Bàn thêm về khái niệm văn hóa

LÝ LUẬN VĂN HÓA  
BÀN THÊM VỀ KHÁI NIỆM VĂN HÓA  
HOÀNG SƠN CƯỜNG  
Tóm tắt  
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm và ngoại diên phức tạp. Đã có hàng trăm định nghĩa về văn  
hóa phản ánh những quan điểm, những trường phái lý thuyết khác nhau. Bài viết này vận dụng một  
số quẻ trong Kinh Dịch và luận bàn của người xưa để làm rõ hơn thuật ngữ văn hóa thông qua các  
phương diện: Văn hóa là phát minh, sáng tạo; Văn hóa là “yên lòng dân”; Văn hóa luôn vận động -  
phát triển; văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - chính trị. Qua đó khẳng định tính vận động,  
biện chứng trong nội hàm khái niệm văn hóa.  
Từ khóa: Bàn thêm, khái niệm văn hóa  
Abstract  
Culture is an inner and external complex concept. There have been hundreds of cultural definitions  
that reflect different theoretical views. This article applies some of the lots in I Ching and the discussion  
of the ancients to further clarify the cultural terminology through the following aspects: Culture is  
inventiveness, creativity; Culture is “peace of mind”; Culture is always moving - development; Culture  
is closely related to economics - politics. This confirms the motivational, dialectic within the cultural  
connotation.  
Keywords: Discuss more, cultural concepts  
ù đã có quá nhiều định nghĩa thể  
hiện các khái niệm, quan niệm khác  
nhau về văn hóa và từ rất sớm, năm  
mô hình cấu trúc, mà điều quan trọng hơn cả  
là phải xuất phát từ chức năng giúp loài người  
“sinh tồn và phát triểnnhư Hồ Chí Minh đã nói  
(5, tập 3, tr.458) để hiểu nội hàm cơ bản của nó.  
D
1793, thuật ngCultuređã xuất hiện (4, tr. 36  
- 37), nhưng do kho tàng trí tuệ của nhân loại  
được bổ sung nhiều nên cần bàn thêm về khái  
niệm “Văn hóa. Mặc dù ở phương Đông từ  
mấy nghìn năm trước, người ta đã đưa ra luận  
thuyết về sự vận động của khái niệmVăn hóa”  
(đem cái văn ứng dụng một cách sáng tạo vào  
cuộc sống) (2, tr. 12), nhưng do nền kinh tế vẫn  
còn lệ thuộc vào tự nhiên nên không ít khái  
niệm “Văn hóa” chưa giải quyết thấu đáo hiện  
tượng vận động “xoáy trôn ốc đi lên. Nói tới  
khái niệmVăn hóa, chúng ta không chỉ nêu ra  
1. Văn hóa là phát minh, sáng tạo  
Với ba nền kinh tế (kinh tế nông nghiệp,  
kinh tế công nghiệp - sản xuất hàng hóa từ  
nguyên liệu có sẵn và kinh tế tri thức - sản xuất  
hàng hóa từ nguyên liệu được sáng tạo mới)  
thì văn hóa không chỉ dừng lại ở cách ứng xử  
theo một khuôn mẫu, lễ nghi cứng nhắc, hoặc  
đua nhau khai thác tài nguyên thiên nhiên, mà  
phải coi “phát minh, sáng tạo” (5, tập 3, tr.458)  
là yếu tố cơ bản.  
NGHIÊN CỨU  
Số 20 - Tháng 6 - 2017  
5
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Khái niệm văn hóa đã được cha ông ta trăn  
trở từ rất lâu. Lê Quý Đôn đã chỉ ra cái “Văn”  
(mà quẻ Bí là biểu tượng) thể hiện trong  
quá trình vận động không ngừng và ngày một  
phát triển cao hơn (3). Theo Lê Quý Đôn, tuy  
quẻ Bí được gọi là “Văn” (văn hóa thành văn),  
nhưng lại được hiểu bao gồm hai công đoạn  
là “làm sách” (đúc rút kinh nghiệm từ quá trình  
lao động trước) và “đọc sách” (ứng dụng một  
cách sáng tạo những kinh nghiệm ấy vào quá  
trình lao động tiếp theo để thúc đẩy xã hội  
phát triển). Như thế là, để có cái văn sau phát  
triển hơn cái văn trước thì khái niệmVănphải  
là một tổ hợp “danh-động từ. Quẻ Bí (贲)  
trong sách Kinh Dịch có công thức:  
Lười thì không tiến bộ  
Siêng năng chắc thành công  
Các bạn cố gắng mãi  
Như thế là anh hùng  
(5, tập 10, tr.457).  
