Mấy bài học về phương pháp luận từ sự nghiệp của nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi
82
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
ĐẤT NƯỚC - NHÂN VẬT
MẤY BÀI HỌC VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TỪ SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN HÓA LỚN
NGUYỄN ĐỔNG CHI
Tô Ngọc Thanh*
Học giả Nguyễn Đổng Chi (1915-1984), một người con ưu tú của quê hương
xứ Nghệ. Xuất thân từ Chi Gia Trang và Mộng Thương thư trai nổi tiếng ở làng quê
Ích Hậu, huyện Can Lộc, (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) từ thế
kỷ XIX, là con và cháu của hai nhà duy tân yêu nước, được coi là cừu gia tử đệ đối
với Chế độ Bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Riêng ông, chỉ khởi sự học vấn từ Đệ tam
Trung học, thế mà với nỗ lực phi thường của bản thân, từ rất sớm đã thành danh
trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội của cả nước. Ngay đợt đầu của Giải thưởng Hồ
Chí Minh vào năm 1996 Nguyễn Đổng Chi đã được nhất trí phong tặng không cần
gia đình viết đơn, và Hội đồng Giải thưởng lúc bấy giờ còn trực thuộc Bộ Chính
trị đã cân nhắc, dành cho Hội Văn nghệ Dân gian chúng tôi được đứng tên làm địa
chỉ trực tiếp tiếp nhận giải thưởng danh giá này.
Nhưng không chỉ thế, tên tuổi ông gắn liền với những bộ sách tiêu biểu của
ông trước đó khá lâu đã gây được tiếng vang ra các nước, đầu tiên là Pháp rồi Nhật,
và với thời gian ngày một có ảnh hưởng sâu rộng trên trường quốc tế, từ 2011 được
ghi nhận trong công trình Bách khoa thư Flolklore thế giới (Enzyklopädie des
Märchens, Band 14 Lieferung 1) của nước Đức, đến năm 2016 lại được lưu tên và
đánh giá cao trong bộ Bách khoa thư Truyện cổ tích dân gian thế giới (Folktales
and Fairy Tales, Traditions and Texts From Around the World, Volume I) của Hoa
Kỳ. Đó là điều không mấy người có được, là một vinh dự cho ngành folklore học
Việt Nam và cũng là vinh dự cho quê hương Hà Tĩnh của ông.
Nói về hội thảo khoa học thì từ trước đến nay, chúng ta đã tổ chức 3 cuộc hội
thảo và Tọa đàm về Nguyễn Đổng Chi. Cuộc thứ nhất là hội thảo do Ủy ban Khoa
học Xã hội tức nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì nhân 80
năm ngày sinh học giả vào năm 1995, có đủ mặt các nhà khoa học đầu ngành tham
dự với nhiều bài nghiêm túc, trong đó có sự góp mặt của đại biểu Nghệ An và Hà
Tĩnh;(1) một hội thảo thứ hai nhân 100 năm ngày sinh tác giả do Hội Nghiên cứu và
Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh cùng với Tập đoàn Truyền thông Thanh niên
Việt Nam và Nxb Trẻ phối hợp chủ trì năm 2015 ở TP. Hồ Chí Minh, cũng là một
*
Nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
83
Tượng đài GS. Nguyễn Đổng Chi tại Trường THPT mang tên ông
tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Phạm Quang Ái.
hội thảo rất sáng giá với sự tham gia của giới nghiên cứu chuyên ngành hầu như
khắp cả nước.(2) Giữa hai hội thảo đó là một cuộc tọa đàm do Chi hội Văn nghệ Dân
gian TP. Hồ Chí Minh tổ chức nhân 20 năm mất tác giả vào năm 2004,(3) trong đó
có bài hồi ký đặc sắc của GS. Hoàng Như Mai(4) mà nhiều người còn nhớ đến nay.
