Bàn thêm về khái niệm văn hóa
LÝ LUẬN VĂN HÓA
BÀN THÊM VỀ KHÁI NIỆM VĂN HÓA
HOÀNG SƠN CƯỜNG
Tóm tắt
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm và ngoại diên phức tạp. Đã có hàng trăm định nghĩa về văn
hóa phản ánh những quan điểm, những trường phái lý thuyết khác nhau. Bài viết này vận dụng một
số quẻ trong Kinh Dịch và luận bàn của người xưa để làm rõ hơn thuật ngữ văn hóa thông qua các
phương diện: Văn hóa là phát minh, sáng tạo; Văn hóa là “yên lòng dân”; Văn hóa luôn vận động -
phát triển; văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - chính trị. Qua đó khẳng định tính vận động,
biện chứng trong nội hàm khái niệm văn hóa.
Từ khóa: Bàn thêm, khái niệm văn hóa
Abstract
Culture is an inner and external complex concept. There have been hundreds of cultural definitions
that reflect different theoretical views. This article applies some of the lots in I Ching and the discussion
of the ancients to further clarify the cultural terminology through the following aspects: Culture is
inventiveness, creativity; Culture is “peace of mind”; Culture is always moving - development; Culture
is closely related to economics - politics. This confirms the motivational, dialectic within the cultural
connotation.
Keywords: Discuss more, cultural concepts
ù đã có quá nhiều định nghĩa thể
hiện các khái niệm, quan niệm khác
nhau về văn hóa và từ rất sớm, năm
mô hình cấu trúc, mà điều quan trọng hơn cả
là phải xuất phát từ chức năng giúp loài người
“sinh tồn và phát triển”như Hồ Chí Minh đã nói
(5, tập 3, tr.458) để hiểu nội hàm cơ bản của nó.
D
1793, thuật ngữ“Culture”đã xuất hiện (4, tr. 36
- 37), nhưng do kho tàng trí tuệ của nhân loại
được bổ sung nhiều nên cần bàn thêm về khái
niệm “Văn hóa”. Mặc dù ở phương Đông từ
mấy nghìn năm trước, người ta đã đưa ra luận
thuyết về sự vận động của khái niệm“Văn hóa”
(đem cái văn ứng dụng một cách sáng tạo vào
cuộc sống) (2, tr. 12), nhưng do nền kinh tế vẫn
còn lệ thuộc vào tự nhiên nên không ít khái
niệm “Văn hóa” chưa giải quyết thấu đáo hiện
tượng vận động “xoáy trôn ốc đi lên”. Nói tới
khái niệm“Văn hóa”, chúng ta không chỉ nêu ra
1. Văn hóa là phát minh, sáng tạo
Với ba nền kinh tế (kinh tế nông nghiệp,
kinh tế công nghiệp - sản xuất hàng hóa từ
nguyên liệu có sẵn và kinh tế tri thức - sản xuất
hàng hóa từ nguyên liệu được sáng tạo mới)
thì văn hóa không chỉ dừng lại ở cách ứng xử
theo một khuôn mẫu, lễ nghi cứng nhắc, hoặc
đua nhau khai thác tài nguyên thiên nhiên, mà
phải coi “phát minh, sáng tạo” (5, tập 3, tr.458)
là yếu tố cơ bản.
NGHIÊN CỨU
Số 20 - Tháng 6 - 2017
5
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
Khái niệm văn hóa đã được cha ông ta trăn
trở từ rất lâu. Lê Quý Đôn đã chỉ ra cái “Văn”
(mà quẻ Bí 賁 là biểu tượng) thể hiện trong
quá trình vận động không ngừng và ngày một
phát triển cao hơn (3). Theo Lê Quý Đôn, tuy
quẻ Bí được gọi là “Văn” (văn hóa thành văn),
nhưng lại được hiểu bao gồm hai công đoạn
là “làm sách” (đúc rút kinh nghiệm từ quá trình
lao động trước) và “đọc sách” (ứng dụng một
cách sáng tạo những kinh nghiệm ấy vào quá
trình lao động tiếp theo để thúc đẩy xã hội
phát triển). Như thế là, để có cái văn sau phát
triển hơn cái văn trước thì khái niệm“Văn”phải
là một tổ hợp “danh-động từ”. Quẻ Bí (贲)
trong sách Kinh Dịch có công thức:
Lười thì không tiến bộ
Siêng năng chắc thành công
Các bạn cố gắng mãi
Như thế là anh hùng
(5, tập 10, tr.457).