(Cần hữu công - Hý vô ích - Giới chi tai - Nghi  
miễn lực 勤有功-戲無益-戒之哉-宜勉力).  
Với nhận thức “xã hội luôn biến đổi, xã  
hội sau phát triển hơn xã hội trước” (5, tập 11,  
tr.238), chúng ta hiểu rằng, tuy xã hội tư bản  
chủ nghĩa còn nhiều khiếm khuyết, nhưng do  
sản xuất hàng hóa, “làm ra được cái khác với cái  
có sẵn trong tự nhiên” nên rất đáng để chúng  
ta học tập.  
2. Văn hóa phải “yên lòng dân”  
Cương nhu giao thác thiên văn dã, Văn minh  
dĩ chỉ nhân văn dã, Quan hồ thiên văn dĩ sát  
thời biến, Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên  
Nói tới khái niệm Văn hóa, người ta hay  
nhắc tới cụm từ “Yên lòng dân, tức phương  
pháp cai trị xã hội. Muốn yên lòng dân, việc  
đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho dân ấm  
hạ (柔交錯天文也,文明以止人文也,觀  
乎天  
no hạnh phúc (5, tập 4, tr.64). Hồ Chí Minh đã  
文以察变,觀  
乎人文以化成天下).  
nhắc lại câu nói của người xưa “Dân coi miếng  
ăn là trời” (Dân dĩ thực vi thiên - 民以食为)  
(5, tập 5, tr.553). Câu nói đó cũng giống như  
“ham muốn tột bậc” của Người là “làm sao để  
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học  
hành” (5, tập 4, tr.187). Người còn nói: “Có độc  
lập mà dân không có tự do hạnh phúc thì cũng  
là vô nghĩa(5, tập 4, tr.64).  
Công đoạnđọc sách(trong khái niệm Văn)  
mà Lê Quý Đôn nhắc tới bao gồm cả lao động  
chọn lựa kinh nghiệm tốt đẹp nhất, phù hợp  
nhất đã có, và sau đó phải vận dụng có hiệu  
quả nhất nhằm để thúc đẩy xã hội phát triển.  
Đó là một công đoạn vô cùng quan trọng, gọi  
là “Hóa.  
Dù là xã hội sản xuất nông nghiệp hay sau  
này là xã hội công nghiệp thì như Nguyễn Trãi  
đã nói: “Chỉ có văn trị mới đưa xã hội tới thái  
bình” (Văn trị chung tu đáo thái bình (文治终  
修到太平)(9, tr.289). Ý nghĩa lớn lao nhất của  
khái niệm “Văn trị” là quan tâm đến lợi ích của  
người dân, là có luật pháp nghiêm và minh  
(không thiên vị, không một ai được ngồi trên  
luật pháp). Mấy ngàn năm về trước, nhà triết  
học cổ đại phương Đông là Lão Tử đã chỉ ra:  
loài người đang làm trái đạo trời bởi người  
nghèo phải cung phụng người giàu. Nhìn ra  
mâu thuẫn rồi nhưng ông “không thể tự túm  
tóc mình nhấc lên”bởi ông đang sống ngập sâu  
trong xã hội bất công, vô lý ấy.  
Để có công đoạn quan trọng này, phải có  
quá trình tích lũy lâu dài và nghiêm túc. Thiền  
sư Viên Chiếu (999 - 1090) đã từng chê những  
người đọc sách mà không biết suy nghĩ và  
hành động hợp lý thì chẳng khác người mù  
ngắm trăng, người điếc nghe nhạc. Theo quy  
luật phủ định biện chứng thì không hẳn tất cả  
các kinh nghiệm đã có trong quá khứ đều bị  
coi là lạc hậu. Đồng thời cũng không thể nhất  
nhất đều “tin một cách mù quáng từng câu  
từng chữ có trong sách(5, tập 11, tr.98).  
