mạnh  
(chính sách quan trọng hàng đấu là coi sự an toàn kinh tế cảu Mỹ mục tiêu chủ  
yếu của chính sách đối ngoại và tìm cách xác định thương mại toàn thế giới) (Mỹ  
thay đổi lớn chiến lược toàn cầu của Thực Cốc trang 43) về chính trị, Mỹ dùng  
quan điểm giá trị của mình để phổ biến và chi phối toàn thế giới. Từ trước tới nay  
Mỹ luôn kiêu hãnh với truyền thúng dân chủ nhân quyền tự do của mình, tôn thờ  
như thánh thần chế độ đa nguyên, đa đảng và tam quyền nhân lập và coi chế độ  
khác đều những thuyết xa lạ .  
2.3. Chủ trương chiến lược của Mỹ đối với thế giới hiện nay  
Chiến lược “cam kết mở rộng” của Mỹ với trụ cột như trên thực chất là  
mưu đồ quyền của Mỹ nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên toàn cầu.  
Chiến lược đó có tham vọng rất lớn khác hẳn với những tham vọng trước đây của  
Mỹ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ vươn lên lãnh đạo nước phương Tây,  
cùng với các nước đồng minh Tư Bản chủ nghĩa bao vây và tiến công Liờn Xụ và  
các nước XHCN, nay trong tình hình mới, Liên Xô tan rã, Mỹ không còn đối thủ,  
Mỹ đã trở thành đối thủ duy nhất, hy vọng vươn lên trở thành lãnh đạo toàn cầu  
 
với nhiều thủ đoạn biện pháp mới hòng .  
_Thâu tóm trong tay và chi phối tất cả các khu vực trên thế giới .  
_Tiếp tục tiến công nhằm xoá bỏ hết các nước XHCN còn lại .  
_Vừa liên kết với các đồng minh tư bản chủ nghĩa, vừa kiềm chế cạnh tranh  
với họ, ngăn cản không để Đức, Nhật Bản vươn lên ngang hang cũng như không để  
nước lớn nào trở thành đối thủ nguy hiểm đối với Mỹ. Mỹ muốn xây dựng một trật  
tự thế giới duy nhất một cực do Mỹ lãnh đạo, kiểm soát và khống chế toàn thế giới.  
Trong chiến lược “cam kết mở rộng” Mỹ đã nói ra tham vọng đó, Mỹ cho  
rằng “sự lãnh đạo của Mỹ đối với thế giới hiện nay là quan trọng cần thiết hơn  
bất thời kỳ nào trong quá khứ… nếu không có vai trò lãnh đạo và cam kết của  
Mỹ , thì những mối đe doạ sẽ phát triển thành u nhọt những cơ hội của Mỹ thu  
hẹp lại. Mỹ có vai trò lãnh đạo toàn cầu để tạo các quan hệ chính trị ổn định và  
thương mại mở cửa của Mỹ phải cường quốc kinh tế và quân sự đứng đầu thế  
giới. Chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu tố mất  
ổn định toàn cầu vì chính sách đối ngoại chủ quan, tự cho mình là nhất, tự mình áp  
đặt các điều kiện cũng như tiến hành phát động chiến tranh đối với bất cứ nước nào  
Mỹ muốn.  
2.4. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau sự kiện 11-9  
Sự kiện 11-9 tác động rất sâu sắc đến quan hệ quốc tế, làm tăng thêm những  
nhân tố phức tạp, khó lường trong nền an ninh thế giới. Khủng bố quốc tế trở thành  
mối đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới ổn định khu vực. Khủng bố  
chống khủng bố trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh chính trị, quân sự thế  
giới trong thế kỷ mới.  