(Cần hữu công - Hý vô ích - Giới chi tai - Nghi
miễn lực 勤有功-戲無益-戒之哉-宜勉力).
Với nhận thức “xã hội luôn biến đổi, xã
hội sau phát triển hơn xã hội trước” (5, tập 11,
tr.238), chúng ta hiểu rằng, tuy xã hội tư bản
chủ nghĩa còn nhiều khiếm khuyết, nhưng do
sản xuất hàng hóa, “làm ra được cái khác với cái
có sẵn trong tự nhiên” nên rất đáng để chúng
ta học tập.
2. Văn hóa phải “yên lòng dân”
Cương nhu giao thác thiên văn dã, Văn minh
dĩ chỉ nhân văn dã, Quan hồ thiên văn dĩ sát
thời biến, Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên
Nói tới khái niệm Văn hóa, người ta hay
nhắc tới cụm từ “Yên lòng dân”, tức phương
pháp cai trị xã hội. Muốn yên lòng dân, việc
đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho dân ấm
hạ (剛柔交錯天文也,文明以止人文也,觀
乎天
no hạnh phúc (5, tập 4, tr.64). Hồ Chí Minh đã
文以察時变,觀
乎人文以化成天下).
nhắc lại câu nói của người xưa “Dân coi miếng
ăn là trời” (Dân dĩ thực vi thiên - 民以食为天)
(5, tập 5, tr.553). Câu nói đó cũng giống như
“ham muốn tột bậc” của Người là “làm sao để
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành” (5, tập 4, tr.187). Người còn nói: “Có độc
lập mà dân không có tự do hạnh phúc thì cũng
là vô nghĩa”(5, tập 4, tr.64).
Công đoạn“đọc sách”(trong khái niệm Văn)
mà Lê Quý Đôn nhắc tới bao gồm cả lao động
chọn lựa kinh nghiệm tốt đẹp nhất, phù hợp
nhất đã có, và sau đó phải vận dụng có hiệu
quả nhất nhằm để thúc đẩy xã hội phát triển.
Đó là một công đoạn vô cùng quan trọng, gọi
là “Hóa”.
Dù là xã hội sản xuất nông nghiệp hay sau
này là xã hội công nghiệp thì như Nguyễn Trãi
đã nói: “Chỉ có văn trị mới đưa xã hội tới thái
bình” (Văn trị chung tu đáo thái bình (文治终
修到太平)(9, tr.289). Ý nghĩa lớn lao nhất của
khái niệm “Văn trị” là quan tâm đến lợi ích của
người dân, là có luật pháp nghiêm và minh
(không thiên vị, không một ai được ngồi trên
luật pháp). Mấy ngàn năm về trước, nhà triết
học cổ đại phương Đông là Lão Tử đã chỉ ra:
loài người đang làm trái đạo trời bởi người
nghèo phải cung phụng người giàu. Nhìn ra
mâu thuẫn rồi nhưng ông “không thể tự túm
tóc mình nhấc lên”bởi ông đang sống ngập sâu
trong xã hội bất công, vô lý ấy.
Để có công đoạn quan trọng này, phải có
quá trình tích lũy lâu dài và nghiêm túc. Thiền
sư Viên Chiếu (999 - 1090) đã từng chê những
người đọc sách mà không biết suy nghĩ và
hành động hợp lý thì chẳng khác người mù
ngắm trăng, người điếc nghe nhạc. Theo quy
luật phủ định biện chứng thì không hẳn tất cả
các kinh nghiệm đã có trong quá khứ đều bị
coi là lạc hậu. Đồng thời cũng không thể nhất
nhất đều “tin một cách mù quáng từng câu
từng chữ có trong sách”(5, tập 11, tr.98).
