Mấy bài học về phương pháp luận từ sự nghiệp của nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi

82  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
ĐẤT NƯỚC - NHÂN VẬT  
MẤY BÀI HỌC VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN  
TỪ SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN HÓA LỚN  
NGUYỄN ĐỔNG CHI  
Tô Ngọc Thanh*  
Học giả Nguyễn Đổng Chi (1915-1984), một người con ưu tú của quê hương  
xứ Nghệ. Xuất thân từ Chi Gia Trang và Mộng Thương thư trai nổi tiếng ở làng quê  
Ích Hậu, huyện Can Lộc, (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) từ thế  
kỷ XIX, là con và cháu của hai nhà duy tân yêu nước, được coi là cừu gia tử đệ đối  
với Chế độ Bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Riêng ông, chỉ khởi sự học vấn từ Đệ tam  
Trung học, thế mà với nỗ lực phi thường của bản thân, từ rất sớm đã thành danh  
trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội của cả nước. Ngay đợt đầu của Giải thưởng Hồ  
Chí Minh vào năm 1996 Nguyễn Đổng Chi đã được nhất trí phong tặng không cần  
gia đình viết đơn, và Hội đồng Giải thưởng lúc bấy giờ còn trực thuộc Bộ Chính  
trị đã cân nhắc, dành cho Hội Văn nghệ Dân gian chúng tôi được đứng tên làm địa  
chỉ trực tiếp tiếp nhận giải thưởng danh giá này.  
Nhưng không chỉ thế, tên tuổi ông gắn liền với những bộ sách tiêu biểu của  
ông trước đó khá lâu đã gây được tiếng vang ra các nước, đầu tiên là Pháp rồi Nhật,  
và với thời gian ngày một có ảnh hưởng sâu rộng trên trường quốc tế, từ 2011 được  
ghi nhận trong công trình Bách khoa thư Flolklore thế giới (Enzyklopädie des  
Märchens, Band 14 Lieferung 1) của nước Đức, đến năm 2016 lại được lưu tên và  
đánh giá cao trong bộ Bách khoa thư Truyện cổ tích dân gian thế giới (Folktales  
and Fairy Tales, Traditions and Texts From Around the World, Volume I) của Hoa  
Kỳ. Đó là điều không mấy người có được, là một vinh dự cho ngành folklore học  
Việt Nam và cũng là vinh dự cho quê hương Hà Tĩnh của ông.  
Nói về hội thảo khoa học thì từ trước đến nay, chúng ta đã tổ chức 3 cuộc hội  
thảo và Tọa đàm về Nguyễn Đổng Chi. Cuộc thứ nhất là hội thảo do Ủy ban Khoa  
học Xã hội tức nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì nhân 80  
năm ngày sinh học giả vào năm 1995, có đủ mặt các nhà khoa học đầu ngành tham  
dự với nhiều bài nghiêm túc, trong đó có sự góp mặt của đại biểu Nghệ An và Hà  
Tĩnh;(1) một hội thảo thứ hai nhân 100 năm ngày sinh tác giả do Hội Nghiên cứu và  
Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh cùng với Tập đoàn Truyền thông Thanh niên  
Việt Nam và Nxb Trẻ phối hợp chủ trì năm 2015 ở TP. Hồ Chí Minh, cũng là một  
*
Nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
83  
Tượng đài GS. Nguyễn Đổng Chi tại Trường THPT mang tên ông  
tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Phạm Quang Ái.  
hội thảo rất sáng giá với sự tham gia của giới nghiên cứu chuyên ngành hầu như  
khắp cả nước.(2) Giữa hai hội thảo đó là một cuộc tọa đàm do Chi hội Văn nghệ Dân  
gian TP. Hồ Chí Minh tổ chức nhân 20 năm mất tác giả vào năm 2004,(3) trong đó  
có bài hồi ký đặc sắc của GS. Hoàng Như Mai(4) mà nhiều người còn nhớ đến nay.  
