Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ triều nguyễn thế kỷ XIX
60
CHUYÊN MỤC
SỬ HỌC - KHẢO CỔ HỌC - DÂN TỘC HỌC
ĐÓNG GÓP
CỦA LÊ THỌ XUÂN TRONG NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ NAM BỘ TRIỀU NGUYỄN THẾ KỶ XIX
LƯU HỒNG SƠN*
MAI THỊ MỸ VỊ**
Lê Thọ Xuân (1904 - 1978) là nhà nghiên cứu tiêu biểu ở Nam Bộ về lịch sử triều
Nguyễn. Bài viết nhằm tìm hiểu những đóng góp của ông trong nghiên cứu về
lịch sử Nam Bộ triều Nguyễn trên ba phương diện: phương pháp, sử liệu và sử
luận. Về phương pháp nghiên cứu, ông kết hợp giữa phương pháp sử học
truyền thống và phương pháp thực chứng hiện đại, nghiên cứu lịch sử trên nền
tảng địa lý và địa danh, kết hợp khảo cứu sử liệu với khảo sát thực địa, chuyên
về nghiên cứu vi mô. Về sử liệu, ông sưu tầm, phát hiện, tái phát hiện nhiều tài
liệu quan trọng, đồng thời phê phán, đính chính một số sử kiện đã bị sử dụng,
diễn giải sai lạc, dẫn đến hiểu nhầm. Về sử luận, dựa trên cơ sở vững chắc về
phương pháp và sử liệu, ông đã đưa ra những đánh giá, nhận định có sức
thuyết phục cao, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử và sử học Nam Bộ thế kỷ XIX.
Từ khóa: Lê Thọ Xuân, lịch sử Nam Bộ thế kỷ XIX, phƣơng pháp, sử liệu, sử luận
Nhận bài ngày: 28/9/2020; đưa vào biên tập: 30/9/2020; phản biện: 3/10/2020;
duyệt đăng: 24/10/2020
1. DẪN NHẬP
đƣợc công bố trên tạp chí Tri Tân, Đại
Việt tập chí, Sử Địa, Đồng Nai văn tập;
còn giai đoạn (2) dành riêng cho lịch
sử đƣơng đại với các hoạt động báo
chí đấu tranh giành độc lập dân tộc và
thống nhất đất nƣớc, đăng chủ yếu
trên Việt Báo, Sông Hương. Bài viết
tập trung bàn về những đóng góp trong
nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn trên
Sự nghiệp sử học của Lê Thọ Xuân
chia làm 3 giai đoạn khá rõ rệt: (1) Từ
1945 về trƣớc, (2) 1945-1954, (3) sau
1954. Trong đó giai đoạn (1) và (3) chủ
yếu là các nghiên cứu về thời Nguyễn
* Bảo tàng tỉnh Gia Lai.
** Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
61
ba phƣơng diện: phƣơng pháp, sử liệu tạo nên những chuyển biến mang tính
và sử luận(1) của giai đoạn (1) và (3).
bƣớc ngoặt trong nghiên cứu lịch sử
ở Việt Nam. Phƣơng pháp mới giống
phƣơng pháp cũ ở chỗ cũng chú trọng
tài liệu, nhƣng chuyển hƣớng vào các
nghiên cứu vi mô nhƣ các vấn đề cụ
thể, lịch sử địa phƣơng, tiểu sử nhân
vật, một sự kiện nào đó và có tính liên
ngành cao, các nghiên cứu này đƣợc
thực hiện bởi các sử gia tự do, đƣợc
phổ biến rộng rãi trên sách báo quốc
ngữ.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ CỦA LÊ THỌ XUÂN
Khác biệt quan trọng giữa nghiên cứu
lịch sử theo cách cũ và nghiên cứu
lịch sử theo cách mới thể hiện rõ nhất
ở phƣơng pháp. Bởi phƣơng pháp sẽ
quyết định cách sƣu tầm, phê bình sử
liệu, đồng thời cũng quyết định cách
đánh giá các vấn đề lịch sử của sử gia
(sử luận). Ngay từ lúc sử học hiện đại
ở Việt Nam hình thành, Vũ Ngọc Phan
(1936: 2) đã đánh giá cao vai trò nền
tảng của phƣơng pháp: “Về sử học,
nếu không biết phƣơng pháp, không
thể nào sƣu tầm và cũng không thể
nào phê bình đƣợc”.
Có thể chia phƣơng pháp nghiên cứu
lịch sử từ cổ xƣa đến nay thành hai
trƣờng phái chính: Phái trọng sử liệu
và phái trọng sử luận. Phái trọng sử
liệu nhƣ chủ nghĩa thực chứng đề cao
tính khách quan trong nghiên cứu lịch
sử, nỗ lực đến mức cao nhất trong
việc tìm kiếm sử liệu và bao quát tài
liệu với tham vọng tái hiện diện mạo
chân thực của sự thực, và nhƣ thế
giúp cho những nhận định đánh giá
của sử gia trở nên đáng tin cậy, có giá
trị. Phái trọng sử luận cũng xuất phát
từ cơ sở tôn trọng sử liệu, nhƣng nghi
ngờ tính khách quan và tính toàn diện
của sử liệu, mà quan tâm nhiều hơn
đến những đánh giá, nhận định của
các sử gia, nhất là khi sử học phát
triển đến giai đoạn bão hòa hay bình
đẳng về tƣ liệu. Lúc này các sử gia
cùng tiếp cận một khối sử liệu nhƣ
nhau, vì vậy cái khác biệt cũng nhƣ
giá trị trong nghiên cứu giữa các sử
gia lúc này không phải là vấn đề sử
liệu, mà là vấn đề sử luận.
Phƣơng pháp sử học của Lê Thọ
Xuân đƣợc thể hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất là kết hợp phương pháp
nghiên cứu truyền thống với phương
pháp nghiên cứu hiện đại.
Phƣơng pháp truyền thống trong sử
học Việt Nam là cách nghiên cứu lịch
sử dựa trên việc sắp xếp các sử liệu
theo biên niên, lấy sử học Trung
Quốc làm khuôn mẫu và chú trọng
vào các công trình vĩ mô do các sử
quan thực hiện bằng văn tự chính
thức là chữ Hán, phạm vi phổ biến
hạn hẹp trong giới hoàng tộc, quan
lại, trí thức. Phƣơng pháp hiện đại
trong sử học Việt Nam bắt đầu xuất
hiện khi Việt Nam tiếp xúc với văn
hóa phƣơng Tây từ cuối thế kỷ XIX
và đến đầu thế kỷ XX lan rộng thành
một phong trào mang tính xã hội và
Sử học Việt Nam lúc bấy giờ đang nỗ
lực tìm kiếm, xây dựng cơ sở sử liệu,
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
62
vì thế các nghiên cứu của Lê Thọ của mình. Đọc các bài khảo cứu của
Xuân chú trọng sử liệu theo khuynh ông, dù viết về nhân vật, sự kiện hay
hƣớng sử học thực chứng. Điều này
cũng đƣợc các sử gia Việt Nam trƣớc
Lê Thọ Xuân và cùng thời với ông
khẳng định. Nhƣ ý kiến của Trƣơng
Vĩnh Ký (1875: 2) trong lời nói đầu
sách Cours d'histoire annamite (Bài
giảng lịch sử An Nam): “Nói tắt một lời,
ta muốn làm ích cho anh em, chớ chi
ƣớc làm vậy mà đƣợc nhƣ làm vậy...