Bác Hồ đã từng dịch lại bốn câu kết của
sách Tam Tự Kinh - một cuốn sách của “phong
kiến”- như là những tiêu chí, những phẩm chất
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời
đại chúng ta:
Cũng là xã hội sản xuất nông nghiệp nhưng
ở nước ta, thực tế canh tác lúa nước trong điều
kiện gió mùa đòi hỏi và bắt buộc mọi người
6
Số 20 - Tháng 6 - 2017
LÝ LUẬN VĂN HÓA
phải gắn bó với nhau, nương tựa vào nhau
mà sống. Trong bài thơ khắc trên “núi Truyền
Đăng”(nay gọi là núi Bài Thơ) ở Quảng Ninh
vào năm 1468, Lê Thánh Tông đã chỉ ra dân ta
phải gắn bó với nhau như chân với tay, và phải
tôn trọng chữ “thời”:
Sách Kinh Dịch lý giải: Trong thế giới luôn
vận động phát triển, thì “Văn” không đứng im,
mà“cái Văn”sau luôn phải tốt đẹp hơn“cái Văn”
trước. Con người phải nhận thức được quy luật
đó để hành động sao cho xã hội ngày càng tốt
đẹp hơn.
Tráng tâm sơ cảm hàm tam cổ,
Tín thủ dao đề tốn nhị quyền
(壯心初感咸三股
Văn hóa không phải là “những thực thể có
sẵn”, mà là “quá trình nhận thức và hành động
của con người nhằm: từ những cái tốt đẹp nhất
đã và đang có, phấn đấu để vươn tới những cái
tốt đẹp hơn cần phải có”!
信取遙提巽二權)
Phát huy truyền thống văn hóa dân tộc,
tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, Hồ
Chí Minh đã đặt mốc quan trọng trong việc
nghiên cứu khái niệm văn hóa khi Người nói:
“Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân,
do dân và vì dân”.
Thế giới luôn vận động, phát triển nên Văn
hóa cũng không thể đứng im, không thể bất
biến. Sách Kinh Dịch đưa ra công thức vận
động của Văn hóa là: Đem cái Dương lên làm
Văn cho cái Âm. Đem cái Âm lại làm Văn cho
cái Dương (Cương thượng nhi Văn Nhu. Nhu
lai nhi Văn Cương (刚上而文柔。柔來而文刚).
Hai yếu tố cơ bản mà Hồ Chí Minh nêu ra
khi nghiên cứu văn hóa là: người dân lao động
“phát minh và sáng tạo”, làm ra văn hóa như một
quy luật tự nhiên “vì lẽ sinh tồn và phát triển”.
Còn xã hội có tốt đẹp hay không lại lệ thuộc
vào việc “phương thức sử dụng” các thành quả
lao động ấy có hợp lý hay không. Khi xã hội
đã phát triển sang một giai đoạn mới mà “Văn
hóa”vẫn được hiểu theo quan niệm xưa thì Hồ
Chí Minh gọi là “đem cái nắp tròn đậy cái hộp
vuông”(5, tập 2, tr.562).
Với nhận thức ấy, Phan Bội Châu đã hoán
đổi vị trí của hai hào 2 và 6 của quẻ Thái 泰|
(7, tr.369), Ngô Tất Tố hoán đổi vị trí hai hào
5 và 6 của quẻ Kí Tế 既濟(8, tr.325), để thành
quẻ Bí 賁là “cái tốt đẹp hơn cần phải có”.
Quẻ Thái 泰 có cấu tạo trên là Đất ☷, dưới
là Trời ☰. Trời luôn bốc lên, Đất luôn lắng
xuống nên chúng luôn gặp nhau để phát triển
(như mùa xuân, như bình minh, như tuổi trẻ...).
Quẻ Thái 泰 là “cái tốt đẹp nhất của trời đất”,
nhưng không hẳn khi có nó là mọi chuyện đều
suôn sẻ. Năm nào chẳng có mùa xuân, nhưng
có năm thuận mưa vừa nắng, mùa màng tốt
tươi, có năm lụt chưa qua, hạn đã tới. Ai chẳng
có tuổi trẻ, nhưng có người thành đạt, có người
suốt đời đói khổ...