Và gần đây nhất (tháng 3/2019), Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh đã tổ chức
Tọa đàm nhân kỷ niệm 35 năm năm mất Nguyễn Đổng Chi và Lễ Khánh thành
tượng đài GS. Nguyễn Đổng Chi tại Trường THPT mang tên ông (trường đóng tại
xã Ích Hậu, quê ông).(5) Ban tổ chức cuộc tọa đàm đã mời Hội Văn nghệ Dân gian
Trung ương về tham dự và góp phần chủ trì. Tôi nghĩ đây là một bước tiếp nối cần
thiết, trước hết là đúng với nghĩa tình của quê hương đối với vị Giáo sư sinh ra và
lớn lên từ mảnh đất này, theo đúng cái đạo lý mà luận ở phía nào cũng đúng: uống
nước nhớ nguồn. Những cuộc hội thảo và tọa đàm đó đã lật xới nhiều vấn đề của
rất nhiều ngành nhiều giới, nhằm đi đến những đúc kết rõ ràng về thành tựu vững
chắc của nhà khoa học Nguyễn Đổng Chi trên nhiều bình diện mà ông đã đóng
góp cho nền học thuật nước nhà. Năm nay, nhân kỷ niệm 105 năm năm sinh cố học
giả Nguyễn Đổng Chi (1915-2020), bằng tri thức hạn hẹp của mình, qua tìm hiểu
thành tựu của các cuộc hội thảo, tọa đàm nói trên cũng như toàn bộ sự nghiệp hoạt
động khoa học của cố học giả, tôi xin nêu lên một vài suy ngẫm của bản thân về
những bài học có ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ con người đa dạng này, nhằm
hướng tới việc phát huy những giá trị truyền thống trong công cuộc xây dựng và
giữ gìn tinh hoa đất nước.
84
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
1. Điều đầu tiên là sự định danh đối tượng nghiên cứu của chúng ta. Tiêu đề
Hội thảo 100 năm ngày sinh (năm 2015) gọi Nguyễn Đổng Chi là “Học giả - nhà
văn”. Đúng là có cả hai phương diện ấy, nhưng đó mới là nêu lên hai phương diện
để các nhà nghiên cứu từ đó đào sâu – một cách định lượng chứ chưa định tính.
Còn tiêu đề Hội thảo 80 năm ngày sinh (năm 1995) thì gọi Nguyễn Đổng Chi là
“người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc”. Tiêu đề này rất hay. Dù sao
đấy cũng chỉ mới là nhấn mạnh được mặt “miệt mài tìm kiếm”, còn miệt mài mà
có tìm ra cái gì hay không thì đọc xong tiêu đề vẫn cứ còn là câu hỏi. Trong các
tham luận có tham luận của GS. Phong Lê(6) gọi Nguyễn Đổng Chi là “nhà văn hóa
lớn xứ Nghệ thuộc một thế hệ vàng” trong lịch sử thế kỷ XX. Xác định ở Nguyễn
Đổng Chi tư cách nhà văn hóa có lẽ có ý nghĩa khái quát hơn cách gọi “học giả -
nhà văn”, vì học giả và nhà văn là sự cụ thể hóa chức nghiệp cầm bút của Nguyễn
Đổng Chi nhưng lại chưa nói được tầm thước của ông. Phải đặt ông trong phạm
trù “nhà văn hóa” thì mới chính xác, và thêm cho ông một hình dung từ “lớn” vào
danh hiệu “nhà văn hóa” lại càng chính xác. Rất nhiều người trong các tham luận
trước đây gọi ông là “nhà văn hóa nổi tiếng”, “học giả nổi tiếng” cũng là những
danh xưng tương tự, nhưng nổi tiếng thì có nhiều thứ nổi tiếng, nên thiết tưởng bản
thân chữ “lớn” cũng bao hàm trong đó chữ “nổi tiếng” rồi. Còn nói ông là “nhà
văn hóa lớn xứ Nghệ” thì với tư cách những người con xứ Nghệ, chắc nhiều người
xứ Nghệ rất đồng tình. Nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn
Hợp cách đây 23 năm cũng đã trân trọng định danh ông như thế.(7) Tuy nhiên, đó
chỉ là nhằm nói rõ xuất thân sinh quán của Nguyễn Đổng Chi, còn những giá trị
trong các công trình của ông thì đã vượt ra khỏi phạm vi xứ Nghệ từ lâu, trở thành
sản phẩm của cả nước ngay khi mới xuất hiện; như Việt Nam cổ văn học sử năm
1942, được cả học giới Bắc và Nam cùng nhau bàn luận; như Lược khảo về thần
thoại Việt Nam đã vượt vĩ tuyến 17 vào Nam từ năm 1956, được (hay bị) một vài
học giả miền Nam “sao chép” toàn bộ khiến văn đàn miền Nam thuở ấy nổi lên
nhiều luồng phê phán. Và như đã nói trên, không phải chỉ trong phạm vi đất nước
mà thôi. Tên tuổi Nguyễn Đổng Chi còn đi ra khỏi biên giới Việt Nam rất sớm, từ
1964, TS. Maurice Durand(8) và TS. Lê Văn Hảo(9) đã cùng lúc bình luận về Tập I