Bác Hồ đã từng dịch lại bốn câu kết của  
sách Tam Tự Kinh - một cuốn sách của “phong  
kiến- như là những tiêu chí, những phẩm chất  
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời  
đại chúng ta:  
Cũng là xã hội sản xuất nông nghiệp nhưng  
ở nước ta, thực tế canh tác lúa nước trong điều  
kiện gió mùa đòi hỏi và bắt buộc mọi người  
6
Số 20 - Tháng 6 - 2017  
LÝ LUẬN VĂN HÓA  
phải gắn bó với nhau, nương tựa vào nhau  
mà sống. Trong bài thơ khắc trên “núi Truyền  
Đăng”(nay gọi là núi Bài Thơ) ở Quảng Ninh  
vào năm 1468, Lê Thánh Tông đã chỉ ra dân ta  
phải gắn bó với nhau như chân với tay, và phải  
tôn trọng chữ “thời”:  
Sách Kinh Dịch lý giải: Trong thế giới luôn  
vận động phát triển, thì “Văn” không đứng im,  
màcái Vănsau luôn phải tốt đẹp hơncái Văn”  
trước. Con người phải nhận thức được quy luật  
đó để hành động sao cho xã hội ngày càng tốt  
đẹp hơn.  
Tráng tâm sơ cảm hàm tam cổ,  
Tín thủ dao đề tốn nhị quyền  
(壯心初感咸三股  
Văn hóa không phải là “những thực thể có  
sẵn, mà là “quá trình nhận thức và hành động  
của con người nhằm: từ những cái tốt đẹp nhất  
đã và đang có, phấn đấu để vươn tới những cái  
tốt đẹp hơn cần phải có”!  
信取遙提巽二權)  
Phát huy truyền thống văn hóa dân tộc,  
tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, Hồ  
Chí Minh đã đặt mốc quan trọng trong việc  
nghiên cứu khái niệm văn hóa khi Người nói:  
“Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân,  
do dân và vì dân.  
Thế giới luôn vận động, phát triển nên Văn  
hóa cũng không thể đứng im, không thể bất  
biến. Sách Kinh Dịch đưa ra công thức vận  
động của Văn hóa là: Đem cái Dương lên làm  
Văn cho cái Âm. Đem cái Âm lại làm Văn cho  
cái Dương (Cương thượng nhi Văn Nhu. Nhu  
lai nhi Văn Cương (刚上而文柔。柔來而文刚).  
Hai yếu tố cơ bản mà Hồ Chí Minh nêu ra  
khi nghiên cứu văn hóa là: người dân lao động  
phát minh và sáng tạo, làm ra văn hóa như một  
quy luật tự nhiên “vì lẽ sinh tồn và phát triển.  
Còn xã hội có tốt đẹp hay không lại lệ thuộc  
vào việc “phương thức sử dụng” các thành quả  
lao động ấy có hợp lý hay không. Khi xã hội  
đã phát triển sang một giai đoạn mới mà “Văn  
hóavẫn được hiểu theo quan niệm xưa thì Hồ  
Chí Minh gọi là “đem cái nắp tròn đậy cái hộp  
vuông(5, tập 2, tr.562).  
Với nhận thức ấy, Phan Bội Châu đã hoán  
đổi vị trí của hai hào 2 và 6 của quẻ Thái |  
(7, tr.369), Ngô Tất Tố hoán đổi vị trí hai hào  
5 và 6 của quẻ Kí Tế (8, tr.325), để thành  
quẻ Bí là “cái tốt đẹp hơn cần phải có.  
Quẻ Thái có cấu tạo trên là Đất , dưới  
là Trời . Trời luôn bốc lên, Đất luôn lắng  
xuống nên chúng luôn gặp nhau để phát triển  
(như mùa xuân, như bình minh, như tuổi trẻ...).  
Quẻ Thái là “cái tốt đẹp nhất của trời đất,  
nhưng không hẳn khi có nó là mọi chuyện đều  
suôn sẻ. Năm nào chẳng có mùa xuân, nhưng  
có năm thuận mưa vừa nắng, mùa màng tốt  
tươi, có năm lụt chưa qua, hạn đã tới. Ai chẳng  
có tuổi trẻ, nhưng có người thành đạt, có người  
suốt đời đói khổ...  
3. Văn hóa luôn vận động và phát triển  
Hơn hai mươi năm trước, tôi đã thử vận  
dụng công thức tư duy nhị phân sơ khai để  
nghiên cứu văn hóa, giáo dục (1) trong xã hội  
phát triển. Đến nay khi đã có thêm nhiều tài  
liệu mới soi sáng, tôi muốn trở lại bàn thêm về  
vấn đề này. Các cụ Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu  
và Ngô Tất Tố đã hé mở ra hướng nghiên cứu  
văn hóa trong xã hội phát triển theo hình thức  
“xoáy trôn ốc đi lên.  
