Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa xứ Núi Sam trong phát triển du lịch tỉnh An Giang

Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 37-46  
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM  
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG  
Hồ Thị Đào* và Nguyễn Quốc Bình  
Trường Đại hc An Giang, Đại hc Quc gia thành phHChí Minh  
*Tác giliên h: htdao@agu.edu.vn  
Lịch sử bài báo  
Ngày nhn: 26/8/2020; Ngày nhn chnh sa: 26/11/2020; Ngày duyt đăng: 25/01/2021  
Tóm tắt  
An Giang, tuy là vùng đt mi được khai phá hơn 300 năm nhưng li là vùng đt hi tca  
nhiu tín ngưỡng dân gian đc đáo, trong đó có tín ngưỡng thBà Chúa X. Miếu thBà Chúa Xứ  
Núi Sam gn lin vi lhi Vía Bà được nhiu người biết đến. Nơi đây, tlâu đã trthành địa chỉ  
hành hương quen thuc ca đông đo người dân Nam Bvà cũng là đim đến tham quan ni tiếng  
ca du khách trong và ngoài nước. Hin nay, tín ngưỡng thBà Chúa XNúi Sam đã và đang được  
khai thác như mt sn phm du lch đc đáo. Trên cơ stìm hiu vtín ngưỡng thBà Chúa XNúi  
Sam, bài viết còn đề cp đến vn đề khai thác tín ngưỡng này vào phát trin du lch An Giang.  
Từ khóa: Bà Chúa X, du lch An Giang lhi Vía Bà, tín ngưỡng thBà Chúa X.  
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------  
CULTURAL VALUES IN WORSHIPPING THE GODDESS OF  
SAM MOUNTAIN TO TOURISM DEVELOPMENT  
IN AN GIANG PROVINCE  
Ho Thi Dao* and Nguyen Quoc Binh  
An Giang University, Viet Nam National University, Ho Chi Minh City  
*Corresponding author: htdao@agu.edu.vn  
Article history  
Received: 26/8/2020; Received in revised form: 26/11/2020; Accepted: 25/01/2021  
Abstract  
An Giang, a newly discovered land for over 300 years, holds many unique folk religions,  
including the worship of the Goddess Sam Mountain. The temple for this Goddess is associated  
with the GodMother-worshipping festival well-known to many people. This place has long been a  
familiar pilgrimage destination for many people in the South and it has also attracted many domestic  
and foreign tourists. Currently, the worship of this Goddess has been exploited as a unique tourism  
product. On the basis of studying the worship of Goddess Sam Mountain, the article discusses the  
issues of exploiting the ritual practices for tourism development in An Giang.  
Keywords: Goddess Sam Mountain, tourism in An Giang, the worship of Goddess Sam  
Mountain, GodMother-worshipping festival.  
37  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
1. Đặt vấn đề  
số nhà khoa học cho rằng tín ngưỡng này xuất  
phát từ tục thờ vợ của thần Shiva trong Bà La  
Môn giáo với hai hóa thân đối lập nhau: là phúc  
thần với tên gọi nữ thần Uma, hiển linh trông  
coi và bảo trợ cho các bà mẹ, hài nhi, phụ nữ,  
hoa màu, mùa màng và gia súc; là hung thần với  
tên gọi nữ thần Kali với thân thể màu đen, nét  
mặt dữ dằn, miệng có răng nanh dài, hiển linh  
bằng sự trừng phạt. Người Khmer trước khi theo  
Phật giáo Nam Tông đã từng chịu ảnh hưởng  
của Bà La Môn giáo nên đã thờ nữ thần Kali  
với tên gọi là tín ngưỡng Bà Đen (Trần Ngọc  
Thêm, 2014, tr. 224).  
An Giang là tỉnh phía Tây Nam của tổ  
quốc, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Là tỉnh  
có dân số đông nhất khu vực Đồng bằng Sông  
Cửu Long (ĐBSCL) với thành phần dân cư chủ  
yếu gồm bốn dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer.  
Chính quá trình cộng cư của bốn dân tộc đã tạo  
nên sự phong phú và đa dạng về phong tục, tập  
quán, tín ngưỡng, lễ hội trên vùng đtAn Giang.  
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là hình thức tín  
ngưỡng của người Kinh, người Hoa và của cả  
người Khmer ở Nam Bộ. Bà Chúa Xứ là vị nữ  
thần quan trọng trong tâm thức của người dân nơi  
đây. Ở Núi Sam (An Giang) truyền thuyết về Bà  
Chúa Xứ đã có hàng trăm năm nay, Bà Chúa Xứ  
được cư dân nơi đây vô cùng tôn kính, thể hiện  
rõ nhất qua việc xây dựng cơ sở thờ tự, cách bày  
trí tượng thờ, qua trang phục, lễ vật dâng cúng,  
đặc biệt là nghi thức cúng và long trọng tổ chức  
lễ hội Vía Bà hàng năm.  