và Tập II Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam trên tờ tập san Trường Viễn Đông Bác
cổ (Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient) ở Paris. Năm 1975, Thích
Như Điển đã trích dịch Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam ra tiếng Nhật. Và gần
đây thôi, như TS. Ôn Thị Mỹ Linh(10) cho biết, năm 2011 GS.TS. Jörg Engelbert
người Đức, còn dẫn giải tác phẩm trên trong bộ Bách khoa thư Folklore thế giới
(Enzyklopädie des Märchens), coi Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam là một “bộ
sách cổ tích phong phú nhất và hệ thống nhất của người Việt từ trước tới nay, với
200 truyện chính và hơn 1.000 dị bản”. Rồi vài năm sau đó thì các học giả đầu
ngành của Folklore học Hoa Kỳ đã mời Ôn Thị Mỹ Linh bấy giờ đang làm luận án
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
85
Tiến sĩ tại Đức, đưa tên tuổi Nguyễn Đổng Chi vào bộ Truyện cổ tích dân gian thế
giới (Folktales and Fairy Tales) do Hoa Kỳ in năm 2016 – và người Việt Nam có
mặt trong đó cũng chỉ có mỗi mình ông. Vậy thì, ta hãy thử soi sáng thêm để xem
trong các công trình của Nguyễn Đổng Chi, mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế
diễn ra như thế nào về mặt lý thuyết. Ông tiếp thu lý thuyết bên ngoài đến đâu và
ông đã khổ công nghiền ngẫm sáng tạo đến đâu để xây dựng nên những sản phẩm
đặc thù, vừa theo kịp các lý thuyết tiên tiến mà lại không phải là giáo điều khô
cứng, vẫn mang đậm sắc thái dân tộc và phong cách sáng tạo của riêng mình, để
được khoa học thế giới công nhận. Đó là một vấn đề lý thú và chúng ta có thể từ
nhiều mặt, nhiều góc độ mà soi tỏ.
2. Đi sâu vào nội hàm của khái niệm nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi, đúng
như nhiều tham luận trở về trước đã đề cập, có thể khẳng định ông là một con
người đa tài và uyên súc, với nhiều mặt sự nghiệp trước tác tuy chấm dứt ở thế
kỷ XX nhưng vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh đến hôm nay: a. Vừa đi sâu khảo sát
dân tộc học cùng với người anh là BS Nguyễn Kinh Chi(11) để có tác phẩm Mọi
Kontum từ năm mới 18 tuổi, mà như TS. Andrew Hardy(12) viết trong “Dẫn luận”
cuốn sách được dịch ra tiếng Pháp và in song ngữ năm 2011, đây là công trình dân
tộc học “đạt chất lượng cao nhất”, về phương pháp và sự tinh tế còn đứng trên cả
một số công trình cùng đề tài của các nhà dân tộc học người Pháp đương thời như
Dourisboure; hay nói như nhà văn Nguyên Ngọc,(13) “hai tác giả ‘tài tử’ nhưng cực
kỳ tài năng” này, trên nhiều vấn đề mà họ khảo sát “đã đi trước [các nhà dân tộc
học Pháp] đến hơn nửa thế kỷ”. b. Vừa gắn mình với sử học để có bản thảo Đào
Duy Từ được giải thưởng Alexandre de Rhodes năm 1943 do học giả Nguyễn Văn
Tố làm Chủ tịch Ban chấm giải; sau này lại có bộ Lịch sử phong trào nông dân thời
Trung đại, 2 quyển hiện chưa in mà Quyển I được GS. Trần Huy Liệu duyệt thông
qua từ năm 1968; và quan trọng hơn là quyển sách lý luận Góp phần tìm hiểu lịch
sử đấu tranh của nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến được Viện sĩ Nguyễn
Khánh Toàn duyệt và đề tựa từ năm 1978. c. Vừa là nhà khảo cổ học có công đầu
trong việc phát hiện di chỉ sơ kỳ đồ đá cũ Núi Đọ năm 1960, khiến Việt Nam bắt
đầu được thế giới biết đến như một trong những cái nôi của loài người. d. Vừa là,
và nhất là nhà Folklore học, hay nói như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số đặc
san kỷ niệm Nguyễn Đổng Chi năm 2015, là “nhà cổ tích học lừng danh”, với hàng
loạt công trình, nếu không kể Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam 5 tập là bộ sách
quá nổi tiếng mà PGS. Trần Hữu Tá,(14) PGS. Chu Xuân Diên,(15) PGS. Nguyễn Thị
Huế(16) và TS. Hồ Quốc Hùng(17) đều coi là sánh ngang với các bộ Truyện cổ tích
Grimm, Truyện cổ tích Pourra, Truyện cổ tích Andersen, Truyện cổ tích Perrault,