3. Văn hóa luôn vận động và phát triển
Hơn hai mươi năm trước, tôi đã thử vận
dụng công thức tư duy nhị phân sơ khai để
nghiên cứu văn hóa, giáo dục (1) trong xã hội
phát triển. Đến nay khi đã có thêm nhiều tài
liệu mới soi sáng, tôi muốn trở lại bàn thêm về
vấn đề này. Các cụ Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu
và Ngô Tất Tố đã hé mở ra hướng nghiên cứu
văn hóa trong xã hội phát triển theo hình thức
“xoáy trôn ốc đi lên”.
Quẻ Kí Tế 既濟 có cấu tạo trên là nước ☵,
dưới là lửa ☲. Lửa đốt nóng làm cho nước bốc
hơi, tạo thành mây, mưa… là những điều kiện
thiết yếu tạo nên sự sống. Quẻ Kí Tế 既濟cũng
là biểu tượng của một xã hội cân bằng cả về số
lượng lẫn chức trách mà tạo hóa đã ban phát
và đòi hỏi cả nam và nữ phải tuân thủ.
Lê Quý Đôn gọi quẻ Bí là Văn, là “Văn hóa
thành văn” (làm và đọc
sách), là cái đẹp (3).
Quẻ Bí (賁) có cấu tạo
trên là núi (☶), dưới là lửa
(☲). Lửa chiếu sáng (vừa
phải) làm cho núi rạng rỡ
hơn lên. Đó là“làm đẹp cho
đời”, là cái Văn.
Tài nguyên có sẵn trong thiên nhiên, khai
thác mãi rồi cũng cạn kiệt. Để có được “cái tốt
đẹp hơn cần phải có”, Văn hóa - Giáo dục phải
được coi là “nguồn lực”để phát triển xã hội.
NGHIÊN CỨU
Số 20 - Tháng 6 - 2017
7
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
Thậm chí, khi đọc sách, người đọc còn phải
thấy những điều tác giả chưa thấy. Có thể nêu
một vài ví dụ:
Mở đầu sách Tam tự kinh có câu: Sinh tương
cận, tập tương viễn (生相近,集相遠),có nghĩa
là lúc mới sinh ra, con người ta tương đối giống
nhau, nhưng quá trình học tập, rèn luyện làm
cho người ta ngày một khác xa nhau (người
giỏi người dốt, người giàu người nghèo).
Khi kể chuyện Tây du ký, Hồ Chí Minh đã
nhắc tới phẩm chất của Đường Tăng - người
“lãnh đạo” đoàn người đi xin kinh Phật - là đã
“có quyết tâm sắt đá, thực hiện triệt để đến cùng
mục tiêu đúng đắn đã đặt ra”(4, tr.58).
Sách Kinh Dịch chỉ ra ở quẻ Lữ 旅có câu
“Trước cười sau khóc”, nói về những kẻ mải rong
chơi nên suốt đời đói khổ, về sau hối không kịp.
Còn ở quẻ Đồng Nhân 同人lại có câu “Trước
khóc sau cười”, chỉ những người chịu thương
chịu khó, “làm tận sức” (5, tập 15, tr.588) , “chắc
sẽ thành công”(5, tập 10, tr.457).
Nhà Hán học Vũ Tôn Sán
phát hiện ra trên bìa cuốn
Đại Việt sử ký toàn thư của
Nội các quan bản, chữ “Mậu
(戊) trong chữ“Việt”đã được
chấm thêm một dấu chấm
Tư duy biện chứng chỉ ra rằng, không hẳn
những cái trước đây được coi là tốt đẹp, ngày
nay và mai sau vẫn mãi mãi được tôn vinh.
Và, cũng không hẳn mọi kinh nghiệm mà loài
người đã đúc kết được trong quá khứ, ngày
nay đều bị coi là “lạc hậu”. Đánh giá hơn hay
kém phải căn cứ vào sự phát triển xã hội theo
hình thức “xoáy trôn ốc đi lên”, vòng sau phát
triển cao hơn vòng trước. Cách mạng là sự
phát triển, thay đổi về bản chất.
để thành chữ “Tuất” là tuổi của Lý Công Uẩn,
người dựng nên nhà nước độc lập đầu tiên sau
hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
Trong 3 câu thơ thứ 1088 - 1090 của Truyện
Kiều, Nguyễn Du cũng đã “kín đáo” nêu ra vấn
đề này. Muốn hiểu thấu các di sản tư tưởng
trong quá khứ, nhiều khi ta phải đặt mình
trong không gian, tâm thức của người viết
xưa. Chẳng hạn muốn hiểu thấu đáo hai câu
thơ của Lê Thánh Tông viết trên đá núi Bài Thơ
năm 1468 (đã dẫn ở trên), người đọc phải hiểu
“nghĩa ẩn đằng sau con chữ”(5, tập 1, tr.461).