Đến sau, khi anh em học đã thành tài,
biết bắt biết hạch đƣợc, thì xin hãy
dong thứ cho kẻ lớp trƣớc anh em, vì
những kẻ ấy thuở trƣớc chẳng có
đƣợc những phƣơng tiện mà học
hành nhƣ anh em bây giờ”; hay ý kiến
của Nguyễn Thiệu Lâu (1916-1967)
trong bài viết Muốn được một bộ sử
đúng mà đọc (báo Thanh Nghị, số
61/1941): “Viết bằng tiếng mẹ đẻ, kê
cứu theo phƣơng pháp khoa học”, “từ
đầu thế kỷ 17 đến khi ngƣời Pháp
sang Đông Dƣơng, tôi chắc chắn là
sử liệu của ta thiếu và sai nhiều lắm”,
“sự khảo cứu sử học của ta, hiện giờ,
còn đang ở thời kỳ tìm kiếm sử liệu:
chỉ có thể kiến thiết khi đã đủ vật hạng,
mà chỉ nên khảo cứu từng vấn đề một,
từng thời đại một” và ông cho rằng ít
nhất “năm bảy chục năm” sau “ta mới
có thể biết sử ta một cách đầy đủ,
khoa học”, “đƣờng đi rất xa, phải
nhiều ngƣời hăng hái, chịu khó mà
theo. Không phải một đời ngƣời hay
một nhóm ngƣời mà tới đích đƣợc,
phải từng thế hệ nối nhau mà theo”.
Lê Thọ Xuân trung thành với phƣơng
pháp thực chứng theo hƣớng cụ thể,
chi tiết trong suốt sự nghiệp sử học
địa danh, chúng ta đều có thể thấy
rằng, ông đã kế thừa và kết hợp
nhuần nhuyễn giữa cách nghiên cứu
cũ theo phƣơng Đông trọng tài liệu và
cách nghiên cứu mới theo phƣơng
Tây trọng thực chứng. Trên cơ sở này,
Lê Thọ Xuân đã nỗ lực để xây dựng
một phƣơng pháp hiện đại để tiếp cận,
giải mã những vấn đề lịch sử Nam Bộ
mà ông quan tâm.
Ở phƣơng pháp, có thể thấy Lê Thọ
Xuân chịu ảnh hƣởng từ phƣơng Tây
(chủ yếu là Pháp), điều này thể hiện
thông qua những tài liệu bằng tiếng
Pháp mà Lê Thọ Xuân trích dẫn, tham
khảo (xem cụ thể hơn ở phần sử liệu
dƣới đây). Tuy nhiên Lê Thọ Xuân
cũng cho ngƣời đọc thấy rằng, ở ông
không phải là sự đứt gãy với sử học
truyền thống, mà vẫn có sự kết nối, kế
thừa phát triển con đƣờng sử học
Nam Bộ từ Trịnh Hoài Đức, Lê Quang
Định, Nguyễn Thông đến Trƣơng Vĩnh
Ký.
Thứ hai là chú ý kết hợp “sử ký” với
“địa dư” tức là các ghi chép lịch sử với
địa lý, địa danh học.
Mối quan hệ giữa sử với địa ở nƣớc
ta ít đƣợc chú ý, vì thế trong lời giới
thiệu bản dịch bộ Đại Nam nhất thống
chí, Thái Văn Kiểm từng nói: “Từ
trƣớc đến nay, ngƣời ta thƣờng chú
trọng đến sử học mà ít ai quan tâm
đến địa lý học nhất là ở nƣớc Việt
Nam ta. Đó là một khuyết điểm lớn
cần phải bổ túc vì xét ra sử học và địa
học phải đi đôi với nhau nhƣ hình với
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
63
bóng”. Nhận định này đƣợc ông lý giải: những nơi liên quan đến vấn đề ông
quan tâm để quan sát, phỏng vấn, ghi
chép, thu thập thông tin, tài liệu. Sự
khổ công của Lê Thọ Xuân trong các
chuyến đi đã giúp ông sƣu tầm đƣợc
các sử liệu thiết yếu từ thực địa.
Những hiểu biết sâu sắc cả về sử liệu
văn bản và sử liệu thực địa trong sự
đối chiếu so sánh đã giúp Lê Thọ
Xuân phát hiện ra những nhầm lẫn,
nghi vấn của các sử gia, nhà nghiên
cứu khác, cũng nhƣ nhầm lẫn của dân
gian trong một số sự kiện, nhân vật
lịch sử quan trọng gắn với các địa
danh cụ thể. Chẳng hạn: Tourane ở
Sài Gòn, đồn Cá Trê - đồn Rạch Bàng,
Long Xuyên - Cà Mau, Bà Rịa - Bà Lợi,
miễu Ông Bần Quỳ…
“Nếu sử học chú trọng về thời gian
tức là bề sâu thì địa học lại chú trọng
về không gian tức là bề rộng” (Quốc
sử quán triều Nguyễn, 1959: 1). Bởi
lịch sử diễn ra đồng thời trong thời
gian và không gian, vì vậy một sự kiện
nào đó sẽ mất đi ý nghĩa nếu không
đƣợc đặt vào một bối cảnh địa lý của
nó. Vấn đề này đƣợc Nguyễn Thế
Anh (1974: 70) nhấn mạnh: “Nếu niên
đại là căn bản cốt yếu của sử học, thì
các thực thể địa lý cũng cần thiết để
tìm hiểu một cách cụ thể các dữ kiện
lịch sử, để tìm hiểu phần ảnh hƣởng
của môi trƣờng địa lý đối với sự diễn
biến lịch sử. Vì vậy đối với bất cứ ai
nghiên cứu lịch sử, cần phải xác định
vị trí của các sự kiện, cần phải nhận
diện các địa danh, và hơn nữa là cần
phải quan sát tại chỗ cách trí [cách vật
trí tri] của các biến cố và của các vết
tích của quá khứ”.