Và gần đây nhất (tháng 3/2019), Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh đã tổ chức  
Tọa đàm nhân kỷ niệm 35 năm năm mất Nguyễn Đổng Chi và Lễ Khánh thành  
tượng đài GS. Nguyễn Đổng Chi tại Trường THPT mang tên ông (trường đóng tại  
xã Ích Hậu, quê ông).(5) Ban tổ chức cuộc tọa đàm đã mời Hội Văn nghệ Dân gian  
Trung ương về tham dự và góp phần chủ trì. Tôi nghĩ đây là một bước tiếp nối cần  
thiết, trước hết là đúng với nghĩa tình của quê hương đối với vị Giáo sư sinh ra và  
lớn lên từ mảnh đất này, theo đúng cái đạo lý mà luận ở phía nào cũng đúng: uống  
nước nhớ nguồn. Những cuộc hội thảo và tọa đàm đó đã lật xới nhiều vấn đề của  
rất nhiều ngành nhiều giới, nhằm đi đến những đúc kết rõ ràng về thành tựu vững  
chắc của nhà khoa học Nguyễn Đổng Chi trên nhiều bình diện mà ông đã đóng  
góp cho nền học thuật nước nhà. Năm nay, nhân kỷ niệm 105 năm năm sinh cố học  
giả Nguyễn Đổng Chi (1915-2020), bằng tri thức hạn hẹp của mình, qua tìm hiểu  
thành tựu của các cuộc hội thảo, tọa đàm nói trên cũng như toàn bộ sự nghiệp hoạt  
động khoa học của cố học giả, tôi xin nêu lên một vài suy ngẫm của bản thân về  
những bài học có ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ con người đa dạng này, nhằm  
hướng tới việc phát huy những giá trị truyền thống trong công cuộc xây dựng và  
giữ gìn tinh hoa đất nước.  
84  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
1. Điều đầu tiên là sự định danh đối tượng nghiên cứu của chúng ta. Tiêu đề  
Hội thảo 100 năm ngày sinh (năm 2015) gọi Nguyễn Đổng Chi là “Học giả - nhà  
văn”. Đúng là có cả hai phương diện ấy, nhưng đó mới là nêu lên hai phương diện  
để các nhà nghiên cứu từ đó đào sâu – một cách định lượng chứ chưa định tính.  
Còn tiêu đề Hội thảo 80 năm ngày sinh (năm 1995) thì gọi Nguyễn Đổng Chi là  
“người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc”. Tiêu đề này rất hay. Dù sao  
đấy cũng chỉ mới là nhấn mạnh được mặt “miệt mài tìm kiếm”, còn miệt mài mà  
có tìm ra cái gì hay không thì đọc xong tiêu đề vẫn cứ còn là câu hỏi. Trong các  
tham luận có tham luận của GS. Phong Lê(6) gọi Nguyễn Đổng Chi là “nhà văn hóa  
lớn xứ Nghệ thuộc một thế hệ vàng” trong lịch sử thế kỷ XX. Xác định ở Nguyễn  
Đổng Chi tư cách nhà văn hóa có lẽ có ý nghĩa khái quát hơn cách gọi “học giả -  
nhà văn”, vì học giả và nhà văn là sự cụ thể hóa chức nghiệp cầm bút của Nguyễn  
Đổng Chi nhưng lại chưa nói được tầm thước của ông. Phải đặt ông trong phạm  
trù “nhà văn hóa” thì mới chính xác, và thêm cho ông một hình dung từ “lớn” vào  
danh hiệu “nhà văn hóa” lại càng chính xác. Rất nhiều người trong các tham luận  
trước đây gọi ông là “nhà văn hóa nổi tiếng”, “học giả nổi tiếng” cũng là những  
danh xưng tương tự, nhưng nổi tiếng thì có nhiều thứ nổi tiếng, nên thiết tưởng bản  
thân chữ “lớn” cũng bao hàm trong đó chữ “nổi tiếng” rồi. Còn nói ông là “nhà  
văn hóa lớn xứ Nghệ” thì với tư cách những người con xứ Nghệ, chắc nhiều người  
xứ Nghệ rất đồng tình. Nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn  
Hợp cách đây 23 năm cũng đã trân trọng định danh ông như thế.(7) Tuy nhiên, đó  
chỉ là nhằm nói rõ xuất thân sinh quán của Nguyễn Đổng Chi, còn những giá trị  
trong các công trình của ông thì đã vượt ra khỏi phạm vi xứ Nghệ từ lâu, trở thành  
sản phẩm của cả nước ngay khi mới xuất hiện; như Việt Nam cổ văn học sử năm  
1942, được cả học giới Bắc và Nam cùng nhau bàn luận; như Lược khảo về thần  
thoại Việt Nam đã vượt vĩ tuyến 17 vào Nam từ năm 1956, được (hay bị) một vài  
học giả miền Nam “sao chép” toàn bộ khiến văn đàn miền Nam thuở ấy nổi lên  
nhiều luồng phê phán. Và như đã nói trên, không phải chỉ trong phạm vi đất nước  
mà thôi. Tên tuổi Nguyễn Đổng Chi còn đi ra khỏi biên giới Việt Nam rất sớm, từ  
1964, TS. Maurice Durand(8) và TS. Lê Văn Hảo(9) đã cùng lúc bình luận về Tập I  