Có người lại cho rằng nguồn gốc của tín  
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là từ tục thờ Bà Mẹ  
Xứ Sở (Ponagar) của người Chăm; khi đến vùng  
này người Chăm đã tiếp nhận các hình tượng  
nữ thần Uma, Kali của người Khmer vào tín  
ngưỡng Bà Mẹ Xứ Sở của mình. Song, thực ra  
lực lượng quyết định sự hình thành tín ngưỡng  
Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ không phải là người  
Khmer với tín ngưỡng Bà Đen, cũng không phải  
người Chăm với tín ngưỡng thờ Bà Mẹ Xứ Sở  
mà đúng hơn là sự phối hợp của ba tộc người,  
trong đó vai trò chủ đạo là người Việt. Người  
Việt gốc ở Bắc Bộ sống bằng nghề nông trồng  
lúa nước có truyền thống trọng nữ, vốn từ lâu  
đã rất mạnh về việc thờ nữ thần, tiêu biểu là  
đạo mẫu với các hệ thống thần thánh, nghi lễ  
Tam phủ, Tứ phủ thờ các Mẫu: Thượng Thiên,  
Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Liễu Hạnh. Vào  
Trung Bộ, người Việt đã phối hợp với người  
Chăm thành tín ngưỡng thờ Thiên Ya-na Thánh  
mẫu. Từ miền Trung vào Nam Bộ, người Việt  
đã tiếp tục phối hợp tín ngưỡng thờ nữ thần của  
mình với tín ngưỡng Bà Đen của người Khmer  
ở Đông Nam Bộ thành tín ngưỡng thờ Linh  
Sơn Thánh Mẫu với Núi Bà Đen ở Tây Ninh  
làm trung tâm và tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ  
ở Tây Nam Bộ với Núi Sam ở Châu Đốc (An  
Giang) làm trung tâm (Trần Ngọc Thêm, 2014,  
tr. 225). Vì lẽ đó mà pho tượng đàn ông tạc thần  
Vishnu trên núi Sam đã được mang xuống trang  
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam và lễ  
hội Vía Bà không chỉ là sản phẩm văn hóa độc  
đáo và là một phần tất yếu trong đời sống tâm  
linh của người dân An Giang mà ngày nay, cùng  
với sự phát triển của lĩnh vực du lịch, tín ngưỡng  
ấy đã được các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý và  
các doanh nghiệp khai thác như một sản phẩm du  
lịch độc đáo của An Giang. Trên cơ sở đó, trong  
phạm vi bài viết này, tác giả xin đề cập đến tín  
ngưỡng và các giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ  
Bà Chúa Xứ Núi Sam trong phát triển du lịch ở  
An Giang, đồng thời đề xuất một số giải pháp  
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của  
tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ phục vụ du lịch An  
Giang trong thời gian tới.  
2. Từ tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ đến lễ  
hội cấp Quốc gia Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam  
2.1. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam  
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là tín ngưỡng  
phổ biến trong phạm vi cả vùng ĐBSCL nói  
chung và toàn tỉnh An Giang nói riêng. Về  
nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ, một  
38  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 37-46  
điểm để cải biến thành tượng người đàn bà Việt án thủ Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao Miên  
với hình hài Bà Chúa Xứ nhân từ, phúc hậu. Bà quốc ấn. Thoại Ngọc Hầu phải ngày đêm  
Chúa Xứ có thể xem là vị thần hội tụ hình ảnh phòng thủ biên cương, chống giặc ngoại xâm.  
của các nữ thần Việt và phi Việt khác nhau: Bà Phu nhân ông là Bà chánh phẩm Châu Thị Tế  
chúa Liễu Hạnh cùng các mẫu Tam phủ - Tứ phủ nghe đồn có miếu Bà Chúa Xứ rất linh thiêng  
của người Việt; bà Ponagar, bà Thiên Ya-na nửa  
Việt nửa Chăm; bà Đen và bà Trắng của người  
Khmer; bà Thiên Hậu của người Hoa - tất cả  
hội tụ vào một mẹ duy nhất trong tâm thức và  
tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.  
liền đến cầu nguyện cho chồng được bình an,  
chiến thắng khải hoàn, giữ yên bờ cõi. Sau khi  
thắng giặc trở về, nghe vợ kể về câu chuyện  
cầu nguyện với Bà Chúa Xứ, Thoại Ngọc Hầu  
cho xây dựng lại ngôi miếu khang trang hơn  
để tạ ơn Bà.  
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ với cái gốc là  
tục thờ Mẫu đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh  
không chỉ của người Việt mà còn của tất cả các  
tộc người Khmer, Chăm, Hoa trong vùng. Bà  
Chúa Xứ trở thành hình ảnh một bà mẹ nhân từ,  
phúc hậu đầy quyền uy. Đến với Bà người ta tin  
rằng sẽ được Bà phù hộ và ban cho tài lộc, sức  
khỏe, sự thành công trong làm ăn buôn bán, trong  
công việc và trong cả cuộc đời.  
Miếu Bà Chúa Xứ nằm dưới chân núi Sam,  
được lập vào năm 1820. Lúc đầu miếu được cất  
bằng tre lá đơn sơ. Năm 1870 được xây dựng  
lại bằng gạch và đến năm 1962 được trùng tu  
bằng đá miếng và lợp ngói âm dương. Dáng  
vẻ khang trang như hiện nay là kết quả của đợt  
trùng tu vào các năm 1972 - 1976 (Trần Ngọc  
Thêm, 2014, tr. 223).  
2.2. Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam  
Ngôi miếu thờ Bà Chúa Xứ được nhân dân  
trong vùng biết đến từ lâu. Họ truyền tụng nhau  
về sự linh thiêng mầu nhiệm của Bà. Mỗi truyền  
thuyết là một câu chuyện kỳ bí, sự bí ẩn này đã  
thu hút khách thập phương tới viếng và thu hút  
các nhà nghiên cứu đến tìm hiểu về pho tượng  
Bà. Nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đến  
đây nghiên cứu vào năm 1941 cho rằng pho tượng  
cao 1,25m, được đúc liền với một thớt đá son và  
tượng là một nam thần, tạc dáng một người đàn  
ông ngồi nghỉ ngơi một cách vương giả. Đây là  
loại tượng thần Vishnu thường thấy ở Ấn Độ,  
Myanmar, Lào,…Tượng được tạc vào cuối thế  
kỷ VI và rất có thể là một trong số hiện vật của  
nền văn hóa Óc Eo còn sót lại.  