Đây cũng bước ngoặt mới quan trọng trong quan hệ quốc tế bởi buộc  
Mỹ phải điều chỉnh chính sách để ứng phó với tình hình mới, xác định lại các quan  
hệ bạn thù, các tiêu chí tập hợp lực lượng cho phù hợp với thời cơ mới trên bàn cờ  
chiến lược quốc tế. Các quốc gia khỏc trờn thế giới cũng lợi dụng cơ hội này để để  
 
cải thiện quan hệ với Mỹ, ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố để mặc cả lợi cho  
quốc gia mình. Một liên minh chông khủng bdo Mỹ cầm đầu đã được hình thành.  
Các nước Tây Âu ủng hộ Mỹ để khẳng định lại quan hệ đồng minh chiến lược với  
Mỹ vốn đã bị sứt mẻ trong thời gian gần đây cũng nhân cơ hội này để mở rộng  
ảnh hưởng. Nhật Bản nhân cơ hội này sửa lại hiến pháp cho phép lực lượng phòng  
vệ của mình được đưa quân ra hoạt động ở nước ngoài với danh nghĩa lực lượng  
hoà bình của Liên Hợp Quốc, để tăng cường hiệp ước an ninh Mỹ -Nhật. Đối với  
Nga về lợi ích chiến lược sâu xa, ủng hộ Mỹ là góp phần tiêu diệt Taliban mạng  
lưới khủng bố An-ke-da. Đây những thế lực có móc lối với phiến quân Tresnia  
chống lại Nga.  
Thấy được tầm quan trọng của việc tập hợp lực lượng chống khủng bố,  
Mỹ thực hiện một số điều chỉnh chớnh sỏch đối ngoại, nhấn mạnh hơn khÝa cạnh  
hợp tác và lợi ích chung, tạm gác những bất đồng tranh chấp hình thành một “nền  
ngoại giao chống khủng bố” theo đó Mỹ lấy thái độ khủng bố làm sự kiện 11-9 và  
sự thay đổi mạnh mtrong chính sách đối ngoại của Mỹ sẽ vạch ra một đường phân  
giới mới trong nền chính trị quốc tế .  
Chiến dịch chống khủng bố cần sự ủng hộ phối hợp của nhiều nước vì  
vậy để tập hợp lực lượng, Mỹ đó những điều chỉnh nhất định. Tăng cường quan  
hệ với nhiều quốc gia theo hướng ổn định hợp tác vụ khủng bố 11- 9 đã dẫn tới  
việc xác định lại mối quan hệ giữa cường quốc số 1 của thế giới một số nước  
trong đó nước Châu Âu. Mối quan hệ giữa Mvà Châu Âu thể những thay  
đổi đáng kể do ảnh hưởng của sự kiện 11- 9. Một mặt cuộc chiến tranh Kasovo  
đã khẳng định với bộ tham mưu liên quân Mỹ rằng NATO có thể một trở ngại  
đối với các chiến dịch quân sự do Mỹ chỉ huy vì cơ chế kiểm soát đa phương tỷ mỷ  
của NATO đối với Mỹ. Mỹ thấy mình tự tiến hành một cuộc chiến tranh dưới chiêu  
bài liên quân quốc tế tự mình lựa chọn đồng minh cho mình trong các nước có  
thể có ích thực sự đối với mình, tốt hơn dựa vào bộ máy tập thể của NATO từ  
chỗ một tổ chức chính trị quân sự NATO đang dần trở thành một nguồn dự trữ  
các phương tiện cho các nước thành viên.  
Trước mắt, Mỹ kiềm chế đơn phương hành động lỗ lực xấy dựng một liên  
minh quốc tế chống khủng bố. Mỹ cải thiện quan hệ với một số nước trước đây đã  
từng có quan hệ căng thẳng để đổi lấy sự ủng hộ chống khgủng bố, Mỹ đó xoỏ bỏ  
trừng phạt đối với Pakixtan, Sudan, ẤN Độ cho Pakixtan, lôi kéo Pakixtan vào bàn  
cờ lực lượng của Mỹ. Đối với các nước Arập, Mỹ hiểu hơn ai hết chính sự ủng  
hộ quan trọng của Mỹ đối với Isreal đã biến nước Mỹ thành kẻ thù cảu cả thế giới  
Hồi Giáo. Vì vậy ngay sau sự kiện 11- 9 Mỹ đó những động thái tích cực đối với  
tiến trình hoà bình Trung Đông. Nói tóm lại Mỹ đang sẽ những bước điều  
chỉnh mạnh mẽ, về mặt an ninh và đối ngoại để tập trung sức cho cuộc chiến  
chống khủng bố.  
thể thấy, Mỹ đã những điều chỉnh chính sách đối ngoại quan trọng.  