Truyện cổ tích Anafasyev, thì vẫn còn rất nhiều công trình khác để lại ký ức không
thể quên trong bạn đọc, như Hát giặm Nghệ-Tĩnh 3 tập, tập đầu tiên được xuất bản
86
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
từ năm 1944 chưa được tác giả coi là hoàn thiện, sau này ông sẽ viết lại năm 1963,
vậy mà ngay từ sơ bản đã biết để ý đến thủ tục hát, giọng điệu hát và cá tính, bản
sắc của từng khuôn mặt nghệ nhân, tức là biết nghiên cứu Folklore như một loại
hình tổng hợp chứ không chỉ có văn chương. Hay như bộ Địa chí Văn hóa dân gian
Nghệ-Tĩnh, rất công phu, với nhiều kiến giải thâm sâu phi ông ra khó còn ai hiểu
được về những loại hình văn hóa cổ truyền xứ Nghệ mà ThS. Phạm Quang Ái(18)
đã nêu ra nhiều dẫn chứng rất đắt, coi ông mới thực mở đường cho chuyên ngành
“Nghệ học” (Nghệ là xứ Nghệ). Ở đây, mỗi nhà nghiên cứu chúng ta có điều kiện
trình bày một phương diện thành tựu của con người thuộc thế hệ có thể nói cái gì
cũng am tường đến tận gốc đó, chứ không ai có thể nói hết mọi mặt kiến văn đã
được hiện diện qua sách vở của Nguyễn Đổng Chi. Tuy vậy, ta có thể nhân dịp này
cùng nhau tìm hiểu xem, cái gì là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả những công trình của
nhà học giả, nó tạo nên những đặc điểm khó lẫn lộn với bất kỳ ai. Cái đó trước hết
không phải là lập trường tư tưởng, tính đảng, tính giai cấp... như thế tục vẫn hay
đem ra làm tiêu chuẩn để đánh giá vào một thời cũng chưa phải xa. Cái gì đó phải
chăng là một phương pháp hiện đại lồng trong một nhãn quan tiên tiến, tạo nên sự
thống nhất về đặc điểm cấu trúc, về quan điểm nhận định, về cách nhìn nhận nhuần
nhuyễn của phần lớn các công trình của ông và nó làm thành từ sớm phong cách
khoa học Nguyễn Đổng Chi? Tìm được cái đó theo tôi, chính là tìm được chìa khóa
then chốt để giải mã bí ẩn của một tài năng.
3. Như vậy, nói Nguyễn Đổng Chi là nhà văn hóa uyên bác là nói cái tầm kiến
thức của một khoa học gia đích thực, đã đi vào lĩnh vực nào là đem hết tâm lực đào
sâu đến nơi đến chốn để đạt được những thành quả cụ thể, có đóng góp thực sự cho
ngành khoa học ấy, cắm được một cái mốc nào đó, chứ không phải uyên bác theo
kiểu trình ra những lý thuyết suông. Tiếp nối hai đề dẫn ở trên, tôi muốn nhắc đến ý
kiến của TS. Hồ Quốc Hùng trong Hội thảo Khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh
học giả-nhà văn Nguyễn Đổng Chi – anh cho rằng nhờ thông thạo Pháp ngữ và
Hán ngữ cổ, Nguyễn Đổng Chi là người đọc rộng và tiếp cận sớm các hệ lý thuyết
của nhiều trường phái nước ngoài, nhưng ông không vội sử dụng lý thuyết chay để
quy nạp những vấn đề khoa học xã hội cụ thể được đặt ra từ trên mảnh đất đặc thù
mà ông sinh trưởng. Kể từ ngày viết Mọi Kontum ông đã biết lấy khảo sát điền dã
làm phương châm nền tảng. Đối tượng kiếm tìm của ông là nhiều loại hình văn hóa
luôn luôn biến động phức hợp, đan cài ở ngay giữa đời sống. Lúc này rồi lúc khác,
ông trở đi trở lại theo dõi sự chuyển động của các hiện tượng văn hóa ấy để tìm cho
ra quy luật phát triển, sự va động và kết hợp đa dạng của chúng, kể cả sự suy tàn
của chúng, biểu hiện của những hình thái tư duy dân gian đang vận động. Và sau
khi sưu tập lại, đối chiếu, so sánh cẩn trọng, nhà học giả mới đề xuất những kiến
giải riêng có của mình. Những quan điểm lý thuyết của ông, tuy ở nhiều bộ môn
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
87
như dân tộc học, hay cổ văn học sử, vốn xuất khởi từ cách đây hơn 70 năm, đến
nay vẫn mang tính dự báo và tính hiện đại, và điều rất lạ là có nhiều luận điểm khá
tương hợp với các trường phái lý thuyết hiện đại trên thế giới, tuy ông không bắt
chước họ. Về cách diễn đạt thì bao giờ lý thuyết của ông cũng mềm dẻo, uẩn súc,
ít khi phô bày những thuật ngữ tân kỳ cốt để kích thích những ai háo hức cái mới,
nói như GS. Nguyễn Xuân Kính(19) là Nguyễn Đổng Chi “không biết làm hàng”.