Truyền thuyết kể rằng, vào những năm đầu  
thế kỷ XIX, quân Xiêm thường sang nước ta  
quấy nhiễu, cướp bóc. Mỗi khi giặc đến, người  
dân quanh vùng lại bồng bế nhau chạy lên núi  
lánh nạn. Có lần quân giặc đuổi lên tận đỉnh  
núi Sam, chúng phát hiện tượng Bà trên đỉnh  
núi Sam, dù cố gắng khiêng tượng Bà đi nhưng  
không tài nào di chuyển được pho tượng Bà. Một  
hôm dân làng lên núi gặp được tượng Bà, họ bàn  
nhau cùng khiêng pho tượng xuống núi để lập  
miếu thờ. Thế nhưng, dù đã tập hợp mấy mươi  
thanh niên lực lưỡng, họ vẫn không sao nhấc nổi  
pho tượng. Bỗng nhiên, một phụ nữ lên đồng, tự  
xưng là Bà Chúa Xứ và bảo phải có chín cô gái  
đồng trinh lên khiêng tượng Bà xuống. Dân làng  
làm theo và thật kỳ diệu, các cô gái này khiêng  
được tượng Bà một cách nhẹ nhàng. Đến chân  
núi, tượng Bà bỗng dưng nặng trịch, không xê  
dịch được nữa. Dân làng cho rằng Bà muốn ngự  
nơi này nên lập miếu thờ Bà.  
Vishnu là thần Bảo tồn thuộc Bà La Môn  
giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Pho tượng đá  
trên núi Sam có lẽ là của người Khmer bỏ quên  
trên đỉnh núi không biết từ bao giờ, được phát  
hiện vào khoảng năm 1820 - 1825, sau khi lưu  
dân Việt đến khai phá và lập nghiệp ở đây. Họ  
đã mang tượng thần xuống chân núi, sửa sang,  
Một truyền thuyết khác kể rằng, khi Thoại  
Ngọc Hầu về nhận lãnh Khâm sai thống chế tô điểm thành tượng Bà và lập miếu thờ. Miếu  
39  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
dần dần trở thành tâm điểm của tín ngưỡng thờ Bà và tham quan, du lịch. Khách hành hương đến  
Bà Chúa Xứ.  
lễ hội Vía Bà có thể đi theo đường bộ từ Long  
Xuyên lên Châu Đốc theo quốc lộ 91, rẽ vào 7  
km là đến Miếu Bà hoặc có thể đi bằng đường  
thủy từ Cần Thơ, Sóc Trăng lên hay từ thành phố  
Hồ Chí Minh xuống.  
Miếu Bà Chúa Xứ là một tòa tháp với kiến  
trúc theo hình chữ “Quốc” có dạng bông sen nở,  
mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói ống màu xanh.  
Chánh điện gồm hai lớp. Lớp trong là nơi thờ  
tượng Bà ở chính giữa, bên phải tượng Bà (nhìn  
từ ngoài vào) là một linga bằng đá cao khoảng  
hơn 1 mét đặt trên hương án, dân chúng gọi là  
“Bàn thờ Cậu”. Bên trái có một tượng gỗ chạm  
hình yoni được gọi là “Bàn thờ Cô”. Lớp ngoài  
là bàn thờ Hội đồng, hai bên là bàn thờ Tiền hiền  
khai khẩn (bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ  
(bên phải). Các hình chạm khắc và hoa văn trang  
trí trong miếu là sự phối hợp tổng hòa của các  
luồng văn hóa: Việt, Hoa, Chăm, Khmer.  
Cho đến ngày nay, vẫn không ai biết chính  
xác tại sao lễ Vía Bà được diễn ra từ ngày 23  
đến 27 tháng 4 Âm lịch. Theo dân gian, thời  
gian đó là ngày dân địa phương phát hiện ra  
tượng Bà hoặc là ngày an vị tượng Bà sau khi  
Bà được khiêng từ trên núi xuống. Có tài liệu  
cho rằng, khi Thoại Ngọc Hầu cho trùng tu lại  
ngôi miếu, lễ khánh thành được tổ chức long  
trọng trong ba ngày để tạ ơn Bà, từ đó dân làng  
chọn thời gian đó để làm lễ Vía Bà và kéo dài  
cho đến ngày nay.  
Miếu Bà Chúa Xứ nằm trong quần thể khu  
di tích lịch sử - văn hóa Núi Sam thuộc thành phố  
Châu Đốc, tỉnhAn Giang và được xem là điểm du  
lịch văn hóa độc đáo, đồng thời đây còn được xem  
là điểm đến tham quan, chiêm bái, cầu nguyện  
về một ước muốn, sự thỏa mãn tâm linh,…tất cả  
tạo nên tính hấp dẫn du khách thập phương đến.  
Theo thông lệ, lễ hội Vía Bà Chúa xứ Núi  
Sam trước đây diễn ra từ đêm 23 đến 27 tháng  
4 Âm lịch, ngày vía chính là ngày 25 tháng 4  
Âm lịch (Hội Văn nghệ Châu Đốc, 2000, tr.26).  