Tuy nhiên, Mỹ sẽ khụng vỡ hợp tác quốc tế chống khủng bố mà hoàn thành thay  
đổi chiến lược hiện của mình. Tuy Mỹ tạm thời làm dịu mâu thuẫn với Nga,  
Trung Quốc thế giới thứ ba nhưng một khi cuộc đấu tranh chống khủng bố giành  
được tiến triển nhất định thì những bất đồng này sẽ trở thành mâu thuẫn lớn trong  
quan hệ quốc tế. Do đó những điều chỉnh chính sách nói trên mang tính chiến thuật  
hơn chiến lược.  
Đối với châu Á , ngoại trưởng Mỹ Colinpowell đã đưa ra tuyên bố hoàn  
chỉnh nhất về chính sách châu Á của chính quyền Bush và nhấn mạnh tầm quan  
trọng của các mối quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh Châu Á, thể hiện lập trường  
tích cực hơn đối với quan hệ Mỹ - Trung và cũng đặt ra những điều kiện cụ thể cho  
các cuộc đối thoại thể giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.  
Tầm quan trọng của các nước châu Á đối với Mỹ dựa trên các ưu tiên mới  
của Mỹ tập trung vào nỗ lực chống khủng bố. Dưới con mắt của chính phủ Bush,  
châu Á trở thành một mặt trận chống khủng bố, do đó Mỹ đã dần lỗ lực vào việc  
củng cố quan hệ tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực.  
Trong quan hệ với các nước châu Á, đặc biệt Đông Âu và Đông Nam Á,  
các yếu tố quyết định chính sách của Mỹ trước ngày 11- 9 là vấn đề an ninh, quyền  
lợi thương mại và các quan tâm nhân quyền. Nhưng bây giờ cuộc chiến chống  
khủng bố ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên Mỹ vẫn tiếp tục thảo luận về vấn đề nhân  
quyền với các giới lãnh đạo Châu Á.  
Tiếp tục chiến lược dựa vào đồng minh Châu Á vẫn trọng tâm trong  
chiến lược Đông Á của chính quyền G.W.Bush. Trong mối quan hệ ấy quân hệ  
đồng minh Mỹ - Nhật Bản đã được ông Powell đánh giá cao. Mối quan hệ này  
không chỉ đóng góp tích cực cho ổn định khu vực mà còn tạo khuôn khổ cho Nhật  
Bản đóng góp nhiều hơn vào bảo vệ nền quốc phòng của chính mình cũng như nền  
hoà bình và an ninh trên toàn thế giới. Như vậy Mỹ đang ủng hộ mong muốn và  
khuyến khích Nhật Bản đóng vai trò to lớn trong khu vực.  
Ông Powell cũng đánh giá cao nỗ lực của các đồng minh Châu Á – Thái  
Bình Dương khác như Oxtralia, Newdilon, Korea và Philippin trong cuộc chiến  
chống khủng bố. Tuy nhiên trong khi thừa nhận mối quan tâm của các nước Châu  
Á có đông người Hồi giỏo sinh sống sẽ nguy hiểm hơn nếu các nước này bỏ qua  
chủ nghĩa khủng bố để cho các lực lượng thiểu sè thao túng nền chính trị trong  
nước.  
Đặt điều kiện cho việc cải thiện quan hệ Mỹ và CHDCND Triều Tiên, Mỹ có  
thể duy trì chính sách là sắn sàng gặp CHDCND Triều Tiên vào bất cứ lúc nào và ở  
đâu và không có điều kiện tiên quyết, nhưng rõ ràng Mỹ đã đặt cho những tiến bộ  
thể có trong quan hệ hai nước.  
