Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC ĐỀN THỜ CẤP QUỐC GIA  
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH THANH HÓA  
NCS. Hà Đình Hùng  
Tóm tắt: Trong số các kiến trúc mang tính thờ tự tại xứ Thanh, có lẽ đền thờ  
được xem là loại hình có tính tiêu biểu, tập trung nhiều hơn cả. Không ít các đền thờ ở  
Thanh Hóa còn được xem là những công trình nghệ thuật kiến trúc - chạm khắc gỗ  
truyền thống hội tụ nhiều giá trị như đền thờ Lê Hoàn (Thọ Xuân), đền thờ Thái úy Lý  
Thường Kiệt (Hà Trung), đền thờ Tô Hiến Thành, đền thờ Triệu Việt Vương, nghè  
Nguyệt Viên (Hoằng Hóa), nghè Giáp (Triệu Sơn), đền thờ Trần Khát Chân (Vĩnh  
Lộc),... Những công trình kiến trúc này, đặc biệt là hệ thống các đền thờ cấp quốc gia,  
đã được nhà nước xếp hạng, còn vẹn nguyên giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ  
thuật là những nguồn liệu rất đáng quý để khai thác, phát triển du lịch.  
Từ khóa: xứ Thanh, đền thờ, giá trị, phát triển du lịch  
Đặt vấn đề  
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, với số lượng di tích dày đặc, theo thống kê cho thấy  
có trên 1.535 di tích thuộc đủ các loại hình, trong đó số di tích đền thờ chiếm số lượng  
đáng kể. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay tại Thanh Hóa có khoảng 70  
đền thờ cấp quốc gia được nhà nước xếp hạng2. Có thể nói, số các di tích được xếp hạng  
cấp quốc gia luôn rất ít và quý giá trên nhiều bình diện, lẽ dĩ nhiên đây là nguồn lực có  
thể tham gia tốt vào hoạt động du lịch.  
1. Hệ thống đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa  
Số liệu thống kê dựa trên các đền thờ ở Thanh Hóa được xếp hạng tạm tính đến  
tháng 12/2016, toàn tỉnh Thanh Hóa có 249 đền thờ được nhà nước xếp hạng thì có  
khoảng 70 đền thờ cấp quốc gia. Theo Luật Di sản văn hóa và phân cấp di tích thì di  
tích cấp quốc gia là những công trình, địa điểm có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học và  
thẩm mỹ tiêu biểu toàn quốc, được xếp hạng nhằm gìn giữ, phát huy đúng mức phục vụ  
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Tại Thanh Hóa, trong số 27  
huyện, thị, thành phố thì mới có 15 địa phương có di tích đền thờ cấp quốc gia, gồm:  
Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Tĩnh Gia, Hà Trung, Hoằng Hóa, Nga Sơn, Hậu Lộc,  
Phòng Quản lý Khoa học, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
2 Thống kê số liệu dựa trên hồ sơ đề tài cấp tỉnh “Nghiên cứu các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị lịch  
sử - văn hóa của hệ thống đền thờ ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” do Trường Đại học Văn hóa,  
Thể thao và Du lịch Thanh Hóa chủ trì  
62  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Bỉm Sơn, Nông Cống, Yên Định, Quảng Xương, Sầm Sơn, Đông Sơn và thành phố  
Thanh Hóa. Trong số 70 đền thờ cấp quốc gia tại Thanh Hóa thì số đền có thờ nhân vật  
lịch sử chiếm đại đa số với các nhân vật tiêu biểu mang tầm quốc gia trải dài từ thời kỳ  
Bắc thuộc đến phong kiến tự chủ cho đến thời kỳ cận đại như: An Dương Vương, Bà  
Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Lai, Triệu Việt Vương, Tô Hiến Thành, Lê Phụng Hiểu,  
Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Trần Khát Chân, Đào Duy Từ, Quang Trung, Tống  
Duy Tân, Cao Bá Điển, Nguyễn Quán Nho,... Một số ít các đền thờ cấp quốc gia có  
nguồn gốc thờ thần tự nhiên, chiếm số lượng tương đối ít ỏi như đền Lạch Bạng, đền Du  
Xuyên ở Tĩnh Gia; Nghè Vích ở Hậu Lộc; đền Trung, đền Thượng ở Nga Sơn; đền  
Sòng, đền Chín giếng, đền Cây vải ở thị xã Bỉm Sơn; đền Đồng Cổ ở Yên Định; đền  
Độc Cước, Cô Tiên ở thành phố Sầm Sơn,...  