và Tập II Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam trên tờ tập san Trường Viễn Đông Bác  
cổ (Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient) ở Paris. Năm 1975, Thích  
Như Điển đã trích dịch Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam ra tiếng Nhật. Và gần  
đây thôi, như TS. Ôn Thị Mỹ Linh(10) cho biết, năm 2011 GS.TS. Jörg Engelbert  
người Đức, còn dẫn giải tác phẩm trên trong bộ Bách khoa thư Folklore thế giới  
(Enzyklopädie des Märchens), coi Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam là một “bộ  
sách cổ tích phong phú nhất và hệ thống nhất của người Việt từ trước tới nay, với  
200 truyện chính và hơn 1.000 dị bản”. Rồi vài năm sau đó thì các học giả đầu  
ngành của Folklore học Hoa Kỳ đã mời Ôn Thị Mỹ Linh bấy giờ đang làm luận án  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
85  
Tiến sĩ tại Đức, đưa tên tuổi Nguyễn Đổng Chi vào bộ Truyện cổ tích dân gian thế  
giới (Folktales and Fairy Tales) do Hoa Kỳ in năm 2016 – và người Việt Nam có  
mặt trong đó cũng chỉ có mỗi mình ông. Vậy thì, ta hãy thử soi sáng thêm để xem  
trong các công trình của Nguyễn Đổng Chi, mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế  
diễn ra như thế nào về mặt lý thuyết. Ông tiếp thu lý thuyết bên ngoài đến đâu và  
ông đã khổ công nghiền ngẫm sáng tạo đến đâu để xây dựng nên những sản phẩm  
đặc thù, vừa theo kịp các lý thuyết tiên tiến mà lại không phải là giáo điều khô  
cứng, vẫn mang đậm sắc thái dân tộc và phong cách sáng tạo của riêng mình, để  
được khoa học thế giới công nhận. Đó là một vấn đề lý thú và chúng ta có thể từ  
nhiều mặt, nhiều góc độ mà soi tỏ.  
2. Đi sâu vào nội hàm của khái niệm nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi, đúng  
như nhiều tham luận trở về trước đã đề cập, có thể khẳng định ông là một con  
người đa tài và uyên súc, với nhiều mặt sự nghiệp trước tác tuy chấm dứt ở thế  
kỷ XX nhưng vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh đến hôm nay: a. Vừa đi sâu khảo sát  
dân tộc học cùng với người anh là BS Nguyễn Kinh Chi(11) để có tác phẩm Mọi  
Kontum từ năm mới 18 tuổi, mà như TS. Andrew Hardy(12) viết trong “Dẫn luận”  
cuốn sách được dịch ra tiếng Pháp và in song ngữ năm 2011, đây là công trình dân  
tộc học “đạt chất lượng cao nhất”, về phương pháp và sự tinh tế còn đứng trên cả  
một số công trình cùng đề tài của các nhà dân tộc học người Pháp đương thời như  
Dourisboure; hay nói như nhà văn Nguyên Ngọc,(13) “hai tác giả ‘tài tử’ nhưng cực  
kỳ tài năng” này, trên nhiều vấn đề mà họ khảo sát “đã đi trước [các nhà dân tộc  
học Pháp] đến hơn nửa thế kỷ”. b. Vừa gắn mình với sử học để có bản thảo Đào  
Duy Từ được giải thưởng Alexandre de Rhodes năm 1943 do học giả Nguyễn Văn  
Tố làm Chủ tịch Ban chấm giải; sau này lại có bộ Lịch sử phong trào nông dân thời  
Trung đại, 2 quyển hiện chưa in mà Quyển I được GS. Trần Huy Liệu duyệt thông  
qua từ năm 1968; và quan trọng hơn là quyển sách lý luận Góp phần tìm hiểu lịch  
sử đấu tranh của nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến được Viện sĩ Nguyễn  
Khánh Toàn duyệt và đề tựa từ năm 1978. c. Vừa là nhà khảo cổ học có công đầu  
trong việc phát hiện di chỉ sơ kỳ đồ đá cũ Núi Đọ năm 1960, khiến Việt Nam bắt  
đầu được thế giới biết đến như một trong những cái nôi của loài người. d. Vừa là,  
và nhất là nhà Folklore học, hay nói như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số đặc  
san kỷ niệm Nguyễn Đổng Chi năm 2015, là “nhà cổ tích học lừng danh”, với hàng  
loạt công trình, nếu không kể Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam 5 tập là bộ sách  
quá nổi tiếng mà PGS. Trần Hữu Tá,(14) PGS. Chu Xuân Diên,(15) PGS. Nguyễn Thị  
Huế(16) và TS. Hồ Quốc Hùng(17) đều coi là sánh ngang với các bộ Truyện cổ tích  
Grimm, Truyện cổ tích Pourra, Truyện cổ tích Andersen, Truyện cổ tích Perrault,  