Đây cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá cho các nhà lý thuyết thuộc thế hệ
trẻ sau này. Chúng ta có thể đi sâu thêm vào những ý kiến mà tôi đang dẫn lại để
tiến tới xác định với nhau ở đây, bên cạnh mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế thì
mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa điền dã và tổng kết rồi từ đúc kết lại
đem soi vào điền dã, ở Nguyễn Đổng Chi đã diễn ra theo một chu trình nhịp nhàng
như thế nào và khác người như thế nào để dẫn đến sự hoàn thiện của một Nguyễn
Đổng Chi nhà khoa học mà tính đến nay, người cùng thời với ông ít người có thể
so sánh. Đây cũng là một yếu tố quyết định thành công đột xuất của nhà học giả có
thể giúp thế hệ sau học được nhiều điều bổ ích.
4. Một điều tưởng như mâu thuẫn là về thành tựu thì nổi bật như trên, con
người học giả Nguyễn Đổng Chi là người đầy ắp những kiến văn sâu rộng, nhưng
như đã nói, xuất phát điểm học vấn của ông lại không phải cao. Ông học hết Đệ
tam Trung học năm 1938, nhưng không thi Diplôme. PGS. Trần Hữu Tá xếp ông
vào thế hệ tự học, lớp những Nguyễn Văn Vĩnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Tố,
Trương Tửu,... nhờ tự học mà làm nên sự nghiệp. Đúng là như vậy. Nhưng cũng vì
vậy mà việc tự học thành công của các ông hẳn là những tấm gương sáng để nhiều
học giả chúng ta hôm nay nhìn vào mà phấn đấu. Nói riêng Nguyễn Đổng Chi, sau
khi thôi học ông đã nỗ lực suốt mấy năm dùi mài đọc sách đông tây kim cổ trong
thư viện gia đình, nỗ lực học thêm chữ Hán với người chú họ, đến mức đang tuổi
thanh niên đã cạo trọc đầu để tóc trái đào để khỏi phải rong chơi, nhằm dốc lòng
đèn sách. Thử hỏi ngày nay mấy người có thể làm được như thế? Và từ nỗ lực một
cách khác người, đến mức vừa học chữ Hán vừa ngày đêm không rời quyển sách,
chỉ trong vòng có mấy năm ông đã cho ra mắt liên tiếp nhiều công trình, ở những
mức độ khác nhau, đều là loại công trình làm dậy sóng văn đàn; nào Việt Nam cổ
văn học sử công bố năm 1942, được cả hai học giả tầm cỡ Nguyễn Văn Tố và Đặng
Thai Mai cùng viết bài phê bình; nào Đào Duy Từ đoạt giải thưởng danh giá năm
1943; rồi Hát dặm Nghệ Tĩnh xuất bản năm 1944 làm cho người xứ Nghệ thuở
ấy mừng vui vì không ngờ một thể loại hát vốn vẫn bị coi là tiếng hát nôm na nay
bỗng nhiên lại được một nhà nghiên cứu đem ra trình làng, đặt một cách nghiêm
túc lên bàn cân học thuật; rồi tiếp đấy ông lại có thêm cuốn sách dịch chung Thoái
thực ký văn dịch của một nhà văn xứ Nghệ thuở trước là Trương Quốc Dụng, công
bố năm 1944. Trong khi đó, không phải bó mình mãi trong thư phòng mà Nguyễn
88
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
Đổng Chi còn làm nhiều việc xen kẽ, như ra Hà Nội đọc sách ở Trường Viễn Đông
Bác cổ gần suốt cả năm 1942, lại tham gia Việt Minh và xây dựng Đoàn Thanh niên
Cứu quốc và Đội Vũ trang khởi nghĩa ở huyện nhà năm 1943, trốn tránh vào Huế
khi phong trào bị đàn áp năm 1944, và trở về làm Thủ lĩnh thanh niên Phan Anh và
phục hưng Đội Vũ trang khởi nghĩa năm 1945 để chỉ huy giành chính quyền Can
Lộc thành công ngày 15, nay theo lịch mới là ngày 16/8/1945, một ngày sớm nhất
trong toàn quốc. Không có một nghị lực phi thường, nhà văn hóa Nguyễn Đổng
Chi khó lòng hoàn thành một núi công việc trong vòng dăm năm như vậy. Tuy đây
không phải là một vấn đề học thuật để trao đổi nhưng thiết nghĩ, khi chúng ta bàn
luận đến các vấn đề học thuật của nhà văn hóa, cũng nên đặt trong tương quan với
“con người hành động” Nguyễn Đổng Chi mà soi nhìn. Có thể biết đâu sẽ tìm thấy
trong những phát kiến khoa học của nhà học giả có thêm nhiều mặt ý nghĩa mới.