Bắt đầu từ năm 2001, khi lễ hội Vía Bà Chúa  
Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thông tin và  
Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội  
cấp quốc gia, chính quyền thành phố Châu Đốc  
nói riêng và tỉnh An Giang nói chung đã quyết  
định tổ chức thêm lễ phục hiện rước tượng Bà  
trên đỉnh núi Sam xuống miếu thờ vào ngày  
22 tháng 04 Âm lịch nhằm giúp du khách gần  
xa hồi tưởng lại cảnh người dân đưa tượng Bà  
xuống miếu thờ. Từ đó đến nay, lễ hội cấp quốc  
gia Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam chính thức được  
bắt đầu từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 4 Âm lịch  
hàng năm. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là  
một lễ hội hoàn chỉnh với cả phần lễ và phần  
hội. Trong đó:  
2.3. Lễ hội cấp quốc gia Vía Bà Chúa Xứ  
Núi Sam  
Núi Sam - ngọn núi mà ngay từ thời khẩn  
hoang đã được Thoại Ngọc Hầu ca ngợi là nơi  
thắng địa. Núi Sam không chỉ nổi tiếng với sự  
tươi đẹp của cảnh quan thiên nhiên mà còn được  
nhiều người biết đến với sự linh thiêng mầu  
nhiệm của Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà Chúa  
Xứ Núi Sam luôn là tâm điểm thu hút hàng triệu  
lượt khách hành hương đến viếng Bà và kết hợp  
tham quan - du lịch.  
Đã trở thành thông lệ, hàng năm vào tháng  
4 Âm lịch, mùa lễ hội Vía Bà lại bắt đầu. Mặc  
dù lễ hội chính thức được diễn ra vào những  
ngày cuối tháng 4 (Âm lịch) nhưng từ sau Tết  
Nguyên Đán, khoảng độ từ rằm tháng Giêng,  
dòng người từ khắp các tỉnh ĐBSCL, thậm chí  
ở cả miền Đông, miền Trung, miền Bắc bắt đầu  
đổ về thành phố Châu Đốc (An Giang) để viếng  
Phần lễ: chương trình phần lễ vẫn giữ theo  
nghi thức truyền thống nhưng nội dung và hình  
thức được nâng chất với xu hướng tạo điều kiện  
để du khách và nhân dân cùng tham gia, tạo sự  
hấp dẫn để thu hút khách du lịch. Phần lễ hiện  
nay bao gồm các nghi lễ với trình tự như sau:  
40  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 37-46  
Lphc hin rước tượng Bà: đây là nghi lễ có vị khách nào dâng cúng áo mão cho Bà đều  
được bổ sung khi lễ hội được công nhận là lễ hội  
cấp quốc gia. Thời gian tiến hành lễ rước tượng  
Bà được tiến hành vào chiều ngày 22 tháng 4 Âm  
lịch. Nói là lễ phục hiện rước tượng Bà nhưng  
thực chất là rước áo, mão của Bà từ trên đỉnh  
núi Sam về miếu để các tín nữ trong ban Quý  
tế mặc cho Bà sau lễ tắm Bà. Để bắt đầu cho lễ  
phục hiện, sau khi làm lễ tại Nhà bia liệt sĩ, đoàn  
rước đưa long đình được sơn son thiếp vàng tiến  
lên đỉnh núi Sam. Sau khi lên đỉnh núi, đến bệ  
đá nơi Bà ngự trước đây, đại diện Ban Quản trị  
lăng miếu cùng các vị bô lão, chức sắc đến trước  
bệ thờ và thắp hương khấn vái xin phép đưa áo  
mão Bà xuống núi.  
được khoác chồng lên, đến khi nào nhiều thì mới  
cởi xuống. Để giữ sự tôn nghiêm cho Bà, tất cả  
những người đến dự lễ, kể cả các vị bô lão, chức  
sắc đều không được xem cảnh lau bụi và thay áo  
mão cho Bà.  
Lthnh sc: cử hành vào lúc 15 giờ ngày  
24 tháng 4 Âm lịch (Hội Văn nghệ Châu Đốc,  
2000, tr.28). Các vị chức sắc, bô lão trong làng  
mặc trang phục chỉnh tề, nghiêm trang đến lăng  
Thoại Ngọc Hầu để thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu  
về miếu Bà. Tới trước điện thờ Thoại Ngọc Hầu,  
mọi người dâng hoa, niệm hương, tế lễ. Sau đó,  
họ thỉnh bốn bài vị lên long đình về miếu Bà. Bốn  
bài vị đó là: bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bà  
chánh phẩm Châu Thị Tế, bà nhị phẩm Trương  
Thị Miệt và bài vị Hội đồng.  
Hình 1. Tái hiện cảnh đưa tượng Bà xuống núi  
trong Lễ phục hiện rước tượng Bà  
Ngun: Tác gi.  
Hình 2. Lễ thỉnh sắc trong  
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam  
Lt m Bà: cử hành lúc 0 giờ đêm 23 rạng  
sáng ngày 24 tháng 4 Âm lịch (Hội Văn nghệ  
Châu Đốc, 2000, tr. 28).  
Ngun: Tác gi.  
Ltúc yết: được tổ chức vào lúc 0 giờ đêm  
25 rạng 26 tháng 4 Âm lịch (Hội Văn nghệ Châu  
Đốc, 2000, tr. 28). Tất cả các bô lão trong làng  
và các vị chức sắc trong Ban Quản trị miếu với  
Đúng 0 giờ, các vị bô lão, chức sắc tiến hành  
làm lễ dâng trà, rượu và bắt đầu nghi thức tắm  
Bà. Sau khi làm lễ xong, chín người phụ nữ được  
tuyển chọn là những người có đức, hiền hậu vào lễ phục chỉnh tề, đứng xếp thành hai bên, trước  
chánh điện. Phía sau các vị ấy là bốn vị học trò  
lễ và bốn đào thầy. Đứng trước chánh điện với  
tượng Bà là ông Chánh bái. Lễ vật cúng được  
chuẩn bị trước đó không lâu nhưng rất kỹ bao  
gồm: một con heo trắng đã cạo lông, mổ bụng  
sạch sẽ, chưa nấu chính; một đĩa đựng một ít  
bên trong nơi đặt tượng Bà để thay áo mão đã cũ  
và dùng nước thơm để lau sạch bụi bám trên cốt  
tượng Bà. Lau bụi xong, tượng Bà được thay bộ  
áo mão mới, đó là bộ áo mão rước từ trên đỉnh  
núi đem về. Đây không phải là bộ áo mão duy  
nhất được khoác lên tượng Bà, trong năm nếu  
41  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
lông và máu con heo (mao huyết); một mâm trống và xướng “ca công tiếp giá”, lập tức đoàn  
xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một hát bội nổi chiêng trống rộ lên và chương trình  
đĩa gạo muối.  
hát bội bắt đầu. Các tuồng hát đã được chuẩn bị  
sẵn sàng, trước là phục vụ, mua vui cho Bà, sau  
là phục vụ du khách tham dự lễ hội.  