Truyện cổ tích Anafasyev, thì vẫn còn rất nhiều công trình khác để lại ký ức không  
thể quên trong bạn đọc, như Hát giặm Nghệ-Tĩnh 3 tập, tập đầu tiên được xuất bản  
86  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
từ năm 1944 chưa được tác giả coi là hoàn thiện, sau này ông sẽ viết lại năm 1963,  
vậy mà ngay từ sơ bản đã biết để ý đến thủ tục hát, giọng điệu hát và cá tính, bản  
sắc của từng khuôn mặt nghệ nhân, tức là biết nghiên cứu Folklore như một loại  
hình tổng hợp chứ không chỉ có văn chương. Hay như bộ Địa chí Văn hóa dân gian  
Nghệ-Tĩnh, rất công phu, với nhiều kiến giải thâm sâu phi ông ra khó còn ai hiểu  
được về những loại hình văn hóa cổ truyền xứ Nghệ mà ThS. Phạm Quang Ái(18)  
đã nêu ra nhiều dẫn chứng rất đắt, coi ông mới thực mở đường cho chuyên ngành  
“Nghệ học” (Nghệ là xứ Nghệ). Ở đây, mỗi nhà nghiên cứu chúng ta có điều kiện  
trình bày một phương diện thành tựu của con người thuộc thế hệ có thể nói cái gì  
cũng am tường đến tận gốc đó, chứ không ai có thể nói hết mọi mặt kiến văn đã  
được hiện diện qua sách vở của Nguyễn Đổng Chi. Tuy vậy, ta có thể nhân dịp này  
cùng nhau tìm hiểu xem, cái gì là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả những công trình của  
nhà học giả, nó tạo nên những đặc điểm khó lẫn lộn với bất kỳ ai. Cái đó trước hết  
không phải là lập trường tư tưởng, tính đảng, tính giai cấp... như thế tục vẫn hay  
đem ra làm tiêu chuẩn để đánh giá vào một thời cũng chưa phải xa. Cái gì đó phải  
chăng là một phương pháp hiện đại lồng trong một nhãn quan tiên tiến, tạo nên sự  
thống nhất về đặc điểm cấu trúc, về quan điểm nhận định, về cách nhìn nhận nhuần  
nhuyễn của phần lớn các công trình của ông và nó làm thành từ sớm phong cách  
khoa học Nguyễn Đổng Chi? Tìm được cái đó theo tôi, chính là tìm được chìa khóa  
then chốt để giải mã bí ẩn của một tài năng.  
3. Như vậy, nói Nguyễn Đổng Chi là nhà văn hóa uyên bác là nói cái tầm kiến  
thức của một khoa học gia đích thực, đã đi vào lĩnh vực nào là đem hết tâm lực đào  
sâu đến nơi đến chốn để đạt được những thành quả cụ thể, có đóng góp thực sự cho  
ngành khoa học ấy, cắm được một cái mốc nào đó, chứ không phải uyên bác theo  
kiểu trình ra những lý thuyết suông. Tiếp nối hai đề dẫn ở trên, tôi muốn nhắc đến ý  
kiến của TS. Hồ Quốc Hùng trong Hội thảo Khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh  
học giả-nhà văn Nguyễn Đổng Chi – anh cho rằng nhờ thông thạo Pháp ngữ và  
Hán ngữ cổ, Nguyễn Đổng Chi là người đọc rộng và tiếp cận sớm các hệ lý thuyết  
của nhiều trường phái nước ngoài, nhưng ông không vội sử dụng lý thuyết chay để  
quy nạp những vấn đề khoa học xã hội cụ thể được đặt ra từ trên mảnh đất đặc thù  
mà ông sinh trưởng. Kể từ ngày viết Mọi Kontum ông đã biết lấy khảo sát điền dã  
làm phương châm nền tảng. Đối tượng kiếm tìm của ông là nhiều loại hình văn hóa  
luôn luôn biến động phức hợp, đan cài ở ngay giữa đời sống. Lúc này rồi lúc khác,  
ông trở đi trở lại theo dõi sự chuyển động của các hiện tượng văn hóa ấy để tìm cho  
ra quy luật phát triển, sự va động và kết hợp đa dạng của chúng, kể cả sự suy tàn  
của chúng, biểu hiện của những hình thái tư duy dân gian đang vận động. Và sau  
khi sưu tập lại, đối chiếu, so sánh cẩn trọng, nhà học giả mới đề xuất những kiến  
giải riêng có của mình. Những quan điểm lý thuyết của ông, tuy ở nhiều bộ môn  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
87  
như dân tộc học, hay cổ văn học sử, vốn xuất khởi từ cách đây hơn 70 năm, đến  
nay vẫn mang tính dự báo và tính hiện đại, và điều rất lạ là có nhiều luận điểm khá  
tương hợp với các trường phái lý thuyết hiện đại trên thế giới, tuy ông không bắt  
chước họ. Về cách diễn đạt thì bao giờ lý thuyết của ông cũng mềm dẻo, uẩn súc,  
ít khi phô bày những thuật ngữ tân kỳ cốt để kích thích những ai háo hức cái mới,  
nói như GS. Nguyễn Xuân Kính(19) là Nguyễn Đổng Chi “không biết làm hàng”.  