5. Do đâu mà Nguyễn Đổng Chi có được những thành tựu được nhiều nhà
khoa học dùng chữ “để đời” để đánh giá? Cuốn Mọi Kontum sở dĩ ngày nay còn
được biết tới, được giới dân tộc học nhìn nhận như một “mẫu mực đi đầu”, vì như
TS. A. Hardy nói, hai tác giả không viết chuyện “phiêu lưu đường rừng”, cũng
không kể những chuyện ly kỳ về “người Mọi” mà thuở bấy giờ người Việt nói
chung đang đầy thành kiến và tò mò muốn biết. Các ông chỉ duy nhất muốn làm
sáng tỏ dân tộc Bahnar vốn có một nền văn minh rất đáng coi trọng: “Tục lệ của họ
chẳng những không mọi rợ chút nào mà trái lại có nhiều điều còn thuần túy hơn ta
nữa kia”. Nghĩa là, cái làm nên hồn cốt của cuốn sách là tinh thần nhân văn trong
sáng trong thẳm sâu tư tưởng của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi. Cũng
vậy, vốn sẵn ấp ủ một tình yêu sâu nặng đối với làng thôn Việt Nam và người nông
dân nghèo khổ quanh năm đầu tắt mặt tối trên ruộng đồng, nên như nhiều tham
luận của các PGS. Nguyễn Thị Thanh Xuân,(20) Nguyễn Thành Thi,(21) Phạm Xuân
Nguyên(22) và những người khác, Nguyễn Đổng Chi đã viết phóng sự Túp lều nát
phơi bày chế độ cường hào ở Nghệ-Tĩnh còn sớm hơn và sử dụng một nghệ thuật
“lộn trái sự thật bằng trào phúng và tiếng nhà quê - phương ngữ” trực diện hơn
cả những phóng sự cùng đề tài của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao.
Có thể nói bất kỳ công trình khoa học nào hay sáng tác văn học nào của Nguyễn
Đổng Chi cũng là để gửi gắm tấm lòng yêu nước, thương dân, tinh thần dân tộc
và chủ nghĩa nhân đạo vốn bắt nguồn từ truyền thống gia đình ông. Những nền
tảng ăn sâu bén rễ này mới làm nên giá trị khoa học hay giá trị thẩm mỹ trong tác
phẩm của ông. Vậy nên trong con người Nguyễn Đổng Chi, ta không thể tách rời
nhà yêu nước với nhà văn hóa, nhà văn. Sự thành công trong sự nghiệp to lớn của
ông do nghị lực phi thường của chính ông, và cũng do chính sự bén nhạy với vận
mệnh dân tộc trong ông thúc đẩy. Rất dễ hiểu nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi
sớm bắt gặp cách mạng và trở thành một người cách mạng từ năm 1939. Rất dễ
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
89
hiểu khi ra công tác ở Hà Nội năm 1946, gặp lúc chiến sự nổ ra, ông đã không quay
lui về khu IV mà hăng hái tham gia Đội tự vệ Bùi Quang Trinh để chiến đấu với
giặc trong gần 3 tháng. Và cuộc chiến đấu này lại dẫn đến thành quả không nhỏ là
cuốn truyện vừa Gặp lại một người bạn nhỏ hoàn thành năm 1949 và được in năm
1957, một cuốn sách “không rơi vào cường điệu hay cứng nhắc” mà “ít nhiều giữ
được sự ‘phóng túng’”, ở chỗ “nỗi sợ niềm vui, cái bạo cái hèn, cái được cái mất,
chuyện tục chuyện đùa, chuyện nghiêm trang, kể cả những khoảnh khắc hư vô
buồn nản trước cảnh chết chóc chia ly [trong cuộc chiến đấu thuở đó]… đều biết
nói ra một cách hồn hậu”, “và với độ lùi của thời gian, điều đó trở thành một điểm
mạnh” (Trần Lê Văn).(23) Đây cũng là một tấm gương khả ái để thế hệ học giả nhà
văn ngày nay soi vào.