Từ những phân tích trên cho thấy, số lượng các đền thờ cấp quốc gia có giá trị  
cao về mặt lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật ở Thanh Hóa chủ yếu là thờ các nhân  
vật lịch sử, phổ biến từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ thứ XIX. Trong đó đặc biệt lưu ý, số  
đền thờ thần linh nam giới chiếm đại đa số và gần như toàn bộ, ngoại trừ một số ngoại  
lệ như Bà Triệu và các thần mẫu được huyền thoại hóa trong dân gian như Cô Tiên,  
Thánh Mẫu,...  
Các đền thờ có quy mô kiến trúc lớn như đền Bà Triệu (Hậu Lộc), đền Lê Hoàn  
(Thọ Xuân), Thái miếu nhà Hậu Lê (thành phố Thanh Hóa), đền Sòng (Bỉm Sơn), đền  
Nưa (Triệu Sơn) hoặc có giá trị kiến trúc nghệ thuật độc đáo như đền Trần Khát Chân  
(Vĩnh Lộc), Nghè Vích (Hậu Lộc), đền thờ Nguyễn Văn Nghi (Đông Sơn), Phủ Trịnh -  
Nghè Vẹt (Vĩnh Lộc), đền Độc Cước (thành phố Sầm Sơn), đền thờ Hoàng Bùi Hoàn  
(Quảng Xương), đền Lạch Bạng (Tĩnh Gia), đền Đồng Cổ (Yên Định), đền thờ Mãn  
Quận Công (thành phố Thanh Hóa),...  
Rõ ràng với giá trị lịch sử - văn hóa tiêu biểu, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục  
truyền thống cũng như giá trị thẩm mỹ của công trình kiến trúc, cảnh quan, sinh thái,  
môi trường, các đền thờ cấp quốc gia tại Thanh Hóa có khả năng lớn để hòa vào dòng  
chảy đương đại, phục vụ tốt hoạt động du lịch, góp phần không nhỏ đưa ngành du lịch  
của tỉnh đi lên.  
2. Thực trạng khai thác các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch  
ở Thanh Hóa  
Xác định được vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua,  
Thanh Hóa đã có nhiều chủ trương, quyết sách nhằm phát huy lợi thế vị trí địa lý, các  
giá trị văn hóa - lịch sử của địa phương để phát triển ngành “công nghiệp không khói”.  
 y ban Nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2218/QĐ-UBND năm 2009 phê duyệt  
63  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
dự án “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm  
2020”; Quyết định số 492/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt “Chiến lược phát triển du  
lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đây là những cơ sở pháp  
lý quan trọng để thúc đẩy du lịch Thanh Hóa phát triển thành khu du lịch trọng điểm  
quốc gia.  
Nhận thức, trách nhiệm và ý thức giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa để  
phát triển du lịch của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao, góp phần xây dựng  
môi trường du lịch thân thiện. Nhiều kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ phát triển kinh  
tế - xã hội gắn với phát triển du lịch được triển khai thi công mới hoặc sửa chữa. Một số  
di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, các lễ hội văn hóa truyền thống trên địa  
bàn tỉnh được đầu tư tôn tạo, nâng cấp, tổ chức mở rộng,... Thanh Hóa cũng liên kết,  
phối hợp với các tỉnh trong khu vực để phát triển du lịch; từng bước hình thành các  
tuyến, điểm du lịch thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Trong 7 tháng đầu  
năm 2016, Thanh Hóa đón được 4.879.000 lượt khách, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm  
2015, đạt 78,1% kế hoạch năm 2016; tổng thu từ khách du lịch ước đạt 5.207 tỷ đồng,  
tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2015, đạt 83,3 % kế hoạch năm 2016. Chỉ tiêu kế hoạch  
5 tháng cuối năm 2016 đề ra với tổng lượt khách đón là 1.371.000 lượt khách, tăng  
7,1% so với cùng kỳ năm 2015; tổng thu từ du lịch là 1.043 tỷ đồng, tăng 7,6% so với  
cùng kỳ năm 20153.  