Khi cúng, ông Chánh bái và các vị bô lão  
đến niệm hương trước bàn thờ. Sau khi đánh ba  
hồi trống gõ và ba hồi chiêng trống, nhạc lễ bắt  
đầu trỗi lên là dâng hương, chúc tửu và hiến trà.  
Từng diễn biến của buổi lễ được hai người xướng  
lễ xướng to lên. Ông Chánh bái đi trước, bốn học  
trò lễ và bốn đào thầy đi theo sau, hướng về phía  
bàn thờ tổ. Tại đây ông Chánh bái tự tay rót rượu  
để học trò lễ đem dâng cúng.  
LChánh tế: bắt đầu lúc 04 giờ sáng ngày  
26 tháng 4 Âm lịch (Hội Văn nghệ Châu Đốc,  
2000, tr. 28). Nghi thức cũng tương tự như lễ Túc  
yết, chỉ khác là thêm một phần nội dung văn tế  
và có thêm phần “ẩm phước” với ý nghĩa phần  
thưởng của Bà ban cho nhân dân và vị Chánh tế  
ra nhận thay.  
Sau khi dâng hoa và dâng ba lần rượu gọi  
là chúc tửu, ba lần trà gọi là hiến trà, theo lệnh  
của người xướng lễ, văn bản tế được mang đến  
trước bàn thờ và một người trong Ban Quản trị  
miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông Chánh bái  
đốt bài văn tế này, heo cúng sống trên bàn được  
lật ngửa ra trước khi khiêng đi chế biến.  
LH i sc: chiều ngày 27 tháng 4 Âm lịch,  
Ban Quản trị làm lễ Hồi sắc, tức đưa bốn bài vị  
của ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, bà  
Trương Thị Miệt và bài vị Ban Hội đồng về lại  
lăng ông Thoại Ngọc Hầu, chính thức kết thúc  
lễ hội.  
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam thoạt đầu  
chỉ do dân làng Vĩnh Tế tham gia cúng tế, dần  
dần lượng khách từ khắp nơi trong cả nước đổ về  
đây rất đông, có thể nói đây là một lễ hội truyền  
thống lớn nhấtAn Giang nói riêng và ĐBSCLnói  
chung. Với giá trị văn hóa độc đáo, lễ hội Vía Bà  
Chúa Xứ Núi Sam đã được Bộ Văn hoá Thể thao  
và Du lịch công nhận là “Di sản văn hóa phi vật  
thể quốc gia” vào năm 2014.  
LXây chu - hát bi: diễn ra sau lễ Túc yết.  
Vào lễ, người xướng nội hô to “Ca công tựu vị”,  
thì ông chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ  
đặt giữa võ ca, tay cầm dùi trống nâng lên ngang  
trán, miệng khấn vái râm rang. Trên bàn thờ có  
chuẩn bị sẵn một tô nước và một nhành dương  
liễu. Sau khi khấn vái, tô nước được xem là nước  
thiêng, nước thánh của Chúa Xứ và các vị thần  
thánh. Ông chánh bái ca công cầm nhành dương  
liễu nhúng vào tô nước rồi vẫy xung quanh với  
động tác tựa như mưa rơi với ý nghĩa ban phát  
năng lượng thiêng xuống cõi trần cầu cho vạn  
vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Vừa làm  
những động tác ấy, ông vừa xướng to:  
Phần hội: Song song với phần lễ tại Miếu  
Bà là phần hội bao gồm nhiều hoạt động như:  
biểu diễn văn nghệ liên quan đến bốn dân tộc,  
các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí, triển lãm  
tranh nghệ thuật, các cuộc thi tài về ẩm thực,…  
rất hấp dẫn, thu hút đông đảo khách du lịch tham  
gia và đáo lệ hàng năm.  
“Nht xái thiên thanh (mt ry cho tri xanh)  
Nhxái địa linh (hai ry cho đt tt lành)  
3. Tình hình khai thác giá trị văn hóa của  
tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam trong  
phát triển du lịch tỉnh An Giang  
Tam xái nhân trường (ba ry cho con người  
trường th)  
Txái cho qudit hình (bn ry cho ma  
qutiêu tan)”  
Hiện nay, Việt Nam đang trong xu thế mở  
cửa và hội nhập, trong đó du lịch đóng vai trò đặc  
biệt quan trọng cả trong phát triển kinh tế lẫn văn  
hóa. Để hoạt động du lịch phát triển theo hướng  
Đọc xong, ông Chánh ca công đặt tô nước và  
cành dương liễu trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi  
42  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 37-46  
bền vững, người làm du lịch đã khai thác các g và thậm chí là cầu con cái khi hiếm muộn. Do  
trị văn hóa từ nhiều bình diện khác nhau. Một đó, đối tượng khách đến với miếu Bà cũng vô  
địa điểm du lịch có sức thu hút du khách thường cùng đa dạng, đủ mọi lứa tuổi, nghề nghiệp,  
là địa điểm có những giá trị tổng hòa giữa các giới tính, trình độ học vấn,…Họ đến đây với  
tài nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa. Ở An cả lòng thành kính, tin tưởng vào một thế giới  
Giang, Núi Sam với miếu Bà Chúa Xứ và lễ hội siêu nhiên mà ở đó, Bà Chúa Xứ luôn lắng nghe  
Vía Bà đã hội tụ đủ các giá trị cho một điểm du và phù hộ cho họ. Yếu tố tâm linh, tính thiêng  
còn thấy rõ trong việc du khách từ mọi miền  
đất nước đổ về miếu Bà để vay mượn tiền của  
Bà Chúa Xứ để về làm ăn, buôn bán. Mọi người  
truyền nhau về việc xin gì được nấy đã gây sự  
tò mò và thu hút càng nhiều khách đến để vay  
mượn, cầu nguyện. Có vay thì phải có trả và  
tạ lễ, chính niềm tin này dẫn đến việc niềm tin  
vào Bà Chúa Xứ và lượng khách đến miếu Bà  
không bao giờ suy giảm.  