Mỹ yêu cầu chỉ rằng CHDCND Triều Tiên cần phải chấm dứt phổ biến  
khí và huỷ bỏ chương trình phát triển tên lửa tầm xa, phải nỗ lực hơn nữa trong  
việc bảo đảm cuộc sống của người dân kể cả việc cho phép người nước ngoài giám  
sát và tiếp cận… Điều này thể hiện lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với các  
cuộc thảo luận giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.  
Với Liên Bang Nga, Nga được hình thành là biểu hiện quan trọng của những  
thay đổi và liên kết trong quan hệ quốc tế. Cuộc chiến chống khủng bố là trung tâm  
của ngoại giao Mỹ khiến Mỹ phải những điều chỉnh nhất định trong quan hệ  
với Nga. Những điều chỉnh đó bao gồm việc lôi kéo Nga tham gia vào liên minh  
chống khủng bố của Mỹ. Đổi lại, Mỹ lập trường mềm dẻo hơn đối với Nga trên  
một số vấn đề như vấn đề Tresinia, tăng cường hợp tác kinh tế, cắt giảm vũ khí  
chiến lược… Thực chất là nhân nhượng để đánh đổi sự ủng hộ của Nga.  
Đối với Trung Quốc, hiện nay Mỹ đang tìm kiếm sự hợp tác trong các vấn đề  
quốc tế quan trọng và các vấn đề an ninh khu vực đề phòng Trung Quốc tiếng  
nói chống đối Mỹ. Trung Quốc sức mạnh kinh tế, quân sự ảnh hưởng lớn đến  
thế giới thứ ba. Điều này sẽ không có lợi cho lợi ích toàn cầu của Mỹ. Trung Quốc  
một trong năm nước lớn khí hạt nhân, là một trong số ít quốc gia trên thế  
giới khả năng gây ảnh hưởng đối với CHDCND Triều Tiên, Mianma và tham  
gia vào hầu hết các cuộc tranh chấp lãnh thổ đã từng xảy ra hoặc tiềm ẩn trong khu  
vực Đông Á.. Do đó Trung Quốc ảnh hưởng lớn đến hoà bình ổn định khu vực  
và có liên quan đến lợi ích của Mỹ. Sự hợp tác với Trung Quốc sẽ đảm bảo an ninh  
ổn định ở châu Á . Mặt khác thông qua việc mở rộng giao lưu hợp tác quân  
sự giữa hai nước Mỹ muốn tìm hiểu, lắm ý đồ thực lực của Trung Quốc đồng  
thời tìm cách ngăn cản Trung Quốc xuất khẩu vũ khí, đặc biệt là bán cho những  
nước bị Mcoi là thù địch với họ.  
Tóm lại từ sau sự kiện 11- 9 Mỹ đã bộc lộ một siêu cường đầy tham vọng,  
muốn nhanh chóng áp đặt sự thống trị “đơn cực” của Mỹ lên toàn thế giới, quốc  
gia khác, công dân Mỹ được đặc biệt miễn trừ.  