Trong nền sản xuất nông nghiệp, con người
sống dựa hoàn toàn vào số của cải có sẵn
trong thiên nhiên thì lý thuyết “đại đồng” (chia
đều cái nghèo) là tiến bộ. Bước sang nền sản
xuất hàng hóa, làm ra “cái khác với cái có sẵn
trong tự nhiên” để sống, thì nếu ai vẫn khăng
khăng bênh vực thuyết“đại đồng”, Hồ Chí Minh
khẳng định đó là “phần tử phản cách mạng” (5,
tập 2, tr.563).
Điều đó chỉ ra rằng, trong sách còn có
những lời “vô ngôn” hoặc “ý tại ngôn ngoại”.
Bởi thế trong “Tuyên ngôn của các Đảng cộng
sản” F.Ăngghen mới nói, con chữ là một trong
ba điều kiện giúp con người thoát khỏi thế giới
dã man, tiến lên xã hội văn minh.
Ngược lại, không hẳn cái gì “mới” (về mặt
thời gian) cũng đều “hơn” cái trước đây, bởi
trong những kinh nghiệm mà nhân loại đã
chắt lọc và đúc kết ra, có nhiều cái đã là chân
lý vĩnh cửu.
Khi đã bước sang xã hội sản xuất hàng hóa,
làm ra cái“khác với cái có sẵn trong tự nhiên”mà
vẫn mong chỉ dùng đạo đức để quản lý xã hội
(đức trị) là ảo tưởng.
Quản lý xã hội ngày nay chủ yếu phải bằng
luật pháp nghiêm minh trên cơ sở thể chế xã
hội hợp lý, mọi người phải lao động sáng tạo
hết mình, “tận sức” (5, tập 15, tr.588) và phân
phối thành quả lao động hợp lý, “bình quân
chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội” (5, tập
10, tr.583).
Nếu “Văn hóa” chỉ được hiểu là “bản tổng
kết quá khứ” thì nó luôn luôn lạc hậu. Bởi vậy,
khi dùng biểu tượng quẻ Bí 賁 để chỉ cái Văn,
Lê Quý Đôn không chỉ nói là “làm sách” mà
còn gọi là “đọc sách”. Trong các câu đối (một
hình thức văn rất cô đọng), cha ông ta cũng
đã chỉ ra là đọc sách xưa cốt để hiểu nay: Thư
pháp vị tất toàn sư cổ, Văn chương trọng tại
năng thông kim 書法未必全师古,文章重在
能通今(6, tr.215).
4. Văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế -
chính trị
Trong Kinh Dịch (cuốn sách ra đời ít nhất đã
hơn bốn ngàn năm trăm năm về trước), có quẻ
8
Số 20 - Tháng 6 - 2017
LÝ LUẬN VĂN HÓA
thứ 64, quẻ cuối cùng trong chu kỳ phát triển
thấp gọi là quẻ Vị Tế 未濟. Trong quẻ ấy có câu
chuyện con cáo nhỏ muốn bơi qua sông (để
chuyển lên chu kỳ phát triển cao hơn) nhưng
lười biếng, cứ để cái đuôi dài lướt thướt của
mình kéo lê thê trong nước, nên không thể
nào bơi được qua sông. Câu chuyện ấy chỉ ra:
ngày nay, chúng ta muốn chuyển đổi từ nền
sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, lên nền sản
xuất công nghiệp, sản xuất hàng hóa (hoặc
gọi là“công nghiệp hóa nông nghiệp”) mà vẫn
“siêng ăn biếng làm”, thì giấc mơ“bỏ qua thời kì
phát triển” nào đó (mà không tuân thủ những
bước đi của sự phát triển tất yếu), thì cũng chỉ
là điều ảo tưởng. Để thấm nhuần tư tưởng
Hồ Chí Minh, khi Người nhấn mạnh đến việc
phát triển sản xuất (tăng năng suất lao động)
và phân phối thành quả lao động một cách
hợp lý nhằm lo “miếng ăn” cho dân, chúng tôi
thấy cần phải chú ý hơn nữa đến “phác thảo
tư tưởng” của Ngô Tất Tố, khi ông chuyển đổi
vị trí hào 2 và hào 3 của quẻ Tổn (損) để thành
quẻ Bí (賁) (8, tr.325). Chúng tôi thể hiện “phác
thảo”này trong hình vẽ sau:
5 của quẻ Tổn (損) để thành quẻ Ích (益); tiếp
đến, chuyển đổi vị trí hào 3 và hào 5 của quẻ
Ích (益) để thành quẻ Bí. Sự chuyển đổi này
cũng phù hợp với hai công đoạn “hợp tác lao
động” và “phân phối thành quả lao động hợp lý”
trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
Khái niệm Văn hóa của Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh yếu tố “phát minh và sáng tạo”
cùng với “phương thức sử dụng hợp lý” thành
quả của các phát minh và sáng tạo đó (5, tập
3, tr.458).