Đây cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá cho các nhà lý thuyết thuộc thế hệ  
trẻ sau này. Chúng ta có thể đi sâu thêm vào những ý kiến mà tôi đang dẫn lại để  
tiến tới xác định với nhau ở đây, bên cạnh mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế thì  
mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa điền dã và tổng kết rồi từ đúc kết lại  
đem soi vào điền dã, ở Nguyễn Đổng Chi đã diễn ra theo một chu trình nhịp nhàng  
như thế nào và khác người như thế nào để dẫn đến sự hoàn thiện của một Nguyễn  
Đổng Chi nhà khoa học mà tính đến nay, người cùng thời với ông ít người có thể  
so sánh. Đây cũng là một yếu tố quyết định thành công đột xuất của nhà học giả có  
thể giúp thế hệ sau học được nhiều điều bổ ích.  
4. Một điều tưởng như mâu thuẫn là về thành tựu thì nổi bật như trên, con  
người học giả Nguyễn Đổng Chi là người đầy ắp những kiến văn sâu rộng, nhưng  
như đã nói, xuất phát điểm học vấn của ông lại không phải cao. Ông học hết Đệ  
tam Trung học năm 1938, nhưng không thi Diplôme. PGS. Trần Hữu Tá xếp ông  
vào thế hệ tự học, lớp những Nguyễn Văn Vĩnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Tố,  
Trương Tửu,... nhờ tự học mà làm nên sự nghiệp. Đúng là như vậy. Nhưng cũng vì  
vậy mà việc tự học thành công của các ông hẳn là những tấm gương sáng để nhiều  
học giả chúng ta hôm nay nhìn vào mà phấn đấu. Nói riêng Nguyễn Đổng Chi, sau  
khi thôi học ông đã nỗ lực suốt mấy năm dùi mài đọc sách đông tây kim cổ trong  
thư viện gia đình, nỗ lực học thêm chữ Hán với người chú họ, đến mức đang tuổi  
thanh niên đã cạo trọc đầu để tóc trái đào để khỏi phải rong chơi, nhằm dốc lòng  
đèn sách. Thử hỏi ngày nay mấy người có thể làm được như thế? Và từ nỗ lực một  
cách khác người, đến mức vừa học chữ Hán vừa ngày đêm không rời quyển sách,  
chỉ trong vòng có mấy năm ông đã cho ra mắt liên tiếp nhiều công trình, ở những  
mức độ khác nhau, đều là loại công trình làm dậy sóng văn đàn; nào Việt Nam cổ  
văn học sử công bố năm 1942, được cả hai học giả tầm cỡ Nguyễn Văn Tố và Đặng  
Thai Mai cùng viết bài phê bình; nào Đào Duy Từ đoạt giải thưởng danh giá năm  
1943; rồi Hát dặm Nghệ Tĩnh xuất bản năm 1944 làm cho người xứ Nghệ thuở  
ấy mừng vui vì không ngờ một thể loại hát vốn vẫn bị coi là tiếng hát nôm na nay  
bỗng nhiên lại được một nhà nghiên cứu đem ra trình làng, đặt một cách nghiêm  
túc lên bàn cân học thuật; rồi tiếp đấy ông lại có thêm cuốn sách dịch chung Thoái  
thực ký văn dịch của một nhà văn xứ Nghệ thuở trước là Trương Quốc Dụng, công  
bố năm 1944. Trong khi đó, không phải bó mình mãi trong thư phòng mà Nguyễn  
88  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
Đổng Chi còn làm nhiều việc xen kẽ, như ra Hà Nội đọc sách ở Trường Viễn Đông  
Bác cổ gần suốt cả năm 1942, lại tham gia Việt Minh và xây dựng Đoàn Thanh niên  
Cứu quốc và Đội Vũ trang khởi nghĩa ở huyện nhà năm 1943, trốn tránh vào Huế  
khi phong trào bị đàn áp năm 1944, và trở về làm Thủ lĩnh thanh niên Phan Anh và  
phục hưng Đội Vũ trang khởi nghĩa năm 1945 để chỉ huy giành chính quyền Can  
Lộc thành công ngày 15, nay theo lịch mới là ngày 16/8/1945, một ngày sớm nhất  
trong toàn quốc. Không có một nghị lực phi thường, nhà văn hóa Nguyễn Đổng  
Chi khó lòng hoàn thành một núi công việc trong vòng dăm năm như vậy. Tuy đây  
không phải là một vấn đề học thuật để trao đổi nhưng thiết nghĩ, khi chúng ta bàn  
luận đến các vấn đề học thuật của nhà văn hóa, cũng nên đặt trong tương quan với  
“con người hành động” Nguyễn Đổng Chi mà soi nhìn. Có thể biết đâu sẽ tìm thấy  
trong những phát kiến khoa học của nhà học giả có thêm nhiều mặt ý nghĩa mới.  