Quẻ Kí Tế 既濟 có cấu tạo trên là nước ,  
dưới là lửa . Lửa đốt nóng làm cho nước bốc  
hơi, tạo thành mây, mưa… là những điều kiện  
thiết yếu tạo nên sự sống. Quẻ Kí Tế cũng  
là biểu tượng của một xã hội cân bằng cả về số  
lượng lẫn chức trách mà tạo hóa đã ban phát  
và đòi hỏi cả nam và nữ phải tuân thủ.  
Lê Quý Đôn gọi quẻ Bí là Văn, là “Văn hóa  
thành văn” (làm và đọc  
sách), là cái đẹp (3).  
Quẻ Bí () có cấu tạo  
trên là núi (), dưới là lửa  
(☲). Lửa chiếu sáng (vừa  
phải) làm cho núi rạng rỡ  
hơn lên. Đó làlàm đẹp cho  
đời, là cái Văn.  
Tài nguyên có sẵn trong thiên nhiên, khai  
thác mãi rồi cũng cạn kiệt. Để có được “cái tốt  
đẹp hơn cần phải có, Văn hóa - Giáo dục phải  
được coi là “nguồn lựcđể phát triển xã hội.  
NGHIÊN CỨU  
Số 20 - Tháng 6 - 2017  
7
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Thậm chí, khi đọc sách, người đọc còn phải  
thấy những điều tác giả chưa thấy. Có thể nêu  
một vài ví dụ:  
Mở đầu sách Tam tự kinh có câu: Sinh tương  
cận, tập tương viễn (生相近,集相遠),có nghĩa  
là lúc mới sinh ra, con người ta tương đối giống  
nhau, nhưng quá trình học tập, rèn luyện làm  
cho người ta ngày một khác xa nhau (người  
giỏi người dốt, người giàu người nghèo).  
Khi kể chuyện Tây du ký, Hồ Chí Minh đã  
nhắc tới phẩm chất của Đường Tăng - người  
lãnh đạo” đoàn người đi xin kinh Phật - là đã  
“có quyết tâm sắt đá, thực hiện triệt để đến cùng  
mục tiêu đúng đắn đã đặt ra(4, tr.58).  
Sách Kinh Dịch chỉ ra ở quẻ Lữ có câu  
Trước cười sau khóc, nói về những kẻ mải rong  
chơi nên suốt đời đói khổ, về sau hối không kịp.  
Còn ở quẻ Đồng Nhân 同人lại có câu “Trước  
khóc sau cười, chỉ những người chịu thương  
chịu khó, “làm tận sức” (5, tập 15, tr.588) , “chắc  
sẽ thành công(5, tập 10, tr.457).  
Nhà Hán học Vũ Tôn Sán  
phát hiện ra trên bìa cuốn  
Đại Việt sử ký toàn thư của  
Nội các quan bản, chữ “Mậu  
() trong ch“Việt”đã được  
chấm thêm một dấu chấm  
Tư duy biện chứng chỉ ra rằng, không hẳn  
những cái trước đây được coi là tốt đẹp, ngày  
nay và mai sau vẫn mãi mãi được tôn vinh.  
Và, cũng không hẳn mọi kinh nghiệm mà loài  
người đã đúc kết được trong quá khứ, ngày  
nay đều bị coi là “lạc hậu. Đánh giá hơn hay  
kém phải căn cứ vào sự phát triển xã hội theo  
hình thức “xoáy trôn ốc đi lên, vòng sau phát  
triển cao hơn vòng trước. Cách mạng là sự  
phát triển, thay đổi về bản chất.  
để thành chữ “Tuất” là tuổi của Lý Công Uẩn,  
người dựng nên nhà nước độc lập đầu tiên sau  
hơn một ngàn năm Bắc thuộc.  
Trong 3 câu thơ thứ 1088 - 1090 của Truyện  
Kiều, Nguyễn Du cũng đã “kín đáo” nêu ra vấn  
đề này. Muốn hiểu thấu các di sản tư tưởng  
trong quá khứ, nhiều khi ta phải đặt mình  
trong không gian, tâm thức của người viết  
xưa. Chẳng hạn muốn hiểu thấu đáo hai câu  
thơ của Lê Thánh Tông viết trên đá núi Bài Thơ  
năm 1468 (đã dẫn ở trên), người đọc phải hiểu  
nghĩa ẩn đằng sau con chữ(5, tập 1, tr.461).  