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc khai thác tiềm năng lợi thế các di tích  
lịch sử, văn hóa, danh thắng để phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thời gian  
qua còn một số hạn chế, tốc độ còn chậm, thiếu tính bền vững; lượng khách du lịch đến  
tham quan các di tích lịch sử, văn hóa còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng  
hiện có; việc kêu gọi thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, công tác quản lý bảo vệ các di  
tích lịch sử, văn hóa, danh thắng tại các địa phương trong tỉnh còn nhiều bất cập; nhiều  
di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng có tiềm năng lớn về du lịch chưa được đầu tư khai  
thác. Thanh Hóa có số lượng di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng lớn, nhiều di tích có  
giá trị lịch sử, văn hóa nhưng việc lập hồ sơ khoa học đề nghị cấp thẩm quyền công  
nhận xếp hạng tiến hành còn chậm; chưa có sự phối hợp đồng bộ, thường xuyên giữa  
tỉnh, huyện và các địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa  
nên tình trạng lấn chiếm đất đai, xâm hại di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng vẫn còn  
xảy ra ở nhiều địa phương. Công tác thanh kiểm tra còn bất cập nên chưa có biện pháp  
3 Nội dung cuộc họp Ban chỉ đạo Phát triển du lịch tỉnh Thanh  
64  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
xử lý để chấm dứt tình trạng vi phạm này. Các thủ tục hành chính liên quan đến hợp tác  
đầu tư xây dựng và phát triển du lịch theo hướng bền vững còn gặp nhiều khó khăn.  
Trong thời gian qua có thể thấy một số đền thờ cấp quốc gia được khai thác tốt  
phục vụ du lịch do nằm trong không gian tổ chức ở 6 điểm du lịch lớn gồm: Khu du lịch  
biển Sầm Sơn, Vườn quốc gia Bến En, Lam Kinh, đền Bà Triệu, Thành Nhà Hồ và  
Không gian văn hóa du lịch Hàm Rồng thuộc quy hoạch điều chỉnh phát triển tổng thể  
du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Mặc dù, tỉnh Thanh Hóa đã quy hoạch các tuyến  
du lịch nội tỉnh theo địa lý, phương tiện nhưng khả năng để các đền thờ cấp quốc gia  
thâm nhập vào hệ thống tuyến du lịch cố định và có tính hiệu quả cao hầu như chưa  
được hiệu quả.  
Có nhiều nguyên nhân trong đó hạ tầng giao thông là hạn chế chủ yếu, ngoài ra,  
sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch, xét theo khía cạnh sự hiếu kỳ, lôi cuốn do chính di  
tích tạo nên vẫn chưa được chú trọng. Đơn cử như một số di tích quốc gia thuộc hệ  
thống di tích vệ tinh của 6 tổ chức du lịch điểm của tỉnh ở Sầm Sơn, Vĩnh Lộc, Thọ  
Xuân, Hậu Lộc, Nông Cống, thành phố Thanh Hóa như đền Độc Cước, đền thờ Lê Thái  
Tổ, đền Trần Khát Chân, đền Nưa, Nghè Vích ở các địa phương kể trên, việc phát triển  
du lịch ở các di tích này hoàn toàn chưa chủ động, nặng tính tự phát, chưa tạo ra được  
sản phẩm du lịch độc đáo, du khách chủ yếu dừng chân tham quan do nằm trong quần  
thể của tổ chức không gian du lịch, có nơi du khách hoàn toàn không dừng chân như  
đền Nưa (đi Bến En) hay Nghè Vích (đi đền Bà Triệu),...  