Phƣơng pháp này của Lê Thọ Xuân
xác định đƣợc lịch sử cũng nhƣ các
tên gọi khác nhau của một địa danh,
giúp ngƣời đọc hay ngƣời nghe tránh
đƣợc những nhầm lẫn, đồng thời
cũng cho thấy sự gắn kết khắng khít
giữa nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử
và địa danh. Nhắc đến địa danh “Bảo
Định hà” (tên khác là Arroyo de la
poste, Bình Trị giang) không thể
không nhắc đến sự kiện Nguyễn Cửu
Vân giúp Nặc Ông Yêm đánh đuổi
quân Xiêm; sự kiện Gia Long phái
Nguyễn Văn Phong, Huỳnh Công Lý
sửa con kênh trải dài từ Vàm Cỏ Tây
đến Tiền Giang (Định Tƣờng) (Lê Thọ
Phƣơng pháp kết hợp sử và địa đƣợc
Lê Thọ Xuân sử dụng nhƣ một sở
trƣờng. Ông chuyên chú vào nghiên
cứu lịch sử nhân vật và lịch sử địa
danh, vì vậy việc am hiểu địa lý và địa
danh học là điều bắt buộc. Ở phƣơng
diện này, Lê Thọ Xuân có điều kiện
thuận lợi là ông ở Nam Bộ (Bến Tre,
sau mới dời lên Sài Gòn), nhƣng quan
trọng hơn là, ông ý thức rất rõ về sự
cần thiết của việc am tƣờng địa lý, địa
danh trong sự nghiệp nghiên cứu lịch Xuân, 1943a: 9-10); Hay nhắc đến địa
sử của mình và đầu tƣ nhiều thời gian danh “Long Xuyên” (tên gọi khác: Ba
công sức vào con đƣờng này. Để tiếp Rách, Tam Khê), “Cà Mau”, và mối liên
cận, tìm hiểu vấn đề tƣờng tận, có
ngọn ngành, Lê Thọ Xuân đã đến tận
hệ giữa Long Xuyên - Đông Xuyên -
Cà Mau không thể không nhắc đến
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
64
công lao mở mang của Nguyễn Hữu phải có bằng cấp chuyên môn (Lê Thọ
Xuân, 1940: 1).
Cảnh, Nguyễn Văn Thoại, không thể
không nhắc đến sự kiện Nguyễn Phúc
Thuần (1754-1777) bị quân Tây Sơn
bắt giết và Nguyễn Ánh chạy thoát (Lê
Thọ Xuân, 1943f: 11).
Đó là đề xuất, còn thực tế Lê Thọ Xuân
đã tự thiết lập cho mình một mạng lƣới
quan hệ với nhiều học giả có tên tuổi
trên khắp cả nƣớc: miền Bắc có Trần
Văn Giáp, Dƣơng Tụ Quán, Hoàng
Thúc Trâm, Đào Duy Anh, Nguyễn
Văn Tố, Ngô Văn Triện, Nguyễn
Tƣờng Tam, Nguyễn Tƣờng Phƣợng;
miền Trung có Huỳnh Thúc Kháng,
Đào Phan Duân; miền Nam có Ca
Văn Thỉnh, Phạm Thiều, Khuông Việt,
Trực Thần, Nguyễn Văn Hầu, Thái
Văn Kiểm… Riêng trong Nam, Lê Thọ
Xuân còn là thành viên tích cực trong
Ủy ban Văn học Phan Thanh Giản
thuộc Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể dục
cùng với Nguyễn Văn Liễn, Phạm
Thiều, Ca Văn Thỉnh, Khuông Việt,
Thiếu Sơn, Ngô Quang Lý, Ung Ngọc
Ky, Bùi Đức Tịnh (Bằng Giang, 1992:
6). Không chỉ cầu học ở các trí thức
khoa bảng, Lê Thọ Xuân còn tìm tòi
học hỏi những ngƣời “quê mùa, không
mấy ai nghe tên biết tiếng” nhƣng có
học vấn và hiểu biết nhƣ thầy lang trẻ
Mƣời Tri (Cái Mít, Bến Tre), ông Năm
Bảo (Nguyễn Đại Liêng, rạch Bà Đồ,
Cần Thơ) (An Cƣ, 1966: 84) (Lê Thọ
Xuân, 1968a: 46). Đối với những
ngƣời ở gần thì Lê Thọ Xuân đạp xe
đƣờng bộ, thuê thuyền đƣờng thủy
tìm đến tận nơi hỏi; đối với những
ngƣời ở xa thì ông viết thƣ nhờ giải
đáp, tƣ vấn những vấn đề mình còn
nghi hoặc, không hiểu về một vài chữ
Thứ ba là tập trung vào các nghiên
cứu hẹp, cụ thể, chi tiết.
Tập trung nghiên cứu chủ yếu ở vùng
đất Nam Bộ trong thế kỷ XIX, Lê Thọ
Xuân chuyên chú vào các nhân vật cụ
thể nhƣ tiểu sử Trƣơng Tấn Bửu,
Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản,
Gia Định tam hùng (Đỗ Thanh Nhân,
Châu Văn Tiếp, Võ Tánh), Trƣơng
Định… Di sản của Lê Thọ Xuân hầu
hết là các bài viết ngắn đƣợc công bố
trên các tờ tạp chí, tuần báo trên cả
ba miền của đất nƣớc(2).
Thứ tư là có ý thức xây dựng mạng
lưới liên kết hỗ trợ trong việc nghiên
cứu.
Đầu thế kỷ XX, phong trào sử học lan
rộng trong xã hội, nhiều ngƣời đề xuất
thành lập một đoàn thể, hội nhóm hỗ
trợ nhau trong việc nghiên cứu lịch sử
dân tộc; Lê Thọ Xuân hƣởng ứng ý
kiến của Nguyễn Tƣờng Phƣợng,
Hoàng Thúc Trâm. Theo Lê Thọ Xuân,
việc lập Hội Sử học cần phải: (1) “Noi
gƣơng ngƣời Pháp về cách tổ chức”,
nhƣ cách mà ngƣời Pháp làm ở
Trƣờng Viễn Đông bác cổ tại Hà Nội,
Hội Đô thành hiếu cổ tại Huế, Đông
Dƣơng nghiên cứu Hội (Société
d‟Etudes Indochinoise) tại Sài Gòn; (2)
“Phải có một tờ báo làm cơ quan
chung”; (3) Hội viên là “những ngƣời Nho, hay các thông tin liên quan đến
thích học Việt sử”, không nhất thiết
tiểu sử nhân vật đang quan tâm.
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
65
Công bố kết quả nghiên cứu cũng là cận, sở hữu các tài liệu này không dễ
một hình thức mở rộng mối quan hệ dàng và “mắc mỏ” (Lê Thọ Xuân,
1968a: 55)(3). Đối với ngƣời nghiên
trong việc nghiên cứu đƣợc Lê Thọ
Xuân chú ý. Các bài viết sẽ tạo ra tiền
đề cho những trao đổi, tranh luận rộng
rãi, là cách hữu hiệu giúp nâng cao
kiến thức. Phía bắc, Lê Thọ Xuân
đăng trên các tờ: Nam Phong, Tri Tân,
Nước Nam, Văn Lang, Văn học; phía
nam ông đăng trên các tờ: Đại Việt
tập chí, Nam Kỳ tuần báo, Đồng Nai
tạp chí, Đồng Nai văn tập, Sử Địa,...
Chính trên các tờ báo này, Lê Thọ
Xuân đã có dịp bày tỏ quan điểm của
mình.
cứu cổ sử, tra cứu là việc làm thƣờng
xuyên, nhƣng do cách biên soạn sử
sách theo kiểu cũ còn nhiều khiếm
khuyết bất tiện “không sắp thế nào
cho gọn, cho dễ tìm” khiến ngƣời
nghiên cứu mất nhiều công sức thời
gian vào việc này, nên Lê Thọ Xuân
đã soạn “bản sách dẫn” bộ Đại Nam
liệt truyện đăng trên tạp chí Tri Tân
nhiều kỳ, trong đó kỳ đầu tiên đƣợc
ông dành trọn vẹn cho việc giới thiệu
tổng quát về bộ sử này.