Quan điểm về vũ khí hạt nhân trong chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ  
cũng đã thay đổi cơ bản. Sử dụng vũ khí hạt nhân không còn là quân sự cuối cùng  
khi bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân, mà đã trở thành khí tiến công chiến thuật  
để đáp trả nguy cơ bị tấn công bằng các loại vũ khí khác như vũ khí sinh học và  
hoá học. Các tổ chức khủng bố cũng đã trở thành mục tiêu tấn công của Mỹ bằng  
khí hạt nhân. Chính sách hạt nhân mới cuả Mỹ đã đi ngược với những quy định  
cơ bản trong hiệp ước quốc tế về không phổ biến về vũ khí hạt nhân. Ngày 17-12-  
2002 tổng thống G.W.Bush còn tuyên bố bắt đầu triển khai các tên lửa đánh chặn  
đầu tiên trong hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia NMD vào năm 2004. Những  
thay đổi trong chiến lược an ninh của Mỹ trong năm 2002 đã tạo điều kiện cho  
đảng cộng hoà của tổng thống Mỹ Bush giành thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc hội  
giữa nhiệm kỳ. Vỡ đỏnh đỳng tâm lý của cử tri Mỹ “cần được bảo vệ bằng  
mọi giỏ” nhưng cũng chính quan điểm an ninh mới này theo đó đánh động quyền  
tự do bảo vệ với quyền tấn công nước khác, đồng thời đẩy mạnh an ninh và hoà  
bình thế giới tới gianh giới nguy hiểm nhất. Nhưng cái cớ Mỹ không ngớt rêu  
rao rằng : Iraq tích trữ vũ khí hủy diệt, đe doạ an ninh thế giới, rằng chính quyền  
S.Hussen cấu kết với các tổ chức khủng bố như Al-Queda đã không hề thuyết phục  
được hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc hầu hết 200 quốc gia trong cộng đồng  
quốc tế.Cuộc chiến tranh mà Mỹ đã tiến hành với Iraq nằm trong mục tiêu chiến  
lược đã được xác lập: Khẳng định quyền chủ thế giới không ai có thể cạnh tranh  
Mỹ đã làm, thiết lập trật tự tại Trung Đông theo sự sặp đặt của Mỹ, đồng thời là  
đòn răn đe đối với bất cứ quốc gia nào không tuân theo cây gậy chỉ huy của “ siêu  
cường”. Hiện nay, chi phí quân sự của Mỹ chiếm 40% ngân sách quân sự toàn thế  
giới. Chiến tranh Iraq dự kiến Mỹ đã tiêu phí hết hơn 100 tỉ USD.  
Theo các nguồn tin của Liên Hợp Quốc, các quan chức Mỹ và Liên Hợp  
Quốc hiện nay đều cho rằng Mỹ đang phá hoại chế độ giải trừ quân bị quốc tế  
thông qua việc trừ bỏ chế độ đa phương và theo đuổi chế độ đơn phương.  
Được cổ vũ bởi thắng lợi quân sự trong cuộc chiến Iraq, Mỹ đã công khai  
bác bỏ các quan năng lượng nguyên tử quốc tế TAEA và uỷ ban giám sát kiểm  
chứng và thanh tra của Liên Hợp Quốc (UNMOVIC) vốn quan hợp phát duy  
nhất của Liên Hợp Quốc quyền tuyên bố liệu Iraq có khí giết người hàng loạt  
hay không. Nhà trắng còn tuyên bố Mỹ chống lại việc thanh tra khí của Liên  
Hợp Quốc trở lại Iraq và khẳng định liên minh do Mỹ cầm đầu đảm nhiệm giải  
giáp khí của Iraq thay cho Liên Hợp Quốc.  
Khuynh hướng theo đuổi của chủ nghĩa đơn phương của Mỹ cũng thể hiện rõ  
trong cách xử sự của Mỹ đối với các vấn đề quốc tế. Mỹ đơn phương rút khỏi  
nghị định Kyoto” từ chối phê chuẩn Hiệp ước cấm thử hật nhân toàn cầu” từ  
chối tham gia đàm phán “ Nghi định thư công ước cấm vũ khí sinh học”.  
Không có bất cứ thay đổi nào mà cũn những phát triển mới. dụ : Bất  
chấp sự phản đối rộng rãi của cộng đồng quốc tế, chính phủ Bush tuyên bố rút khỏi  
Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” năm 1972, từ chối tham gia hội nghị thúc đẩy  
hiệu quả ‘hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện của Liên Hợp Quốc”.  
Học thuyết quân sự của Mỹ tự cho mình có quyền tấn công phủ đầu các nước  
khí giết người hàng loạt. Chính quyền G. W. Bush cũng núi công khai rằng  
Mỹ đang xem các kế hoạch phát triển các khí hạt nhân nhỏ và chính xác hơn có  
khả năng phá huỷ các hầm ngầm nằm sâu trong lòng đất. Bình luận về vấn đề này,  
nguyên cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Condonuza Rice nói rằng cách duy nhất đẻ  
răng đe “cỏc nước cứng đầu cứng cổ’.  