Tại một số khu điểm di tích ở Huế, khả năng kết nối và tự tạo sự hấp dẫn, độc  
đáo riêng cho điểm di tích là rất cao. Ngoài bản thân công trình di tích (gồm đơn nguyên  
kiến trúc, di vật, đồ thờ, văn tự, cổ thụ,...) thì những huyền thoại, giai thoại, chuyện kể  
có liên quan (hoặc có sẵn từ tư liệu lịch sử hoặc truyền ngôn) đều được lồng ghép khéo  
léo để tăng sức hấp dẫn cho di tích. Những điểm này, hầu như các di tích nói chung ở  
Thanh Hóa còn chưa được chú trọng, riêng hệ thống đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa  
thì việc tạo ra sản phẩm du lịch hỗ trợ từ các huyền tích, huyền thoại, chuyện kể còn rất  
mờ nhạt. Đây là một thiếu sót rất đáng bàn. Bởi lẽ, với công trình kiến trúc được gìn giữ  
tương đối nguyên vẹn, có giá trị cao về thẩm mỹ (vẻ đẹp kiến trúc, sự hấp dẫn giữa tổng  
thể kiến trúc, cảnh quan và môi trường), nhân vật được thờ có tính tiêu biểu mang tầm  
vóc quốc gia thì tại sao di tích lại ít người biết đến, chưa trở thành điểm du lịch hấp dẫn,  
lôi cuốn. Nhìn sang một số địa phương trong nước như Ninh Bình, Huế, Nghệ An ta  
thấy rằng, để di tích trở thành điểm du lịch thì bản thân sự nguyên vẹn của công trình là  
chưa đủ, nó còn cần sự sáng tạo của người làm văn hóa và người làm du lịch, thổi hồn  
vào để di tích được “sống”.  
65  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Trong số khoảng 70 đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa hiện nay, số đền thờ  
đang trở thành điểm du lịch đúng nghĩa không nhiều, thậm chí rất ít so với số lượng  
hiện có và có sự mâu thuẫn lớn giữa giá trị to lớn, nhiều mặt và khả năng khai thác thực  
tế trong du lịch. Có thể kể đến một số di tích như đền Độc Cước, đền Cô Tiên, đền Tô  
Hiến Thành, đền Bà Triệu, đền Nưa, đền Sòng, đền Lê Lợi, Thái miếu nhà Lê,... có số  
lượng người thăm viếng đông do nằm trong không gian du lịch nổi tiếng hay hoạt động  
hành hương, tâm linh của nhân dân hằng năm. Khả năng để trở thành điểm du lịch độc  
lập hầu như không khả thi.  
Ngoài những thực trạng trên, sự quảng bá các di tích đền thờ cấp quốc gia này  
tại Thanh Hóa cũng chưa được chú trọng. Mặc dù nhân vật được thờ mang tầm vóc  
quốc gia, di tích đền thờ được giới nghiên cứu đánh giá cao về các mặt lịch sử, văn hóa,  
nghệ thuật, tâm linh,... nhưng hầu như chỉ người địa phương biết, chưa có sự quảng bá  
rộng rãi để du khách trong nước quan tâm tìm đến, đây là một hạn chế. Qua khảo sát các  
đền thờ cấp quốc gia phục vụ nghiên cứu đề tài, thực trạng chung cho thấy, chính quyền  
các địa phương trong tỉnh, địa bàn có di tích đền thờ cấp quốc gia mới chú trọng nhiều  
đến công tác bảo vệ (cử người địa phương trông coi, gìn giữ; duy trì tế lễ, lễ hội và các  
nghi thức tâm linh liên quan đến di tích...), chưa có biện pháp, chính sách cụ thể để  
quảng bá di tích hay xây dựng sản phẩm du lịch từ di tích. Dẫn đến nhiều nơi hoạt động  
du lịch còn “ngủ yên” chưa được đánh thức.  
3. Đề xuất một số giải pháp góp phần phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc  
gia tại Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch  
Để phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia tại Thanh Hóa phục vụ phát triển du  
lịch tỉnh, thời gian tới Thanh Hóa cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau:  
Một là, tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 2218/QĐ-UBND năm 2009  
phê duyệt dự án “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hoá đến  
năm 2020”; Quyết định số 492/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt “Chiến lược phát triển  
du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đây là cơ sở pháp lý  
quan trọng để các cấp, ngành chức năng và chính quyền địa phương có kế hoạch bảo  
tồn, tôn tạo, khai thác thế mạnh, tiềm năng của di tích cho phát triển du lịch. Làm tốt  
công tác tổng kết đánh giá, kiến nghị cấp thẩm quyền kịp thời giải quyết, điều chỉnh  
những tồn tại, hạn chế, vướng mắc khi triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp  
luật của  y ban Nhân dân tỉnh về phát triển du lịch tại địa phương.  