5. Do đâu mà Nguyễn Đổng Chi có được những thành tựu được nhiều nhà  
khoa học dùng chữ “để đời” để đánh giá? Cuốn Mọi Kontum sở dĩ ngày nay còn  
được biết tới, được giới dân tộc học nhìn nhận như một “mẫu mực đi đầu”, vì như  
TS. A. Hardy nói, hai tác giả không viết chuyện “phiêu lưu đường rừng”, cũng  
không kể những chuyện ly kỳ về “người Mọi” mà thuở bấy giờ người Việt nói  
chung đang đầy thành kiến và tò mò muốn biết. Các ông chỉ duy nhất muốn làm  
sáng tỏ dân tộc Bahnar vốn có một nền văn minh rất đáng coi trọng: “Tục lệ của họ  
chẳng những không mọi rợ chút nào mà trái lại có nhiều điều còn thuần túy hơn ta  
nữa kia”. Nghĩa là, cái làm nên hồn cốt của cuốn sách là tinh thần nhân văn trong  
sáng trong thẳm sâu tư tưởng của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi. Cũng  
vậy, vốn sẵn ấp ủ một tình yêu sâu nặng đối với làng thôn Việt Nam và người nông  
dân nghèo khổ quanh năm đầu tắt mặt tối trên ruộng đồng, nên như nhiều tham  
luận của các PGS. Nguyễn Thị Thanh Xuân,(20) Nguyễn Thành Thi,(21) Phạm Xuân  
Nguyên(22) và những người khác, Nguyễn Đổng Chi đã viết phóng sự Túp lều nát  
phơi bày chế độ cường hào ở Nghệ-Tĩnh còn sớm hơn và sử dụng một nghệ thuật  
“lộn trái sự thật bằng trào phúng và tiếng nhà quê - phương ngữ” trực diện hơn  
cả những phóng sự cùng đề tài của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao.  
Có thể nói bất kỳ công trình khoa học nào hay sáng tác văn học nào của Nguyễn  
Đổng Chi cũng là để gửi gắm tấm lòng yêu nước, thương dân, tinh thần dân tộc  
và chủ nghĩa nhân đạo vốn bắt nguồn từ truyền thống gia đình ông. Những nền  
tảng ăn sâu bén rễ này mới làm nên giá trị khoa học hay giá trị thẩm mỹ trong tác  
phẩm của ông. Vậy nên trong con người Nguyễn Đổng Chi, ta không thể tách rời  
nhà yêu nước với nhà văn hóa, nhà văn. Sự thành công trong sự nghiệp to lớn của  
ông do nghị lực phi thường của chính ông, và cũng do chính sự bén nhạy với vận  
mệnh dân tộc trong ông thúc đẩy. Rất dễ hiểu nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi  
sớm bắt gặp cách mạng và trở thành một người cách mạng từ năm 1939. Rất dễ  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
89  
hiểu khi ra công tác ở Hà Nội năm 1946, gặp lúc chiến sự nổ ra, ông đã không quay  
lui về khu IV mà hăng hái tham gia Đội tự vệ Bùi Quang Trinh để chiến đấu với  
giặc trong gần 3 tháng. Và cuộc chiến đấu này lại dẫn đến thành quả không nhỏ là  
cuốn truyện vừa Gặp lại một người bạn nhỏ hoàn thành năm 1949 và được in năm  
1957, một cuốn sách “không rơi vào cường điệu hay cứng nhắc” mà “ít nhiều giữ  
được sự ‘phóng túng’”, ở chỗ “nỗi sợ niềm vui, cái bạo cái hèn, cái được cái mất,  
chuyện tục chuyện đùa, chuyện nghiêm trang, kể cả những khoảnh khắc hư vô  
buồn nản trước cảnh chết chóc chia ly [trong cuộc chiến đấu thuở đó]… đều biết  
nói ra một cách hồn hậu”, “và với độ lùi của thời gian, điều đó trở thành một điểm  
mạnh” (Trần Lê Văn).(23) Đây cũng là một tấm gương khả ái để thế hệ học giả nhà  
văn ngày nay soi vào.  