Tư tưởng “Văn hóa… không thể đứng ngoài
mà phải đứng trong kinh tế và chính trị” của Hồ
Chí Minh không hề hạ thấp vai trò của Văn hóa,
mà ngược lại chính là trả lại cho Văn hóa vị trí
cao cả và thiêng liêng vốn có.
H.S.C
(Nguyên giảng viên Khoa Quản lý Văn hóa
- Nghệ thuật, Trường ĐHVH HN)
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Sơn Cường (2003), Văn hóa một góc
nhìn, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2.馮天攸(1991),河孝明,周迹明,-中华文
化史,上海人民出版社.
Quẻ Tổn (損)có cấu tạo trên là núi (☶) dưới
là đầm lầy (☱). Đạo trời chỉ ra: phải đem phù
sa từ trên núi rải xuống đầm lầy để“ích trên lợi
dưới”.
3. Lê Quý Đôn (2007), Lời nói đầu thiên Nghệ
văn chí, sách Lê triều thông sử, Ngô Thế Long
dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Trần Văn Giang (2004), Bác Hồ kể chuyện Tây
du ký, In lần thứ 5, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
“Phác
thảo
tư
tưởng” của Ngô Tất Tố
là chuyển thẳng quẻ
Tổn (損) sang quẻ Bí
(賁).
5. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nxb. Sự thật
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam, Phạm Đức
Duật (2009), Hoành phi câu đối Hán - Nôm tinh
tuyển, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Ý nghĩa của sự “chuyển” này là để tạo sự
hài hòa giữa “núi” và “đầm lầy”, trong cái nọ,
có cái kia. Điều này phù hợp với tư tưởng Hồ
Chí Minh:“Văn hóa… phải nằm trong kinh tế và
chính trị”. Trong bức thư gửi triển lãm mỹ thuật
năm 1951, Hồ Chí Minh đã nêu ra một triết lý
văn hóa. Triết lý ấy được thể hiện trong cách
“định nghĩa” có một không hai về mô hình xã
hội lý tưởng: “Có thực mới vực được đạo”. Đó
là chủ nghĩa duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa
Mác - Lê nin (5, tập 5, tr.553).
Trong mô hình xã hội lý tưởng, Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ: “Chủ và thợ phải hợp tác với nhau
trong lao động để cùng có lợi” (5, tập 5, tr.124).
Trong hình vẽ trên, chúng tôi đề xuất thêm:
trước hết phải chuyển đổi vị trí hào 2 và hào
7. Chương Thâu (1992), Phan Bội Châu toàn
tập, tập 7, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
8. Ngô Tất Tố (1995), Kinh Dịch trọn bộ, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Trãi Toàn tập (1976), Nxb. Khoa học
xã hội.
Ngày nhận bài: 5 - 1 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 14 - 6 - 2017
Ngày chấp nhận đăng: 30 - 6- 2017
NGHIÊN CỨU
Số 20 - Tháng 6 - 2017
9
V
ĂN H Ó
A
Bạn đang xem tài liệu "Bàn thêm về khái niệm văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- ban_them_ve_khai_niem_van_hoa.pdf