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân  
về giá trị của các đền thờ cấp quốc gia và vai trò của nó trong công tác giáo dục truyền  
thống cũng như trong hoạt động khai thác, phát triển du lịch. Tăng cường hoạt động  
66  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
quảng bá về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, tâm linh của hệ thống đền thờ  
cấp quốc gia ở Thanh Hóa trên các phương tiện truyền thông, các hội chợ, triển lãm du  
lịch lớn trong tỉnh, khu vực và toàn quốc. Các hoạt động quảng bá này phải hướng tới  
tính chuyên nghiệp cao.  
Ba là, tập trung triển khai thi công mới, sửa chữa một số kết cấu hạ tầng quan  
trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với phát triển du lịch. Đầu tư tôn tạo, nâng  
cấp một số đền thờ cấp quốc gia có giá trị tiêu biểu, thẩm mỹ cao, đủ yếu tố cấu thành  
trọn vẹn sản phẩm du lịch độc đáo gồm vật thể và phi vật thể (tức là công trình kiến trúc  
nguyên vẹn, thẩm mỹ và các huyền tích, huyền thoại độc đáo có liên quan).  
Bốn là, triệt để phát huy yếu tố huyền thoại, huyền tích độc đáo thuộc các đền  
thờ cấp quốc gia trong tỉnh như đền thờ Lê Lợi trong quần thể Khu di tích quốc gia đặc  
biệt Lam Kinh ở Thọ Xuân gắn với công nghiệp khai sáng vương triều Lê sơ và đánh  
đuổi giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn thế kỷ XV. Đền Độc Cước ở Sầm Sơn gắn với  
huyền thoại về dấu chân người khổng lồ bảo vệ dân biển; đền thờ An Dương Vương về  
tính bi tráng cha - con; chồng - vợ gắn với biến cố, cơ đồ quốc gia; sự bi thương trong  
vụ án đảo chính bất thành ở thành Tây Đô gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp anh dũng  
của Thượng tướng Trần Khát Chân; huyền thoại về giấc mộng thần trống Đồng ở đền  
Đồng Cổ. Tái hiện sức mạnh vô song của người anh hùng “thác đao” Lê Phụng Hiểu  
hay những suy tư, tâm sự thời thế của người anh hùng tha phương Đào Duy Từ,... Có  
thế mới làm cho di tích tăng sức hấp dẫn, lôi cuốn khách du lịch.  
Năm là, từ thực tế quản lý và khai thác tiềm năng, thế mạnh các di tích lịch sử,  
văn hóa, danh thắng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua; các cấp chính quyền địa  
phương và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tiếp tục đề xuất cơ chế, chính sách,  
kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, giải pháp bảo vệ các di tích đền thờ cấp  
quốc gia thiết thực và hiệu quả hơn nữa. Đã đến lúc, cấp ban ngành của tỉnh và chính  
quyền các địa phương trong tỉnh phải nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, thực chất, nếu coi  
hệ thống di tích là xương sống để quy hoạch, khai thác du lịch thì các di tích cấp quốc  
gia, trong đó có hệ thống đền thờ cấp quốc gia phải được coi là báu vật di sản cần bảo  
vệ ưu tiên.  
Sáu là, chú trọng thu hút nguồn lực từ công tác xã hội hóa hoạt động du lịch để  
đầu tư, khai thác, phát huy tiềm năng lợi thế từ các đền thờ cấp quốc gia nhằm phát triển  
các sản phẩm du lịch mang đặc trưng văn hóa địa phương, tăng cường sức quảng bá,  
làm đòn bẩy phát triển du lịch toàn tỉnh.  