Trong nền sản xuất nông nghiệp, con người  
sống dựa hoàn toàn vào số của cải có sẵn  
trong thiên nhiên thì lý thuyết “đại đồng” (chia  
đều cái nghèo) là tiến bộ. Bước sang nền sản  
xuất hàng hóa, làm ra “cái khác với cái có sẵn  
trong tự nhiên” để sống, thì nếu ai vẫn khăng  
khăng bênh vực thuyết“đại đồng, Hồ Chí Minh  
khẳng định đó là “phần tử phản cách mạng” (5,  
tập 2, tr.563).  
Điều đó chỉ ra rằng, trong sách còn có  
những lời “vô ngôn” hoặc “ý tại ngôn ngoại.  
Bởi thế trong “Tuyên ngôn của các Đảng cộng  
sảnF.Ăngghen mới nói, con chữ là một trong  
ba điều kiện giúp con người thoát khỏi thế giới  
dã man, tiến lên xã hội văn minh.  
Ngược lại, không hẳn cái gì “mới” (về mặt  
thời gian) cũng đều “hơn” cái trước đây, bởi  
trong những kinh nghiệm mà nhân loại đã  
chắt lọc và đúc kết ra, có nhiều cái đã là chân  
lý vĩnh cửu.  
Khi đã bước sang xã hội sản xuất hàng hóa,  
làm ra ikhác với cái có sẵn trong tự nhiênmà  
vẫn mong chỉ dùng đạo đức để quản lý xã hội  
(đức trị) là ảo tưởng.  
Quản lý xã hội ngày nay chủ yếu phải bằng  
luật pháp nghiêm minh trên cơ sở thể chế xã  
hội hợp lý, mọi người phải lao động sáng tạo  
hết mình, “tận sức” (5, tập 15, tr.588) và phân  
phối thành quả lao động hợp lý, “bình quân  
chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội” (5, tập  
10, tr.583).  
Nếu “Văn hóa” chỉ được hiểu là “bản tổng  
kết quá khứ” thì nó luôn luôn lạc hậu. Bởi vậy,  
khi dùng biểu tượng quẻ Bí để chỉ cái Văn,  
Lê Quý Đôn không chỉ nói là “làm sách” mà  
còn gọi là “đọc sách. Trong các câu đối (một  
hình thức văn rất cô đọng), cha ông ta cũng  
đã chỉ ra là đọc sách xưa cốt để hiểu nay: Thư  
pháp vị tất toàn sư cổ, Văn chương trọng tại  
năng thông kim 書法未必全师古,文章重在  
能通今(6, tr.215).  
4. Văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế -  
chính trị  
Trong Kinh Dịch (cuốn sách ra đời ít nhất đã  
hơn bốn ngàn năm trăm năm về trước), có quẻ  
8
Số 20 - Tháng 6 - 2017  
LÝ LUẬN VĂN HÓA  
thứ 64, quẻ cuối cùng trong chu kỳ phát triển  
thấp gọi là quẻ Vị Tế 未濟. Trong quẻ ấy có câu  
chuyện con cáo nhỏ muốn bơi qua sông (để  
chuyển lên chu kỳ phát triển cao hơn) nhưng  
lười biếng, cứ để cái đuôi dài lướt thướt của  
mình kéo lê thê trong nước, nên không thể  
nào bơi được qua sông. Câu chuyện ấy chỉ ra:  
ngày nay, chúng ta muốn chuyển đổi từ nền  
sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, lên nền sản  
xuất công nghiệp, sản xuất hàng hóa (hoặc  
gọi làcông nghiệp hóa nông nghiệp”) mà vẫn  
“siêng ăn biếng làm, thì giấc mơbỏ qua thời kì  
phát triển” nào đó (mà không tuân thủ những  
bước đi của sự phát triển tất yếu), thì cũng chỉ  
là điều ảo tưởng. Để thấm nhuần tư tưởng  
Hồ Chí Minh, khi Người nhấn mạnh đến việc  
phát triển sản xuất (tăng năng suất lao động)  
và phân phối thành quả lao động một cách  
hợp lý nhằm lo “miếng ăn” cho dân, chúng tôi  
thấy cần phải chú ý hơn nữa đến “phác thảo  
tư tưởng” của Ngô Tất Tố, khi ông chuyển đổi  
vị trí hào 2 và hào 3 của quẻ Tổn () để thành  
quẻ Bí () (8, tr.325). Chúng tôi thể hiện “phác  
thảonày trong hình vẽ sau:  
5 của quẻ Tổn () để thành quẻ Ích (); tiếp  
đến, chuyển đổi vị trí hào 3 và hào 5 của quẻ  
Ích () để thành quẻ Bí. Sự chuyển đổi này  
cũng phù hợp với hai công đoạn “hợp tác lao  
động” và “phân phối thành quả lao động hợp lý”  
trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.  