Trở lên là 5 vấn đề và cũng là 5 bài học lớn mà bản thân tôi học được ở một
bậc thức giả lớn, càng nghiền ngẫm càng thấy chúng gắn quyện dằng dịt với nhau,
nói vấn đề này mà không chú ý đến vấn đề kia như một hệ quả hay một nguyên
nhân, chúng tạo nên một học giả Nguyễn Đổng Chi như ta biết, thì đều là phiến
diện. Đấy là những suy ngẫm của riêng tôi, có thể đúng và cũng có thể sai, nhưng
đúng hay sai đều xuất phát từ ý nghĩ chân thành mà tôi muốn dùng làm một nén
hương lòng dâng lên nhà học giả tiền bối nhân kỷ niệm lần thứ 105 ngày sinh của
ông, một nhà văn hóa mà càng tìm hiểu tôi càng thấy tầm vóc rất lớn, một con
người suốt đời khiêm tốn, xuất thân xứ Nghệ và là niềm tự hào trước tiên cho nhân
dân Nghệ-Tĩnh, nhưng cũng là niềm tự hào cho văn hóa văn nghệ của đất nước
chúng ta, một con người luôn hành động theo ánh sáng của lương tri và không hề
biết mệt mỏi khi đứng trước một quả núi sắp phải trèo lên, cũng không chịu dừng
lại khi đã vượt qua một cái mốc mà mình vừa đạt được.
T N T
CHÚ THÍCH
(1) Tên gọi chính thức là Hội thảo Khoa học kỷ niệm 80 năm ngày sinh GS. Nguyễn Đổng Chi
(1915-1995), được tổ chức tại Hà Nội đúng vào ngày sinh tác giả 06/01/1995, do Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội) đứng ra tổ chức, dưới sự
chủ trì của Chủ nhiệm GS. Nguyễn Duy Quý, với sự phối hợp của Hội Văn nghệ Dân gian
Việt Nam và các Viện trực thuộc UBKHXH như Viện Văn hóa Dân gian, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, Viện Sử học, Viện Văn học, có sự tham gia của các đại biểu Hội Khoa học Lịch
sử, Bộ Văn hóa, Bộ Giáo dục, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An cùng đông đảo các nhà
nghiên cứu và giảng dạy văn học ở các viện và trường đại học.
(2) Tên gọi chính thức là Hội thảo Khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh học giả-nhà văn
Nguyễn Đổng Chi (1915-2015), được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào ngày 7/5/2015, do
Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Tập đoàn Truyền thông
Thanh niên và Nhà xuất bản Trẻ cùng đứng ra tổ chức, dưới sự chủ trì của PGS.TS. Trần
Hữu Tá cùng các ông Lê Công Khế, Nguyễn Minh Nhựt, có sự tham gia của lãnh đạo các
90
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
Viện Văn hóa, Viện Văn học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, Hội Văn nghệ Dân
gian Việt Nam và rất nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học trên cả nước.
(3) Tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào tối ngày 28/4/2004, do Chi hội Văn nghệ Dân gian TP. Hồ
Chí Minh và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh đồng chủ trì.
(4) Hoàng Như Mai (1919-2013): Giáo sư, xuất thân Đại học Y khoa và Đại học Luật khóa trước
1945, trong Kháng chiến chống Pháp làm Hiệu trưởng nhiều trường trung học ở Chiến khu
Việt Bắc. Sau hòa bình lập lại 1954 dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
rồi sau 1975 chuyển vào dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
kiêm Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.