Xã hội hóa hoạt động du lịch tại Thanh Hóa là xu thế tất yếu, nhưng để hoạt  
động này có hiệu quả và được tiến hành nhanh chóng phải khơi dậy sức dân. Để nguồn  
67  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
lực trong dân trở thành hiện thực phải phổ biến rộng rãi việc quy hoạch phát triển du  
lịch trên địa bàn tỉnh, phải làm rõ giá trị nhiều mặt của các đền thờ cấp quốc gia cho  
nhân dân biết, nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của toàn xã hội về lợi ích của  
phát triển du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tiếp đến là sự  
hướng dẫn và quản lý hoạt động du lịch của ngành chức năng phải xuất phát từ điều kiện  
cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà chế định các quy tắc rõ ràng, phù hợp với quy hoạch chung  
của tỉnh và điều kiện thực tế của vùng, miền. Khuyến khích người dân gìn giữ, sưu tầm,  
bảo vệ các giá trị văn hóa phi vật thể có liên quan đến các đền thờ cấp quốc gia này, bởi  
chúng góp phần làm trọn vẹn hơn nữa hình ảnh và giá trị nhiều mặt của di tích.  
4. Kết luận  
Hệ thống đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa là tài sản tinh thần, nhân văn to lớn,  
thể hiện truyền thống lịch sử văn hóa đáng quý và tự hào của địa phương. Trên thực tế,  
hệ thống các đền thờ này tập trung nhiều giá trị và nếu thực hiện đồng bộ công tác bảo  
tồn, gìn giữ cũng như sưu tầm bổ sung các giá trị liên quan, chủ yếu là giá trị phi vật thể  
gắn với di tích, được quy hoạch phát triển du lịch rõ ràng, khoa học trên cơ sở giải quyết  
hài hòa giữa bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch thì hiệu quả khai thác, phát huy trong  
hoạt động du lịch sẽ rất bền vững; vừa góp phần nâng cao đời sống kinh tế cho nhân  
dân, vừa góp phần quảng bá hình ảnh xứ Thanh trong mắt bạn bè trong nước và quốc tế.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. Lê Xuân Giang, Lê Xuân Kỳ, Lê Ngọc Tạo, Lê Văn Viện (2013), Di tích họ  
Lê trên đất Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.  
[2]. Hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt khu Lam Sơn - Lam Kinh -  
Thanh Hóa (2012), Lý lịch di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh huyện Thọ  
Xuân, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.  
[3]. Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa (2014), Thanh Hóa xưa và nay, số 5,  
tháng 7, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.  
[4]. Quyết định số 247/QĐ-UBND ngày 27/01/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh  
Thanh Hóa về việc phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư bảo quản, tu bổ  
và phục hồi quần thể di tích Bà Triệu, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.  
[5]. Quyết định số 3667/QĐ-UBND ngày 07/11/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh  
Thanh Hóa về việc phê duyệt Đề cương quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững rừng  
đặc dụng Khu di tích lịch sử văn hóa đền Bà Triệu đến năm 2020.  
68  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
PROMOTING THE VALUES OF NATIONAL TEMPLES  
TO SERVE TOURISM DEVELOPMENT IN THANH HOA  
Ha Dinh Hung, Ph.D student  
Abstract: Among the worshiping structures in Thanh land, temples are  
considered the most typical. Many temples such as Le Hoan Temple (Tho Xuan), Ly  
Thuong Kiet Temple (Ha Trung), To Hien Thanh Temple, Trieu Viet Vuong Temple  
(Hoang Hoa), Giap Temple (Trieu Son), Tran Khat Chan Temple (Vinh Loc), etc… are  
considered as architectural works with traditional wood carvings. These buildings,  
especially national temples, which have been ranked by the State, still have their  
historical, cultural, architectural and artistic values as very valuable sources for  
tourism development.  
Key words: Thanh land, temple, value, tourism development  
(Người phản biện: TS. Lê Thị Thảo; ngày nhận bài: 25/8/2017; ngày gửi phản biện  
30/8/2017; ngày duyệt đăng 30/12/2017)  
69  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 660
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_gia_tri_cac_den_tho_cap_quoc_gia_phuc_vu_phat_trien.pdf