3. SƯU TẦM VÀ KHẢO CỨU SỬ LIỆU
Đối với các nhân vật có sáng tác văn
chƣơng, thì tác phẩm thơ ca cũng
đƣợc Lê Thọ Xuân xem là một sử liệu
quan trọng giúp soi sáng tiểu sử của
nhân vật. Trong bài Đôi chuyện về
Sử liệu là những tài liệu phục vụ cho
sử gia, theo nghĩa rộng nó bao gồm
tất cả những gì mà sử gia dùng để kê
cứu khi biên soạn hay nghiên cứu về
một vấn đề lịch sử nào đó. Vì vậy sử Phan Thanh Giản, ông đã cung cấp
liệu đƣợc xem là nền tảng cơ bản cho ngƣời đọc những thông tin chi tiết
trong việc biên soạn cũng nhƣ đánh
giá về các vấn đề lịch sử.
cụ thể về tập thơ Kim đài thảo của
Phan Thanh Giản, mà bấy giờ còn
nhiều ngƣời chƣa biết, chƣa rõ (Lê
Thọ Xuân, 1941a: 7-8, 14). Ở bài Lại
một bài thơ của Đồ Chiểu, Lê Thọ
Xuân dựa trên tài liệu xác thực đã quả
quyết rằng Nguyễn Đình Chiểu chính
là tác giả bài thơ Xe ngựa lao xao
giữa cõi trần chứ không phải ai khác
(Lê Thọ Xuân, 1944: 21).
Nhận thức rõ đƣợc tầm quan trọng
của sử liệu, Lê Thọ Xuân đã dành
nhiều thời gian và công sức cho việc
sƣu tầm, dịch thuật, hiệu đính, giới
thiệu và phê bình sử liệu, từ sử liệu
thành văn nhƣ thƣ tịch và sử liệu
truyền miệng nhƣ các truyền thuyết
giai thoại trong dân gian.
Bên cạnh sử liệu Hán Nôm, Lê Thọ
Xuân còn sƣu tầm các sử liệu Pháp
văn, tức các công trình nghiên cứu
của ngƣời Pháp về lịch sử Việt Nam
nói chung và Nam Bộ nói riêng.
Chẳng hạn: Histoire et Description de
la Basse-Cochinchine (bản dịch tiếng
Về sử liệu cổ nhƣ thƣ tịch Hán Nôm,
Lê Thọ Xuân đã sƣu tầm đƣợc nhiều
tài liệu, trong đó có những bộ sách đồ
sộ nhƣ Đại Việt sử ký toàn thư, Đại
Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại
Nam nhất thống chí, Gia Định thành
thông chí… dù đƣơng thời việc tiếp
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
66
Pháp tác phẩm Gia Định thành thông đền thờ Nguyễn Trung Trực: “Hỏa
chí) của G. Aubaret, Histoire de la phần Nhựt Tảo kinh thiên địa; Kiếm
Cochinchine française des origines à phạt Kiên Giang khốc quỉ thần”, theo
1883 (Lịch sử Nam Kỳ thuộc Pháp từ Lê Thọ Xuân là không chuẩn, vì viết
nguồn gốc đến năm 1883) của P. vậy thành ra Nguyễn Trung Trực đốt
Cultru, Abrégé de l'Histoire d'Annam Nhật Tảo và chinh phạt Rạch Giá,
(Khái lƣợc lịch sử An Nam) của A. thực ra câu đối này là bản chép sai
Schreiner, Éléments d'une monographie câu đối của “một danh nho, một thi bá
des anciennes fortifications et citadelles của miền Nam nƣớc Việt” Huỳnh Mẫn
de Saïgon (Các chuyên luận về thành Đạt, nguyên văn: “Hỏa hồng Nhựt
cổ và công sự phòng thủ ở Sài Gòn) Tảo oanh thiên địa; Kiếm bạt Kiên
của L. Malleret, Documents pour servir Giang khấp quỉ thần” (Nhựt Tảo lửa
à l'histoire de Saïgon (Tài liệu phục vụ hừng, trời long đất lở; Kiên Giang
cho việc tìm hiểu lịch sử Sài Gòn) của gƣơm tuốt, quỷ khóc thần sầu) (Lê
J. Bouchot, Onze mois de sous- Thọ Xuân, 1968b: 51). Câu đối đƣợc
préfecture en Basse-Cochinchine (Hồi viết, khắc và treo ở đền thờ của các
ký 11 tháng ở Nam Kỳ) của Lucien de danh nhân không chỉ là những lời tri
Grammont, Tập san Excursions et ân công đức, mà còn là những sử liệu
Reconnaissances (Du ngoạn và thám cho những thế hệ kế tiếp tìm hiểu,
sát), các tập địa phƣơng chí ở Việt nghiên cứu về tiền nhân. Những sai
Nam (trong đó có Nam Bộ) do ngƣời sót thể hiện trên văn tự này, có thể
Pháp thực hiện và in bằng tiếng Pháp xuất phát từ những ngƣời chép sai,
đầu thế kỷ XX.
tam sao thất bản, dẫn đến hiểu sai,
viết sai và truyền sai.
Sử liệu của Lê Thọ Xuân cũng không
chỉ đóng khung trong phạm vi chính
sử hay các văn bản đã thành văn, mà
còn bao gồm các câu chuyện, truyền
thuyết, giai thoại dân gian. Với Lê Thọ
Xuân, đây cũng là một nguồn sử liệu
có giá trị tham khảo ý nghĩa, hỗ trợ bổ
sung cho các sử liệu thành văn. Ví dụ
các giai thoại liên quan đến “Già Ba
Tri”, “miễu Ông Bần Quỳ”.
Trong việc biên soạn sử sách, nhà
Nguyễn thời Minh Mạng có chủ
trƣơng đổi “tên ngƣời, tên núi, tên xứ,
tên sông… bằng chữ Nôm ra chữ
Hán” để dễ viết hơn, nghe hay hơn.
Lê Thọ Xuân gọi đó là “nạn bứng gốc”
và “nạn nên thơ”, bởi nó khiến cho
ngay cả những sử gia tại địa phƣơng
cũng gặp nhiều khó khăn, nhầm lẫn
trong việc khảo cứu (Lê Thọ Xuân,
1967b: 111-112).
Trong quá trình sƣu tầm sử liệu, Lê
Thọ Xuân phát hiện một số sử liệu đã
đƣợc sao chép, sử dụng lại, bằng
khảo chứng, ông cho rằng đó là do bị
hiểu không đúng mà ra. Nhƣ câu đối
“kể công nghiệp” đặt trƣớc cửa chính
Việc dịch thuật các sách sử Việt Nam
thƣờng dẫn đến nhiều sai sót khiến
cho “những ai muốn học hỏi sử địa
nƣớc nhà đến vực [chỗ] lầm lẫn quan
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
67
trọng” nếu không đƣợc đính chính kịp danh Nam Bộ. Ví dụ: Đà - rạch, ngòi -
thời và đúng đắn. Với sách chữ Nho rạch, lạch - rạch, nhai - đƣờng/lộ/nẻo/
ngõ, ốc tai voi - ốc tai tƣợng, Lãi ky
(ghềnh Rái), Lộc Dã (Đồng Nai),
Thuyền Úc (Vũng Tàu), Lâm Dao -
Lâm Thao, Bân Xế - Mân Thít, chợ
Dung - chợ Cây Da, Ba Khâm - Ba
Cụm, Phiếu Giang - Lật Giang/Bến
Lứt, Vàm Thuận/Thuận Tấn - Vàm
Nao… (Lê Thọ Xuân, 1967a: 84-93).