Không tuân theo chiếc gậy chỉ huy của Mỹ sử dụng vũ khí huỷ diệt với  
việc từ bỏ chế độ thanh sát khí của Liên Hợp Quốc .  
Chính quyền G.W Bush đã bỏ qua cơ chế an ninh tập thể đã sử dụng sức  
mạnh quân sự hùng mạnh của mình để tấn công các nước Mỹ cho là mối đe doạ  
tiềm tàng. Chiến tranh Iraq đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm mọi công thức sai  
lầm khi xử lý các thách thức chung của toàn cầu.Với việc tự cho mình tự xâm lược  
Iraq, Mỹ đã làm dấy lên lo ngại trong nước nước ngoài rằng: Mỹ đã tự coi mình  
đứng đầu trên pháp luật và các tiêu chuẩn và chi phối các quan hệ cả quốc tế  
cũng như các thế chế quốc tế.  
KẾT LUẬN  
Mỹ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại từ đa phương đến chủ nghĩa đơn  
phương cực quyền, điều này có thể thấy rõ trong bản thông điệp liên bang mà tổng  
thống Mỹ đọc ngày 21-2-2002 trước lượng viện quốc hội nhân dân thế giới đang  
phải đối mặt với chủ nghĩa đơn phương độc đoán kiểu Mỹ. Tự trao cho mình xứ  
mệnh lãnh đạo thế giới, Mỹ đã đang áp đặt các cách xử sự trong quan hệ quốc tế.  
Nhìn một cách toàn cục, Mỹ dang ép buộc thế giới hướng theo giá trị Mỹ, sống  
theo giá trị Mỹ. Nhờ ưu thế quân sự sức mạnh kinh tế vượt trội không ai có  
thể so sánh nổi trong lịch sử hiện tại, Mỹ đang tìm cách vẽ lại bản đồ thế giới, phá  
bỏ cấu trúc trật tự thế giới hiện hành. Việc Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại sau  
chiến tranh lạnh không phải điều mới mẻ, cái đáng nói là họ đã tận dụng khá  
tốt cơ hội vàng 11- 9để áp đặt mọi th“dõn chủ cưỡng bức” nên phần còn lại là  
của thế giới.  
Vệc điều chỉnh chính sách đối ngoại, điều chỉnh chiến lược của chính quyền  
G.W.Bush phải phản ánh địa vị, ưu thế siêu cường hiện nay của Mỹ phục vụ cho  
vic xây dng trt tmi do Mlãnh đạo. Nhưng trong quá trình thc hin kinh tế  
mi này đó gõy nhiu nh hưởng đến quan hchính trquc tế làm ny sinh nhiu  
xung đột và mâu thun mi, đe donghiêm trng đến an ninh và pháp lut cu quc  
tế. Chính sách và hot động y đã vp phi sphn kháng quyết lit không chtừ  
pha cc đối thmà ctphía không ít các đồng minh ca M.  
Hiện nay trên thế giới có xu thế mới nổi lên, đó là các nước đều lấy phát  
triển kinh tế làm trọng tâm, cần có môi trường hoà bình, ổn định hoà hoãn, hoà dịu  
trên thế giới. Các nước đều đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng xây  
dựng đối tác bạn bè, một xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, với sự ra đời lớn  
mạnh của các tổ chức liên minh quốc tế, các tổ chức khu vực… tất cả đều nhằm  
xây dựng và phát triển cho mỗi quốc gia thế kỷ 21, thế kỷ cảu hoà bình , phát triển  
hợp tác, phồn vinh.  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 21 trang yennguyen 31/03/2022 4860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docde_tai_muc_tieu_va_su_dieu_chinh_chinh_sach_doi_ngoai_cua_my.doc