Trở lên là 5 vấn đề và cũng là 5 bài học lớn mà bản thân tôi học được ở một  
bậc thức giả lớn, càng nghiền ngẫm càng thấy chúng gắn quyện dằng dịt với nhau,  
nói vấn đề này mà không chú ý đến vấn đề kia như một hệ quả hay một nguyên  
nhân, chúng tạo nên một học giả Nguyễn Đổng Chi như ta biết, thì đều là phiến  
diện. Đấy là những suy ngẫm của riêng tôi, có thể đúng và cũng có thể sai, nhưng  
đúng hay sai đều xuất phát từ ý nghĩ chân thành mà tôi muốn dùng làm một nén  
hương lòng dâng lên nhà học giả tiền bối nhân kỷ niệm lần thứ 105 ngày sinh của  
ông, một nhà văn hóa mà càng tìm hiểu tôi càng thấy tầm vóc rất lớn, một con  
người suốt đời khiêm tốn, xuất thân xứ Nghệ và là niềm tự hào trước tiên cho nhân  
dân Nghệ-Tĩnh, nhưng cũng là niềm tự hào cho văn hóa văn nghệ của đất nước  
chúng ta, một con người luôn hành động theo ánh sáng của lương tri và không hề  
biết mệt mỏi khi đứng trước một quả núi sắp phải trèo lên, cũng không chịu dừng  
lại khi đã vượt qua một cái mốc mà mình vừa đạt được.  
T N T  
CHÚ THÍCH  
(1) Tên gọi chính thức là Hội thảo Khoa học kỷ niệm 80 năm ngày sinh GS. Nguyễn Đổng Chi  
(1915-1995), được tổ chức tại Hà Nội đúng vào ngày sinh tác giả 06/01/1995, do Ủy ban  
Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội) đứng ra tổ chức, dưới sự  
chủ trì của Chủ nhiệm GS. Nguyễn Duy Quý, với sự phối hợp của Hội Văn nghệ Dân gian  
Việt Nam và các Viện trực thuộc UBKHXH như Viện Văn hóa Dân gian, Viện Nghiên cứu  
Hán Nôm, Viện Sử học, Viện Văn học, có sự tham gia của các đại biểu Hội Khoa học Lịch  
sử, Bộ Văn hóa, Bộ Giáo dục, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An cùng đông đảo các nhà  
nghiên cứu và giảng dạy văn học ở các viện và trường đại học.  
(2) Tên gọi chính thức là Hội thảo Khoa học kỷ niệm 100 năm ngày sinh học giả-nhà văn  
Nguyễn Đổng Chi (1915-2015), được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào ngày 7/5/2015, do  
Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Tập đoàn Truyền thông  
Thanh niên và Nhà xuất bản Trẻ cùng đứng ra tổ chức, dưới sự chủ trì của PGS.TS. Trần  
Hữu Tá cùng các ông Lê Công Khế, Nguyễn Minh Nhựt, có sự tham gia của lãnh đạo các  
90  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
Viện Văn hóa, Viện Văn học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, Hội Văn nghệ Dân  
gian Việt Nam và rất nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học trên cả nước.  
(3) Tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào tối ngày 28/4/2004, do Chi hội Văn nghệ Dân gian TP. Hồ  
Chí Minh và Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh đồng chủ trì.  
(4) Hoàng Như Mai (1919-2013): Giáo sư, xuất thân Đại học Y khoa và Đại học Luật khóa trước  
1945, trong Kháng chiến chống Pháp làm Hiệu trưởng nhiều trường trung học ở Chiến khu  
Việt Bắc. Sau hòa bình lập lại 1954 dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội  
rồi sau 1975 chuyển vào dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh  
kiêm Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.  
(5) Tổ chức tại TP. Hà Tĩnh vào ngày 23/3/2019, do Chi hội Văn nghệ Dân gian TP. Hà Tĩnh  
phối hợp với Hội Văn nghệ Dân gian Trung ương, dưới sự chủ trì của GS.TSKH. Tô Ngọc  
Thanh, Chủ tịch Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh, Phan Thư Hiền và ThS. Phạm Quang  
Ái. Trước đó một ngày là Lễ Khánh thành tượng đài Nguyễn Đổng Chi tại Trường Phổ thông  
Trung học mang tên ông tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh.  