đƣợc dịch ra Pháp văn, Lê Thọ Xuân
đã chỉ ra nhiều lỗi dịch sai nghiêm
trọng của Aubaret trong sách Histoire
et Description de la Basse-Cochinchine
(bản dịch sách Gia Định thành thông
chí nguyên tác Hán văn) đã dịch sai
nhiều chỗ nhƣ sau: Nƣớc Lục Chân
Lạp xƣa (cổ Lục Chân Lạp) thì bị dịch
thành “appelé Co Luc et Chan Lap”
(gọi là Cổ Lục và Chân Lạp), “Từ Giao
Châu vƣợt biển trải qua các nƣớc
Xích Thổ, Đan Đan” bị dịch thành
“depuis le port de Giao Chi jusqu‟à
Xich Tho, Terre Rouge” (từ cửa biển
Giao Chỉ đến Đất Đỏ), tên sách Tân
Đường thư đáng lẽ dịch là “le
Nouveau Duong thu” thì bị dịch thành
“le livre Tan duong” “khiến ngƣời ta có
thể ngỡ là Truyện Tàn Đƣờng”; ngoài
ra nhiều chỗ còn bị Aubaret dịch và
diễn giải “tréo cẳng ngỗng” so với
nguyên tác của Trịnh Hoài Đức, nhƣ
đoạn viết về địa danh Bà Lợi - Bà Rịa,
đoạn viết về phong tục của dân Bà Lợi
(Lê Thọ Xuân, 1969: 155). Về sách
chữ Nho đƣợc dịch ra quốc ngữ Lê
Thọ Xuân cũng chỉ ra nhiều chỗ dịch
giả sai lầm và hiệu đính lại cho mọi
ngƣời biết rộng rãi thông qua các bài
viết đăng trên báo chí. Chẳng hạn,
trong bản dịch Đại Nam nhất thống
chí - Lục tỉnh Nam Việt, ông đã viết
một bài dài, đăng làm 2 kỳ in trên
Đồng Nai văn tập, chỉ ra nhiều lỗi sai
về chữ dùng, chú thích, phiên âm,
Tuy nhiên, phần nhiều các sử liệu mà
Lê Thọ Xuân khổ công sƣu tầm, tích
lũy “trong ngót mƣơi năm trời” đã bị
cháy, thất lạc trong những năm chiến
tranh (Lê Thọ Xuân, 1966: 81). Mất
mát này không chỉ với Lê Thọ Xuân,
bởi trong số đó, có những tài liệu đến
nay chƣa ai tìm đƣợc, tạo nên các
tranh luận, nghi vấn và khoảng trống
trong việc nghiên cứu. Ví dụ tập Minh
bột di ngư liên quan đến lịch sử và
văn học Nam Bộ thời kỳ đầu mà Lê
Thọ Xuân từng sƣu tầm.
4. PHONG CÁCH SỬ LUẬN
Sử luận là các nhận xét, bình luận,
đánh giá những vấn đề thuộc về lịch
sử, thƣờng đƣợc các sử gia rút ra sau
khi khảo cứu sử liệu theo phƣơng
pháp tiếp cận nào đó. Do vậy, mức độ
khách quan hay chủ quan của sử gia
cũng thƣờng thể hiện một cách rõ rệt
trên phƣơng diện sử luận. Nếu cùng
một sử liệu, cùng một phƣơng pháp,
thì phần sử luận sẽ xác định đóng góp
của các sử gia.
Đọc Lê Thọ Xuân, ngƣời ta sẽ dễ
dịch nghĩa, do ngƣời dịch và nhóm nhận thấy ở ông lòng say mê và tâm
huyết với lịch sử. Đây là điều kiện
hiệu đính không hiểu rõ ngôn ngữ, địa
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
68
quan trọng để ông kiên trì theo đuổi khi qua cảnh hoang phế của thành Đồ
công việc gian nan: tìm về quá khứ và
hiểu quá khứ cũng nhƣ đánh giá về
các nhân vật, sự kiện đã qua. Tuy vậy,
vì theo đuổi phƣơng pháp thực chứng,
chú trọng tài liệu, bằng chứng, nguồn
tƣ liệu cụ thể, nên trong nhận xét,
đánh giá các sự kiện, nhân vật lịch sử
cũng nhƣ trong đánh giá nghiên cứu
của những ngƣời khác, Lê Thọ Xuân
không hùng biện, suy diễn, phiếm luận
hay triết lý mơ hồ, mà rất thận trọng,
kiệm lời, rõ ràng. Phần sử luận của Lê
Thọ Xuân thể hiện trên hai góc độ.
Bàn văng vẳng nghe không biết từ
đâu đƣa lại tiếng ai ngâm: „Trông lên
hồn tháp Cánh Tiên, Cảm ơn quan
Hậu thủ thiềng ba năm!” (Lê Thọ Xuân,
1943e: 5). Hay ông đã mƣợn hình ảnh
ngọn lửa và tiếng kêu của dân chúng
để nói về cái chết của Nguyễn Đình
Chiểu trƣớc cảnh nƣớc mất nhà tan:
“Rồi, một hôm về mùa thu năm Mậu
Tý (1888), tại Ba Tri bỗng có tiếng la
„Lửa! Lửa‟ ! Thôn dân, cây, dây, gàu,
đuốc những đồ bỏ sẵn để khi nghe mõ
thì vác chạy cho mau, đổ xô về phía
Thứ nhất là nhận xét của Lê Thọ Xuân xảy ra hỏa hoạn. Ai nấy đều đứng
đối với các sự kiện, nhân vật, vấn đề quanh cái nhà lá cũ đƣơng cháy rực
lịch sử ông đặt ra. Ví dụ nói về cái trời mà than dài mà chắt lƣỡi. Ngƣời
ngƣời bảo chuyền nhau: „Lửa cháy
“Phƣơng quận công Đỗ Thanh Nhân tiêu nhà ông Đồ! Tội nghiệp quá! Tội
nghiệp quá!‟ Mà ông Đồ có còn đâu
chết của danh tƣớng Đỗ Thanh Nhân:
phải bị đòi vào cung rồi chịu cho bao
nhiêu gƣơm đao vô tình của bọn võ sĩ lúc ấy” (Lê Thọ Xuân, 2019b: 151).