Khái niệm Văn hóa của Hồ Chí Minh đã  
nhấn mạnh yếu tố “phát minh và sáng tạo”  
cùng với “phương thức sử dụng hợp lý” thành  
quả của các phát minh và sáng tạo đó (5, tập  
3, tr.458).  
Tư tưởng “Văn hóa… không thể đứng ngoài  
mà phải đứng trong kinh tế và chính trị” của Hồ  
Chí Minh không hề hạ thấp vai trò của Văn hóa,  
mà ngược lại chính là trả lại cho Văn hóa vị trí  
cao cả và thiêng liêng vốn có.  
H.S.C  
(Nguyên giảng viên Khoa Quản lý Văn hóa  
- Nghệ thuật, Trường ĐHVH HN)  
Tài liệu tham khảo  
1. Hoàng Sơn Cường (2003), Văn hóa một góc  
nhìn, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.  
2.馮天攸(1991),河孝明,周迹明,-中华文  
化史,上海人民出版社.  
Quẻ Tổn ()có cấu tạo trên là núi () dưới  
là đầm lầy (). Đạo trời chỉ ra: phải đem phù  
sa từ trên núi rải xuống đầm lầy đích trên lợi  
dưới.  
3. Lê Quý Đôn (2007), Lời nói đầu thiên Nghệ  
văn chí, sách Lê triều thông sử, Ngô Thế Long  
dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
4. Trần Văn Giang (2004), Bác Hồ kể chuyện Tây  
du ký, In lần thứ 5, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.  
“Phác  
thảo  
tư  
tưởng” của Ngô Tất Tố  
là chuyển thẳng quẻ  
Tổn (損) sang quẻ Bí  
().  
5. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nxb. Sự thật  
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.  
6. Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam, Phạm Đức  
Duật (2009), Hoành phi câu đối Hán - Nôm tinh  
tuyển, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
Ý nghĩa của sự “chuyển” này là để tạo sự  
hài hòa giữa “núi” và “đầm lầy, trong cái nọ,  
có cái kia. Điều này phù hợp với tư tưởng Hồ  
Chí Minh:Văn hóa… phải nằm trong kinh tế và  
chính trị. Trong bức thư gửi triển lãm mỹ thuật  
năm 1951, Hồ Chí Minh đã nêu ra một triết lý  
văn hóa. Triết lý ấy được thể hiện trong cách  
“định nghĩa” có một không hai về mô hình xã  
hội lý tưởng: “Có thực mới vực được đạo. Đó  
là chủ nghĩa duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa  
Mác - Lê nin (5, tập 5, tr.553).  
Trong mô hình xã hội lý tưởng, Hồ Chí Minh  
còn chỉ rõ: “Chủ và thợ phải hợp tác với nhau  
trong lao động để cùng có lợi” (5, tập 5, tr.124).  
Trong hình vẽ trên, chúng tôi đề xuất thêm:  
trước hết phải chuyển đổi vị trí hào 2 và hào  
7. Chương Thâu (1992), Phan Bội Châu toàn  
tập, tập 7, Nxb. Thuận Hóa, Huế.  
8. Ngô Tất Tố (1995), Kinh Dịch trọn bộ, Nxb.  
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.  
9. Nguyễn Trãi Toàn tập (1976), Nxb. Khoa học  
xã hội.  
Ngày nhận bài: 5 - 1 - 2017  
Ngày phản biện, đánh giá: 14 - 6 - 2017  
Ngày chấp nhận đăng: 30 - 6- 2017  
NGHIÊN CỨU  
Số 20 - Tháng 6 - 2017  
9
V
ĂN H Ó  
A
pdf 5 trang yennguyen 21/04/2022 840
Bạn đang xem tài liệu "Bàn thêm về khái niệm văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfban_them_ve_khai_niem_van_hoa.pdf