lịch hấp dẫn du khách gần xa và là một nguồn  
tài nguyên du lịch văn hóa quý giá đối với hoạt  
động du lịch của tỉnh.  
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là một  
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian đã trở thành thông  
lệ và có phạm vi tác động rộng lớn, lan xa, thỏa  
mãn nhu cầu tâm linh, củng cố đức tin trong cuộc  
sống, làm phong phú thêm đời sống tinh thần  
của con người.  
- Đối với lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam:  
đây là lễ hội đã được công nhận là lễ hội cấp  
quốc gia và là một giá trị văn hóa vùng đặc sắc,  
thu hút hàng triệu lượt khách hành hương, khách  
du lịch trong và ngoài nước đến tham dự. Khi  
xây dựng các điểm du lịch, người ta thường tính  
đến sự tiện nghi hiện đại. Tuy nhiên, chính sự  
độc đáo và lạ lẫm trong văn hóa vùng miền lại  
là yếu tố thu hút khách du lịch trong và ngoài  
nước tìm đến tham dự. Trong thời gian diễn ra lễ  
hội Vía Bà, bên cạnh phần lễ long trọng, nghiêm  
trang, nhiều nơi ở An Giang nói chung và thành  
phố Châu Đốc nói riêng còn tổ chức các hoạt  
động thể thao, văn nghệ, ẩm thực, đua thuyền  
rồng,…sôi nổi để phục vụ nhân dân và khách  
du lịch. Du khách từ các nơi về đây không chỉ  
có thể xin lộc Bà mà còn có thể tham quan các  
di tích lịch sử gần đó, đến thăm và thẩm nhận  
các sản phẩm văn hóa ở các làng nghề, kết hợp  
với việc mua sắm đặc sản của tỉnh như đường  
thốt nốt, các loại mắm,…Từ đó có thể thấy  
rằng, từ tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam  
có thể khai thác phát triển loại hình du lịch lễ  
Thực tế cho thấy, từ tín ngưỡng thờ Bà Chúa  
Xứ, người dân nơi đây đã lập miếu thờ Bà và  
hàng năm tổ chức lễ Vía long trọng. Qua thời  
gian, miếu Bà và lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam  
đã trở thành trọng điểm thu hút ngày càng nhiều  
khách du lịch đến An Giang. Tính hấp dẫn của  
tài nguyên này chính là dựa vào khía cạnh tâm  
linh mang nét đặc thù nhất định của tín ngưỡng  
thờ Bà Chúa Xứ, gắn với các giá trị lịch sử - văn  
hóa của hệ thống di tích nơi đây. Cụ thể của sức  
hấp dẫn đó là:  
- Đầu tiên qua lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi  
Sam có thể khai thác giá trị văn hóa của tín  
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ, giúp du khách hiểu  
được niềm tin của người dân nơi đây vào Bà  
Chúa Xứ Núi Sam và thẩm nhận được yếu tố  
tâm linh, linh thiêng trong lễ hội. Yếu tố này  
thể hiện rõ nhất qua truyền thuyết chín cô gái  
đồng trinh khiêng tượng Bà xuống núi theo  
lời mách bảo của Bà. Chính việc Bà chọn nơi  
ngự đã tạo nên một niềm tin vững chắc cho du  
khách gần xa. Họ tấp nập đến với miếu Bà là  
để khấn vái, cầu xin sự bình an, suôn sẻ trong hội. Tour du lịch đến với miếu Bà và tham gia  
cuộc sống và trong công việc. Bên cạnh đó, lễ hội Vía Bà vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng  
(dự lễ), vui chơi giải trí (tham dự hội) và tham  
quan, tìm hiểu (đi thăm các danh thắng và di tích  
nhiều du khách gần xa còn đặt niềm tin tuyệt  
đối vào Bà khi đến để cầu duyên, cầu phúc đức  
43  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
lịch sử) cùng nhu cầu mua sắm hàng hóa, đặc túi, bán hàng rong,…vẫn còn tiếp diễn đã ảnh  
sản địa phương (các chợ và trung tâm thương  
mại). Đây cũng là tour được các công ty du lịch  
khai thác nhiều nhất.  
hưởng không nhỏ đến tính nghiêm trang và vẻ  
đẹp thanh tịnh bên trong khuôn viên miếu Bà.  