(5) Tổ chức tại TP. Hà Tĩnh vào ngày 23/3/2019, do Chi hội Văn nghệ Dân gian TP. Hà Tĩnh
phối hợp với Hội Văn nghệ Dân gian Trung ương, dưới sự chủ trì của GS.TSKH. Tô Ngọc
Thanh, Chủ tịch Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh, Phan Thư Hiền và ThS. Phạm Quang
Ái. Trước đó một ngày là Lễ Khánh thành tượng đài Nguyễn Đổng Chi tại Trường Phổ thông
Trung học mang tên ông tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh.
(6) Nguyên Viện trưởng Viện Văn học, trực thuộc UBKHXH Việt Nam.
(7) Phát biểu tại Hội thảo Khoa học kỷ niệm 80 năm ngày sinh GS. Nguyễn Đổng Chi (06/01/1995).
(8) Nguyên Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội. Sau ngày chuyển giao cơ quan
này cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1957, ông trở về Pháp vẫn làm việc
tại tổ chức này ở Paris cho đến khi mất.
(9) Nguyên Giáo sư Viện Đại học Huế. Sau tham gia Mặt trận Giải phóng miền Nam và lên
chiến khu năm 1968 rồi ra Bắc nhận chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Sau hòa bình năm 1975
sang Pháp sinh sống.
(10) Hiện là Giảng viên Ngành Folklore học tại Đại học Thái Nguyên.
(11) Sau 1945 là Đại biểu Quốc hội 4 khóa từ 1946-1975 và Thứ trưởng Bộ Y tế Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa thời Kháng chiến chống Pháp.
(12) Nguyên Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội.
(13) Nhà văn cách mạng và nhà văn hóa Việt Nam.
(14) Nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh kiêm Chủ
tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.
(15) Nguyên giảng dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ
Chí Minh.
(16) Nguyên Nghiên cứu viên cao cấp Ban Văn hóa Dân gian Viện Văn học.
(17) Nguyên Giảng viên Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
(18) Phó TBT Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh kiêm Phó Chủ tịch Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh.
(19) Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
(20) Nguyên giảng dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ
Chí Minh.
(21) Nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
(22) Nhà phê bình, nguyên Nghiên cứu viên Viện Văn học, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
(23) Nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng Nhà nước, tên
thật là Trần Văn Lễ (1923-2005). Trích Lời giới thiệu Gặp lại một người bạn nhỏ viết tháng
12/1998, bản in lần thứ năm, Nxb Trẻ, tr. 20.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020
91
TÓM TẮT
Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, một người con ưu tú của quê hương xứ Nghệ. Ông là một học
giả có tên tuổi lớn của nền học thuật Việt Nam trong thế kỷ XX. Ở lãnh vực nào ông cũng để lại
những dấu ấn xuất sắc, những thành quả ấy đã được học giới Việt Nam trân trọng, ghi nhận, tiếp
thu và tiếp tục phát triển qua các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học cũng như nhiều công trình biên
khảo chuyên ngành thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn. Những đóng góp của ông là tấm
gương và niềm tự hào cho nhiều thế hệ Việt Nam noi theo.
Nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố học giả Nguyễn Đổng Chi (1915 - 2020), qua tìm hiểu
toàn bộ sự nghiệp hoạt động khoa học của cố học giả, tác giả nêu lên một vài suy ngẫm về những
bài học có ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nhà văn hóa lớn này, nhằm hướng tới việc phát
huy những giá trị truyền thống trong công cuộc xây dựng và giữ gìn tinh hoa đất nước.
ABSTRACT
SOME LESSONS ON METHODOLOGY
FROM CAREER OF GREAT WRITER NGUYỄN ĐỔNG CHI
Professor Nguyễn Đổng Chi, an excellent son from the Nghệ homeland. He is a famous
scholar of Vietnamese scholarship in the XXth century. In every field, he left excellent works, these
achievements have been appreciated, acknowledged, absorbed and continued to develop by
Vietnamese students through scientific seminars and as well as many specialized archaeological
works in the field of Social Sciences and Humanities. His contributions are an example and pride
for many Vietnamese generations to follow.
On the 105th anniversary of the birthday of late scholar Nguyễn Đổng Chi (1915 - 2020),
throughexploringtheentirehiscareer,theauthorgaveafewreflectionsonmeaningfulmethodology
lessons learned from this intellect, aiming to promote traditional values in the construction and
preservation of the country’s quintessence.
Bạn đang xem tài liệu "Mấy bài học về phương pháp luận từ sự nghiệp của nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- may_bai_hoc_ve_phuong_phap_luan_tu_su_nghiep_cua_nha_van_hoa.pdf