sả tan bầm nhỏ!” (Lê Thọ Xuân, 1943c: Hoặc nói về “Quan lớn Cái Da”
3), “Mồ mả của Nhân xiêu lạc về đâu Trƣơng Tấn Bửu, nhiều công lao mà ít
có ai còn đƣợc biết! Cái đƣợc biết ngƣời biết: “Vốn đồng thời cùng Tả
chăng chỉ là chút ít về tiểu sử của quân Quận công Lê Văn Duyệt, Long
Nhân: Sự nghiệp anh hùng có thế Vân hầu cũng nhƣ Lê Tổng trấn là dày
thôi” (Lê Thọ Xuân, 1943b: 17). Nói về gian lao với ngôi nhà Nguyễn, dày
cái chết của Võ Tánh: “Vị anh hùng công đức với đất Đồng Nai. Vốn đồng
minh đạt hơn ngƣời, trí dõng xuất quận cùng Hiệp biện Đại học sĩ Phan
chúng, họ Võ tên Tánh, con ruột của Lƣơng Khê, Long Vân hầu cũng nhƣ
Phan Kinh lƣợc làm quan đến hạng
và cảnh Võ Tánh tự thiêu trên lầu bát nhứt phẩm, cai trị cả xứ Nam Kỳ mà
vẫn trì thân thanh bạch, lại thêm
Tánh ném tàn xuống đống củi khô. quảng đại từ hòa, khiến ai ai cũng
kính phục mà không sợ sệt, cũng mến
xứ Đồng Nai” (Lê Thọ Xuân, 1943d: 7)
giác: “Đƣơng hút thuốc, Hậu quân Võ
Hỏa đƣợc phát mạnh, củi khô bắt theo,
lửa phừng phừng cháy lên để thành yêu mà không khinh lờn. Vậy, mỗi khi
hai câu: „Bát giác hỏa đồng tâm cộng nhắc đến Chánh tƣớng Duyệt, ta sao
xích, Thiên thu danh dữ nhật tranh khỏi nhắc đến Phó tƣớng Luông, mỗi
hồng‟(4), hay để cho ngƣời sau, mỗi khi nhắc đến „Quan lớn Bảo Thạnh‟
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
69
Kinh lƣợc sứ Phan Lƣơng Khê, ta sao Tất cả những điều trên tạo nên đặc
điểm thứ nhất trong phong cách sử
luận của Lê Thọ Xuân.
khỏi nhắc đến „Quan lớn Cái Da‟ Long
Vân hầu Trƣơng Tấn Bửu” (Lê Thọ
Xuân, 1959: 31).
Thứ hai là đánh giá của Lê Thọ Xuân
đối với các nghiên cứu lịch sử của
Những đoạn văn vừa dẫn đã biểu lộ
tình cảm của Lê Thọ Xuân trong việc người khác. Các đánh giá này có khi
nghiên cứu nhân vật lịch sử. Ở đây dù
ông dùng nhiều câu cảm thán và giàu
chất văn chất thơ, nhƣng chúng ta
cũng thấy, tình cảm ấy đƣợc tiết chế
một cách chừng mực, từ ngữ mang
cảm xúc nhƣng không bộc lộ thiên
kiến chủ quan phi thực chứng. Vì vậy,
tuy Lê Thọ Xuân thể hiện thái độ bùi
ngùi đối với cái chết của Đỗ Thanh
Nhân, thể hiện thái độ cảm phục cái
chết của Võ Tánh, thể hiện thái độ
đau thƣơng đối với cái chết của
Nguyễn Đình Chiểu, thể hiện thái độ
xót xa đối với Trƣơng Tấn Bửu vì bị
hậu thế lãng quên, nhƣng những tình
cảm riêng tƣ này của sử gia cũng
không khiến ngƣời đọc cảm thấy bị
dẫn dắt hay định hƣớng, không làm
mất tính khách quan của vấn đề mà
Lê Thọ Xuân đã nỗ lực hƣớng đến
thông qua những sử liệu mà ông đã
dày công tìm kiếm, trình bày, phê bình
bằng những cách thức, phƣơng pháp
mà ông cho là thích hợp nhất dành
cho đối tƣợng nghiên cứu của mình.
từ tốn, nhã nhặn, nhƣ khi đọc một số
phần trong bản dịch bộ Đại Nam nhất
thống chí – Lục tỉnh Nam Việt do
những ngƣời khoa bảng tên tuổi dịch
và hiệu đính, Lê Thọ Xuân đã viết “vài
cảm tƣởng”, viết xong ông lại gởi đến
ba ngƣời bạn thân “nhờ xem lại giùm
cho thật kỹ, nếu thấy chỗ nào có vẻ
vạch lá tìm sâu hay khoe khoang
phách lối thì thẳng thắn chỉ bảo hoặc
tự tiện sửa chữa” (Lê Thọ Xuân,
1967a: 82). Trƣớc khi đi vào bàn bạc
chi tiết về “chữ dùng”, “phiên âm” và
“dịch nghĩa” của bản dịch, Lê Thọ
Xuân rào đón trƣớc bằng những lời
khiêm tốn: “Rồi, thúc đẩy bởi duyên
văn tự, thúc đẩy bởi lòng cầu học, tôi
thấy không đƣợc không chép ra vài
cảm tƣởng của một độc giả quý mến
địa dƣ nƣớc nhà, chớ không phải viết
một bài phê bình và nhứt là không
chút nào cố ý vạch lá tìm sâu. Và, nhƣ
vầy, tôi cũng đã mạo muội làm một
việc „múa rìu qua mắt thợ‟” (Lê Thọ
Xuân, 1967a: 83-84).
Lê Thọ Xuân xác định quan điểm
“không tiểu thuyết hóa”, “không thần
thánh hóa” các nhân vật lịch sử. Vì
vậy, tuy đôi khi ngƣời đọc thấy ông
thể hiện tình cảm trên bài viết, song
những đánh giá của ông đều thể hiện
thái độ thận trọng và công bằng với
các danh nhân thời Nguyễn(5).
Cũng có khi đánh giá của Lê Thọ
Xuân thẳng thắn gay gắt, vì tinh thần
khoa học, không ngại đụng chạm đến
những ngƣời có danh vọng đƣơng
thời nhƣ Ngô Tất Tố, Dƣơng Quảng
Hàm, Dƣơng Bá Trạc, Phan Khôi, Vũ
Ngọc Phan,… Ví dụ trong bài “Nói
chuyện văn với Tạp chí Văn học”, Lê
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
70
Thọ Xuân đã thẳng thắn chỉ ra nhiều ngoại”, “dị tật gia truyền”, do chỗ soạn
sai sót nghiêm trọng khi bình giải về giả viết “không phải vì lịch sử nƣớc
bài thơ Vịnh Quan đế của Nguyễn nhà cũng không phải vì Lê Tả quân,
mà vì muốn suy tôn Ngô Tổng thống”
(Lê Thọ Xuân, 1968a: 46); hay chuyện
Đặng Thúc Liêng suy luận cho rằng
Nguyễn Đình Chiểu chính là Duy Minh
Thị (Lê Thọ Xuân, 1968a: 56).
Đình Chiểu của một tác giả không
thông hiểu ngôn ngữ Nam Bộ và điển
tích, sử sách cổ. Ông đã phải kêu lên:
“Trời ôi! Cụ Đồ nghe đến lời chú thích
nầy ở dƣới mồ cũng rán ngóc lên mà
cãi: „Thƣa quý ngài, cuốn kinh bát
loạn của tôi với cuốn của ngài nó khác
nhau xa miệt mù. Tôi muốn nói Quan
Võ thƣờng suốt đêm cầm cuốn Kinh
Xuân Thu mà đọc, tay không thấy mỏi.