Hơn nữa, vấn đề nhận thức sai lệch của đại bộ  
phận khách du lịch, khách hành hương ngày nay  
về tính linh thiêng của Bà cũng làm ảnh hưởng  
không nhỏ đến tính giá trị của tín ngưỡng và lễ  
hội. Nhiều người mê muội và cho rằng, muốn  
được Bà ban phước, phù hộ thì phải có lễ vật  
thật lớn, nhiều người ở xa đến họ sẵn sàng thuê  
lễ vật (chủ yếu là heo quay) và một người vào  
cúng lễ, xin lộc, vay vốn làm ăn. Đó chỉ là tín  
ngưỡng, là niềm tin của người dân vào Bà Chúa  
Xứ nhưng vô tình lại biến thành hiện tượng mê  
tín dị đoan và vô tình đem đến cái lợi cho những  
người sống quanh miếu Bà muốn hưởng lợi từ  
niềm tin của khách hành hương, khách du lịch  
vào sự linh thiêng của Bà.  
Hình 3. Quang cảnh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ  
Núi Sam  
Ngun: Tác giả  
4. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị  
văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi  
Sam phục vụ du lịch tỉnh An Giang  
Đối với An Giang, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ  
Núi Sam ngày nay không còn là lễ hội trong  
phạm vi của tỉnh mà là cả vùng và thậm chí là  
của cả nước kể từ khi lễ hội được công nhận là  
lễ hội cấp quốc gia và đón nhận bằng Di sản văn  
hóa phi vật thể quốc gia. Có thể thấy rằng, kể  
từ năm 2001, việc tổ chức lễ hội Vía Bà Chúa  
Xứ Núi Sam đã trở thành công nghệ tổ chức du  
lịch lễ hội với các tour hấp dẫn là du lịch lễ hội  
kết hợp với tham quan di tích vùng Bảy Núi và  
mua sắm tại chợ biên giới. Hầu hết các tour du  
lịch từ thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong  
khu vực ĐBSCL đến đây đều là tour du lịch liên  
hoàn. Đường giao thông tương đối thuận tiện,  
dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng đầy đủ và thuận  
lợi để phục vụ du khách.  
Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện  
tượng mang tính toàn cầu và là một nhân tố  
quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế,  
xã hội của một quốc gia, một địa phương. Trên  
thực tế, du lịch là một hiện tượng mang tính hai  
mặt: vừa đóng góp tích cực vào sự phát triển  
kinh tế, văn hóa - xã hội, đồng thời cũng chính  
du lịch là nhân tố dẫn đến sự suy thoái về môi  
trường tự nhiên, môi trường văn hóa - xã hội,  
khai thác du lịch dễ làm mất dần đi bản sắc văn  
hóa của từng địa phương và từng dân tộc. Vì lẽ  
đó, khi khai thác các giá trị văn hóa vào phục  
vụ du lịch, con người cần nhận thức rằng: du  
lịch chính là để tìm hiểu các giá trị văn hóa của  
các di tích, tín ngưỡng, lễ hội,…và phát triển du  
lịch là phải gắn với việc bảo tồn và phát huy các  
giá trị văn hóa vốn có. Từ đó, tạo ra ý thức tôn  
trọng và bảo tồn văn hóa địa phương cũng như  
của các tộc người sinh sống ở địa phương đó.  
Đối với tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và lễ hội  
Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam cũng vậy, trong quá  
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề khai thác tín  
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà Chúa  
Xứ Núi Sam vào phục vụ du lịch đã vấp phải  
những khó khăn và hạn chế nhất định, làm  
ảnh hưởng đến giá trị văn hóa của tín ngưỡng  
và lễ hội. Tình trạng quá tải về khách du lịch,  
tình trạng mất an ninh trật tự, chèo kéo, móc  
44  
Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Tập 10, Số 2, 2021, 37-46  
trình khai thác phục vụ du lịch cũng cần những gạt gây ấn tượng không tốt trong mắt du khách.  
giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị vốn có của  
tín ngưỡng và lễ hội này. Sau đây là một số giải  
pháp được đề xuất:  
- Bo tn nét văn hóa, tín ngưỡng thBà  
Chúa XNúi Sam  
Rất đông người dân Nam Bộ nói chung và  
An Giang nói riêng sinh sống bằng các nghề buôn  
bán, thủ công nghiệp, dịch vụ gắn với yếu tố thị  
trường nên thường xuyên đối mặt với những rủi  
- Nâng cao hiu ququn lý nhà nước về  
công tác qun lý di tích, tchc lhi và phát  
trin du lch  
Triển khai thực hiện tốt và nghiêm chỉnh các ro. Chính vì lẽ đó mà nhu cầu tín ngưỡng của họ  
quy định quản lý di tích. Nghiêm cấm và ngăn thông qua hoạt động thờ cúng tại miếu Bà Chúa  
chặn kịp thời tình trạng bày bán hàng rong, lấn Xứ Núi Sam rất cao. Hoạt động tín ngưỡng này  
chiếm khuôn viên di tích, làm mất đi mỹ quan giúp họ vững tin hơn vào thành công và may mắn  
và tính trang nghiêm của di tích.  
trong các hoạt động thương mại. Về khía cạnh  
tâm linh, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là một trong  
những tín ngưỡng được đông đảo người dân Nam  
Bộ tin tưởng gần như tuyệt đối. Từ nhiều năm  
nay, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ mà tâm điểm  
là lễ hội Vía Bà đã trở thành lễ hội có tầm ảnh  
hưởng rộng trong cả khu vực Nam Bộ và thâm  
chí là cả nước.  