(6) Nguyên Viện trưởng Viện Văn học, trực thuộc UBKHXH Việt Nam.  
(7) Phát biểu tại Hội thảo Khoa học kỷ niệm 80 năm ngày sinh GS. Nguyễn Đổng Chi (06/01/1995).  
(8) Nguyên Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội. Sau ngày chuyển giao cơ quan  
này cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1957, ông trở về Pháp vẫn làm việc  
tại tổ chức này ở Paris cho đến khi mất.  
(9) Nguyên Giáo sư Viện Đại học Huế. Sau tham gia Mặt trận Giải phóng miền Nam và lên  
chiến khu năm 1968 rồi ra Bắc nhận chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Sau hòa bình năm 1975  
sang Pháp sinh sống.  
(10) Hiện là Giảng viên Ngành Folklore học tại Đại học Thái Nguyên.  
(11) Sau 1945 là Đại biểu Quốc hội 4 khóa từ 1946-1975 và Thứ trưởng Bộ Y tế Nước Việt Nam  
Dân chủ Cộng hòa thời Kháng chiến chống Pháp.  
(12) Nguyên Giám đốc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội.  
(13) Nhà văn cách mạng và nhà văn hóa Việt Nam.  
(14) Nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh kiêm Chủ  
tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.  
(15) Nguyên giảng dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ  
Chí Minh.  
(16) Nguyên Nghiên cứu viên cao cấp Ban Văn hóa Dân gian Viện Văn học.  
(17) Nguyên Giảng viên Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.  
(18) Phó TBT Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh kiêm Phó Chủ tịch Chi hội Văn nghệ Dân gian Hà Tĩnh.  
(19) Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.  
(20) Nguyên giảng dạy Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ  
Chí Minh.  
(21) Nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.  
(22) Nhà phê bình, nguyên Nghiên cứu viên Viện Văn học, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.  
(23) Nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng Nhà nước, tên  
thật là Trần Văn Lễ (1923-2005). Trích Lời giới thiệu Gặp lại một người bạn nhỏ viết tháng  
12/1998, bản in lần thứ năm, Nxb Trẻ, tr. 20.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
91  
TÓM TẮT  
Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, một người con ưu tú của quê hương xứ Nghệ. Ông là một học  
giả có tên tuổi lớn của nền học thuật Việt Nam trong thế kỷ XX. Ở lãnh vực nào ông cũng để lại  
những dấu ấn xuất sắc, những thành quả ấy đã được học giới Việt Nam trân trọng, ghi nhận, tiếp  
thu và tiếp tục phát triển qua các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học cũng như nhiều công trình biên  
khảo chuyên ngành thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn. Những đóng góp của ông là tấm  
gương và niềm tự hào cho nhiều thế hệ Việt Nam noi theo.  
Nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố học giả Nguyễn Đổng Chi (1915 - 2020), qua tìm hiểu  
toàn bộ sự nghiệp hoạt động khoa học của cố học giả, tác giả nêu lên một vài suy ngẫm về những  
bài học có ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nhà văn hóa lớn này, nhằm hướng tới việc phát  
huy những giá trị truyền thống trong công cuộc xây dựng và giữ gìn tinh hoa đất nước.  
ABSTRACT  
SOME LESSONS ON METHODOLOGY  
FROM CAREER OF GREAT WRITER NGUYỄN ĐỔNG CHI  
Professor Nguyễn Đổng Chi, an excellent son from the Nghệ homeland. He is a famous  
scholar of Vietnamese scholarship in the XXth century. In every field, he left excellent works, these  
achievements have been appreciated, acknowledged, absorbed and continued to develop by  
Vietnamese students through scientific seminars and as well as many specialized archaeological  
works in the field of Social Sciences and Humanities. His contributions are an example and pride  
for many Vietnamese generations to follow.  
On the 105th anniversary of the birthday of late scholar Nguyễn Đổng Chi (1915 - 2020),  
throughexploringtheentirehiscareer,theauthorgaveafewreflectionsonmeaningfulmethodology  
lessons learned from this intellect, aiming to promote traditional values in the construction and  
preservation of the country’s quintessence.  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 680
Bạn đang xem tài liệu "Mấy bài học về phương pháp luận từ sự nghiệp của nhà văn hóa lớn Nguyễn Đổng Chi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmay_bai_hoc_ve_phuong_phap_luan_tu_su_nghiep_cua_nha_van_hoa.pdf