Tôi nói Quan Võ còn học, chớ không
phải Quan Võ „làm thầy‟. Ông Mao
Tôn Cƣơng cũng có nói: „Quan Công
mƣời phần học vấn, mƣời phần kiến
thức là nhờ học Kinh Xuân Thu kỹ
lắm” (Lê Thọ Xuân, 1932: 25). Kết
thúc bài viết, Lê Thọ Xuân bày tỏ thái
độ bức xúc về thái độ sơ suất trong
khâu biên tập, kiểm duyệt bài vở của
tác giả lẫn chủ bút Tạp chí Văn học:
“Tôi không ngờ, thật tôi không ngờ
đâu những tay „cừ‟ thơ nhƣ ông Cử
Tuyết Huy, ông tác giả quyển Quốc
văn trích diễm lại để cho Văn học tạp
chí „bƣớng‟ đến dƣờng ấy. Tốt hơn là
các ngài cứ chép đủ tám câu, để mặc
độc giả hiểu sao thì hiểu, kẻo: ngƣời
xƣa đau lòng, ngƣời nay điên đầu” (Lê
Thọ Xuân, 1932: 25).
Dù theo cách nào, các đánh giá, nhận
xét của Lê Thọ Xuân vẫn luôn dựa
vào những tài liệu, bằng chứng, luận
điểm vững chắc, rõ ràng. Vì vậy
những gì ông nói và viết ra đều có sức
thuyết phục và tính khả tín cao đối với
ngƣời đọc.
5. KẾT LUẬN
Với hơn 40 năm miệt mài, bằng một
phƣơng pháp khoa học, một tinh thần
say mê, một thái độ cầu thị không
ngừng học hỏi, nỗ lực tìm tòi không
mệt mỏi gắn bó với lịch sử Nam Bộ,
Lê Thọ Xuân đã cho ra đời hàng chục
bài khảo cứu tâm huyết, công phu
không những có giá trị ở đƣơng thời
mà ngày nay đọc lại chúng ta vẫn thấy
ý nghĩa trên nhiều mặt. Lê Thọ Xuân
không có những công trình đồ sộ, các
bài khảo cứu của ông chỉ tập trung
vào một sự kiện, nhân vật cụ thể
nhƣng sâu sắc và toàn diện trong
phạm vi của nó. Đọc các nghiên cứu
của Lê Thọ Xuân, chúng ta cũng thấy
ông cố gắng đƣa sử học đến gần đại
Cũng không ít khi Lê Thọ Xuân đánh
giá ngƣời khác bằng ngôn ngữ hài chúng, bằng cách sắp xếp, bằng ngôn
hƣớc hóm hỉnh. Ví dụ bài Đôi chuyện
vui vui trong việc học sử địa nước nhà
viết về chuyện tác giả sách Cuộc đời
oanh liệt của Lê Văn Duyệt có nhiều
ngữ có tính văn chƣơng, dẫn dắt các
vấn đề, câu chuyện, nhân vật, sự kiện
sao cho thật dễ hiểu, thật ấn tƣợng,
không rơi vào khô khan nhàm chán,
chi tiết kỳ lạ đáng buồn cƣời nhƣ “Hoa nhƣng vẫn đảm bảo tính khách quan,
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
71
sự thật lịch sử. Những vấn đề Lê Thọ Với những đóng góp đáng kể của Lê
Xuân đã giải quyết, đã tìm hỏi, đã đặt Thọ Xuân cần thiết có sự tổng kết,
ra liên quan đến đất và ngƣời Nam Bộ đánh giá những cống hiến của ông đối
hiện vẫn đang đƣợc nhiều ngƣời đi với sử học Nam Bộ nói riêng và sử
sau kế thừa, tiếp nối, nhất là ở cách học Việt Nam nói chung. Bài viết này
tiếp cận, giải mã lịch sử kết hợp với của chúng tôi góp phần gợi mở những
địa lý học, địa danh học trong nghiên nghiên cứu tiếp theo về Lê Thọ Xuân
cứu lịch sử Nam Bộ.
trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ.
CHÚ THÍCH
(1) Về tiểu sử và đóng góp của Lê Thọ Xuân đối với văn học, báo chí, xin xem bài Đóng góp
của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu văn học và hoạt động báo chí trước năm 1954 của Lƣu
Hồng Sơn (Tạp chí Khoa học Xã hội, số 3/2016).
(2)
Quyển Phan-Thanh-Gian, 1796-1867, et sa famille d’après quelques documents
annamites (Phan Thanh Giản, 1796-1867, và gia đình ông qua một số tài liệu An Nam) viết
bằng tiếng Pháp, soạn chung với Pierre Daudin, là những tƣ liệu và gia phả quý giá của
Phan Thanh Giản và dòng họ Phan mà ông có công sao chép và gìn giữ, in trong Tập san
Hội Nghiên cứu Đông Dương, bộ mới, tập XVII, số 2, do nhà in Imprimerie de l‟Union của
ông Nguyễn Văn Của (Sài Gòn) ấn hành năm 1941, tổng cộng 153 trang. Quyển Tiểu sử
Long Vân hầu Trương Tấn Bửu là một tập sách, 31 trang in khổ nhỏ, nguyên đã in lần thứ
nhất trong tập kỷ yếu của Hội Khuyến học Nam Kỳ năm 1942, in lần thứ hai năm 1943 trong
quyển Nam Kỳ danh nhân do Đào Văn Hội chủ biên, sau đƣợc tái bản vào năm 1949, cuối
cùng đƣợc tách ra, bổ sung và cho in riêng thành một tập (nhà in An Ninh, Sài Gòn) năm
1959.
(3) Nói về việc khó khăn trong việc tiếp cận với bộ Đại Nam thực lục, Lê Thọ Xuân cho biết:
“Hồi trƣớc, có lẽ ở nƣớc ta có hai chỗ có trọn bộ Thực lục lớn lao nầy: Trƣờng Bác cổ
Viễn Đông ở Hà Nội và Quốc sử quán ở Huế. Nghe nói muốn kê cứu tài liệu trong bộ sách
nầy ở Huế thì cả một vấn đề: phải làm đơn xin phép Cụ lớn Học bộ Thƣợng thơ, phải ghi
rõ là muốn xem đoạn nào, kỷ nào; đƣợc phép thì đem trình các quan lớn ở Quốc sử quán.
Vì là sách công việc của tiên tổ nhà vua, phải kính cẩn nghiêm túc, nên bộ sách cao quý
nầy đƣợc để trong tủ riêng có niêm phong đàng hoàng. Viên quan ở Quốc sử quán mở tủ
lấy những quyển nào có ghi trong giấy phép và cho ngƣời đƣợc phép đọc tại chỗ”. Ông
cũng cho biết thông tin sở hữu bộ sử lớn này: “Về sau nhờ anh Đào Duy Anh „thƣơng
thuyết‟, tôi có đƣợc trọn bộ mới tinh, và trọn bộ nầy đựng đầy một rƣơng xe. Trọn bộ đã bị
thiêu hủy lúc quân đội Pháp tái chiếm Bến Tre năm 1946. Hiện nay, Viện Khảo cổ và Thƣ
viện Quốc gia đều có Đại Nam thực lục nầy nhƣng không đầy đủ” (Lê Thọ Xuân, 1968a:
53).