Đối với công tác tổ chức và quản lý lễ hội:  
cần tạo sự chuyển biến trong nhận thức của các  
ban, ngành trong việc quản lý nội dung và ý  
nghĩa hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội cần  
chú trọng việc tuyên truyền các giá trị lịch sử văn  
hóa của lễ hội Vía Bà cũng như những quy định  
của pháp luật có liên quan. Việc tuyên truyền giới  
thiệu về tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam,  
Sau 200 năm tạo dựng và phát triển, miếu  
lễ hội Vía Bà và di tích miếu Bà phải được sưu Bà Chúa Xứ đã trở thành tâm điểm thu hút ngày  
tầm, nghiên cứu một cách khoa học, thận trọng càng nhiều lượt khách du lịch đến viAn Giang.  
trước khi tuyên truyền để bảo tồn nét đặc trưng, Do vậy, trong thời gian tới Ban Quản lý di tích  
đảm bảo tính giá trị của tín ngưỡng và lễ hội. cần phối hợp với chính quyền địa phương ngăn  
Tăng cường tuyên truyền thực hiện nếp sống chặn và xử lý triệt để tình trạng hoạt động mê tín  
văn hóa, văn minh trong lễ hội để nâng cao nhận dị đoan như bói quẻ, xem chỉ tay, coi tướng số,…  
thức của nhân dân và du khách khi tham gia lễ vẫn đang diễn ra xung quanh khu vực miếu Bà.  
hội. Cần nhận thức đúng đắn ý nghĩa của việc tổ Vấn đề này về lâu dài không có lợi cho việc bảo  
chức lễ hội để việc tổ chức lễ hội ngày càng an tồn giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa  
toàn, văn minh, thực sự trở thành ngày hội văn Xứ và lễ hội Vía Bà.  
hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát  
triển kinh tế - xã hội của địa phương.  
5. Kết luận  
Người Việt khi đặt chân đến vùng đất Nam  
Bộ đã mang theo những nét văn hóa, phong tục  
tập quán, tín ngưỡng độc đáo, trong đó có tín  
Đối với việc khai thác và phát triển du lịch:  
Triển khai thực hiện tốt các quy định về du lịch  
(không nâng ép giá, không đeo bám chèo kéo  
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ. Đã 200 năm kể từ khi  
khách du lịch, không bán hàng rong, không làm  
ngôi miếu thờ Bà Chúa Xứ được xây dựng dưới  
tổn hại môi trường, không phá hủy di tích, không  
chân núi Sam, việc thờ cúng và tổ chức lễ hội  
làm mất trật tự an toàn xã hội,…). Tiếp tục tổ  
Vía Bà vẫn là tâm điểm thu hút ngày càng nhiều  
chức các đoàn kiểm tra, giám sát tình hình an  
du khách thập phương đến cúng bái, cầu nguyện.  
ninh trật tự, bảo đảm an toàn cho du khách tại  
Bên trong miếu, Bà Chúa Xứ được thờ rất trang  
các điểm di tích và trong thời gian diễn ra lễ hội,  
nghiêm. Những biểu tượng mang tính hiển linh  
tránh tình trạng giật đồ, móc túi, chèo kéo, lừa  
của Bà như tượng Bà, câu đối, các hình chạm  
45  
Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn  
khắc, hoa văn trang trí,… trong miếu thờ Bà và Hội Văn nghệ Châu Đốc, Ban Quản trị lăng miếu  
cả những câu chuyện truyền thuyết kể về sự hiển  
linh của Bà, tất cả đã tạo nên một tín ngưỡng đặc  
sắc của cộng đồng cư dân Nam Bộ nói chung và  
An Giang nói riêng - tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ  
Núi Sam. Từ xa xưa và cả ngày nay, tín ngưỡng  
thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, miếu Bà và lễ hội Vía  
Bà đóng một vai trò quan trọng trong đời sống  
tâm linh của người dân Nam Bộ. Khi xã hội phát  
triển, nhu cầu về đời sống tinh thần của người  
dân ngày càng cao, nắm bắt được nhu cầu đó,  
ngành du lịch đã và đang khai thác tín ngưỡng  
và lễ hội Vía Bà tạo ra một sản phẩm du lịch vô  
cùng độc đáo, thu hút hàng triệu lượt khách du  
lịch đến tham quan, tìm hiểu. Hy vọng, công tác  
bảo tồn và phát huy giá trị của tín ngưỡng thờ Bà  
Chúa Xứ Núi Sam trong thời gian tới đạt nhiều  
hiệu quả và tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam,  
miếu Bà và lễ hội Vía Bà luôn là trọng điểm thu  
hút khách du lịch tỉnh An Giang./.  
núi Sam. (2000). Lch smiếu Bà Chúa Xứ  
núi Sam. An Giang.  
Huỳnh Quốc Thắng. (2012). Tín ngưỡng Bà Chúa  
Xứ với trọng điểm du lịch hành hương Núi  
Sam - Châu Đốc,An Giang. Kỷ yếu hội thảo  
khoa học Tín ngưỡng thM u Nam B-  
Bn sc và giá tr. NXB Đại học Quốc gia  
thành phố Hồ Chí Minh, 349-354.  
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường.  
(1990). Văn hóa và cư dân ĐBSCL. NXB  
Khoa học Xã hội.  
Phạm Côn Sơn. (2010). Lhi Bà Chúa Xnúi  
Sam và du lch vùng Châu Đốc, An Giang.  
NXB Văn hóa Thông tin.  
Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch An Giang.  
(2014). Quy hoch tng thphát trin ngành  
du lch An Giang giai đon tn ăm 2014  
đến năm 2020, tm nhìn đến năm 2030. An  
Giang.  
Tài liệu tham khảo  
Trần Ngọc Thêm. (2013). Văn hóa người Vit  
vùng Tây Nam B. NXBVăn hóa -Văn nghệ.  
Châu Bích Thủy. (2011). n vBà Chúa Xứ  
Núi Sam. NXB Văn hóa - Văn nghệ.  
46  
pdf 10 trang yennguyen 15/04/2022 3800
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa xứ Núi Sam trong phát triển du lịch tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_van_hoa_cua_tin_nguong_tho_ba_chua_xu_nui_sam_trong.pdf