(4)
Hai câu thơ tả về cái chết bi hùng của Võ Tánh này thuộc bài thơ vô đề của Trịnh Hoài
Đức trong Cấn Trai thi tập. Nghĩa là: Trên lầu bát giác lửa và tâm cùng đỏ, Sau nghìn năm
danh tiếng của ông tranh sáng với mặt trời.
(5) Dù chuyên tâm vào nghiên cứu các nhân vật lịch sử thời Nguyễn, nhƣng đối với anh em
nhà Tây Sơn, Lê Thọ Xuân vẫn thể hiện lòng ngƣỡng mộ, không phê phán phỉ báng. Thái
độ này của ông thể hiện rõ trong đoạn giới thiệu về Gia Định tam hùng: “Trong hàng trăm
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020
72
ngàn đại tƣớng của Nguyễn Ánh có biết bao bực kỳ tài nhƣ Lê Văn Duyệt, dũng cảm nhƣ
Nguyễn Huỳnh Đức, văn võ kiêm bị nhƣ Nguyễn Văn Thành, nhƣng cầm binh hay, đánh
giặc giỏi, bọn hậu sanh nhƣ chúng ta cũng có thể biết chắc là chỉ có Đỗ Thanh Nhân, Châu
Văn Tiếp và Võ Tánh. Biết chắc vậy là vì ta thấy hoặc đƣợc núp bóng cờ hoặc nhờ nƣơng
oai võ của vị bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ, trỏ roi ra hai mƣơi vạn binh Tàu không đất
chôn thây, trở thuyền vào hai chục ngàn binh Xiêm chẳng còn manh giáp, quân Tây Sơn
dũng mãnh dƣờng nào mà hãy còn kiêng sợ họ Đỗ, họ Châu, họ Võ và dùng bốn chữ „Gia
Định tam hùng‟ để gọi họ. „Gia Định tam hùng‟ là ba ngƣời hùng dũng của đất Đồng Nai hay
ta cứ gọi nôm là „ba con cọp gấm‟ của đạo binh Bến Nghé” (Lê Thọ Xuân, 2019a: 41).
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. An Cƣ. 1966. “Hơn một giờ với ông Lê Thọ Xuân”. Đồng Nai văn tập, số 7.
2. Bằng Giang. 1992. Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ (1865 - 1930). TPHCM: Nxb. TPHCM.
3. Lê Thọ Xuân. 1932. “Nói chuyện văn với Tạp chí Văn học”. Đồng Nai tạp chí, số 14.
4. Lê Thọ Xuân. 1940. “Hƣởng ứng việc lập đoàn nghiên cứu Việt sử”. Báo Nước Nam,
số 71.
5. Lê Thọ Xuân. 1941a. “Đôi chuyện về Phan Thanh Giản”. Tạp chí Tri Tân, số 4.
6. Lê Thọ Xuân. 1941b. “Miễu thờ Mai Công Hƣơng với một chữ lầm của cụ Phan
Thanh Giản”. Tạp chí Tri Tân, số 26.
7. Lê Thọ Xuân. 1943a. “Bảo Định hà”. Đại Việt tập chí, số 9.
8. Lê Thọ Xuân. 1943b. “Gia Định tam hùng: Châu Văn Tiếp”. Đại Việt tập chí, số 14.
9. Lê Thọ Xuân. 1943c. “Gia Định tam hùng: Đỗ Thanh Nhân”. Đại Việt tập chí, số 11.
10. Lê Thọ Xuân. 1943d. “Gia Định tam hùng: Võ Tánh”. Đại Việt tập chí, số 17.
11. Lê Thọ Xuân. 1943e. “Gia Định tam hùng: Võ Tánh”. Đại Việt tập chí, số 18.
12. Lê Thọ Xuân. 1943f. “Long Xuyên, Đông Xuyên, Cà Mau”. Đại Việt tập chí, số 19.
13. Lê Thọ Xuân. 1944. “Lại một bài thơ của Đồ Chiểu”. Tạp chí Tri Tân, số 142.
14. Lê Thọ Xuân. 1959. Tiểu sử Long Vân hầu Trương Tấn Bửu. Sài Gòn: An Ninh xuất
bản.
15. Lê Thọ Xuân. 1966. “Vài giai thoại có dính líu tới cụ lãnh binh Trƣơng Định”. Tạp chí
Sử Địa, số 3.
16. Lê Thọ Xuân. 1967a. “Vài cảm tƣởng sau khi đọc sách Đại Nam nhất thống chí: Lục
tỉnh Nam Việt”. Đồng Nai văn tập, số 12.
17. Lê Thọ Xuân. 1967b. “Đôi chuyện vui trong việc học sử địa nƣớc nhà”. Đồng Nai
văn tập, số 13.
18. Lê Thọ Xuân. 1968a. “Đôi chuyện vui trong việc học sử địa nƣớc nhà”. Đồng Nai
văn tập, số 15.
19. Lê Thọ Xuân. 1968b. “Xin cung hiến một ít tài liệu về cụ Nguyễn Trung Trực”. Tạp
chí Sử Địa, số 12.
20. Lê Thọ Xuân. 1969. “Sau ngót 150 năm thử giải điểm thắc mắc của An Toàn hầu
Trịnh Hoài Đức về sử địa nƣớc nhà”. Sử Địa, số 14-15.
LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN…
73
21. Lê Thọ Xuân. 2019a. “Gia Định tam hùng. In lại trong Nam Kỳ khảo lược, tập 1: Đại
Việt tập chí (Trần Thành Trung sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). Huế: Nxb. Thuận
Hóa.
22. Lê Thọ Xuân. 2019b. Tiểu sử cụ Nguyễn Đình Chiểu. In lại trong Nam Kỳ khảo lược,
tập 2: Nam Kỳ tuần báo (Trần Thành Trung sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). Huế:
Nxb. Thuận Hóa.
23. Lƣu Hồng Sơn. 2016. “Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu văn học và
hoạt động báo chí trƣớc năm 1954”. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 3.
24. Nguyễn Thế Anh. 1974. Nhập môn phương pháp Sử học (tài liệu học tập về các kỹ
thuật của sự nghiên cứu sử dành cho sinh viên Ban Sử học, Trƣờng Đại học Văn khoa
Sài Gòn). Sài Gòn.
25. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1959. Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Nam Việt, tập
Thƣợng (ngƣời dịch: Tu Trai Nguyễn Tạo; Thái Văn Kiểm giới thiệu). Sài Gòn: Nha Văn
hóa Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn.
26. Thọ Xuân Lê Văn Phúc. 1942. “Bản sách dẫn về Đại Nam liệt truyện”. Tạp chí Tri
Tân, số 57.
27. Vũ Ngọc Phan. 1936. “Về Sử học, muốn gần sự thật cần phải theo một phƣơng
pháp”. Báo Sông Hương, số 2.
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ triều nguyễn thế kỷ XIX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dong_gop_cua_le_tho_xuan_trong_nghien_cuu_lich_su_nam_bo_tri.pdf