Du lịch gắn với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên

VĂN HÓA DU LỊCH  
DU LỊCH GẮN VỚI PHÁT TRIÊN KINH TẾ - XÃ HỘI  
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TÂY NGUYÊN  
BÙI THANH THỦY  
Tóm tắt  
Tây Nguyên là một vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch, đặc biệt là tiềm năng du lịch sinh  
thái và văn hóa tộc người để phát triển kinh tế du lịch, cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của vùng và địa  
phương, nhất là đối với khu vực nông thôn miền núi, nơi sinh sống của các đồng bào dân tộc thiểu số.  
Lựa chọn hướng phát triển du lịch và tìm phương thức giúp sử dụng hiệu quả du lịch như một phương  
tiện bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới là  
một hướng đi thích hợp, rất cần cho khu vực Tây Nguyên.  
Từ khóa: Du lịch, nông thôn mới, Tây Nguyên  
Abstract  
The Central Highlands is a place that contains a lot of tourism potential, especially the potential of  
ecotourism and ethnic minorities culture tourism, to develop the tourism-based economy and improve  
the socio-economic condition of the region, the local, especially in mountainous rural areas where  
ethnic minorities live. Choosing the direction of tourism development and find ways to effectively  
use tourism as a means of preserving traditional cultural values and socio-economic development,  
building modern rural areas is a preferred direction. It is very necessary for the Central Highlands.  
Keywords: Tourism, building modern rural areas, Central highland of Vietnam  
1. Ý nghĩa cua du lịch trong vấn đề phát triên  
kinh tê - xã hội, xây dựng nông thôn mới  
về các vùng phát triển. Hơn nữa, thông qua du  
lịch, họ sẽ được tiếp cận với những vấn đề mới  
mà du khách mang đến để nâng cao kỹ năng,  
thay đổi nhận thức, tư duy, các tập quán lạc  
hậu, được giao lưu văn hóa, có nhiều việc làm  
và có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, du lịch còn  
có tiềm năng hỗ trợ các hoạt động kinh tế khác,  
kể cả việc tạo ra công việc làm thêm bổ sung  
cho vấn đề lựa chọn kế sinh nhai, cũng như tạo  
ra thu nhập qua hệ thống cung cấp hàng hóa  
dịch vụ phụ trợ cho hoạt động du lịch.  
Các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam  
đều nhận thức du lịch là một công cụ xóa đói,  
giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã  
hội ở những vùng khó khăn. Do hoạt động du  
lịch diễn ra ở các vùng địa lý khác nhau của  
một quốc gia (vùng rừng núi, vùng sâu, vùng  
xa, vùng biển, đô thị) nên nó trở thành một  
công cụ quan trọng có thể tác động đến việc  
cải thiện đời sống kinh tế, chất lượng sống  
của quốc gia đó ở mọi khu vực thành thị hay  
nông thôn, vùng phát triển cũng như chưa  
phát triển. Du lịch sẽ tạo cơ hội phát triển cho  
người nghèo ngay tại cộng đồng của họ, tránh  
sự dịch chuyển lao động từ khu vực khó khăn  
Điều đặc biệt, hoạt động du lịch có xu  
hướng tuyển dụng nhiều phụ nữ và thanh  
niên hơn so với các ngành khác (bởi sự thay  
thế nguồn lao động thường xuyên). Việc mang  
lại lợi ích kinh tế và sự độc lập của người phụ  
NGHIÊN CỨU  
Số 24 - Tháng 6 - 2018  
85  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
nữ, nhất là những phụ nữ dân tộc thường do  
tập quán tộc người nên địa vị thấp kém, ít được  
coi trọng, là rất quan trọng trong các chương  
trình phát triển gia đình của quốc gia, đảm bảo  
phát triển bền vững, bình đẳng giới và phá vỡ  
vòng đói nghèo.  
với hệ thống các giá trị văn hóa vật thể, phi vật  
thể trong quá trình thích ứng, tương tác với  
môi trường tự nhiên (cao nguyên, thung lũng,  
núi cao, rừng rậm,…) mang đậm sắc thái tộc  
người. Là nơi cư trú, sinh sống, làm ăn,… được  
hình thành, tồn tại trong suốt quá trình lịch sử  
với các buôn làng, thôn bản, bon, play,…  
Mặt khác, du lịch không chỉ mang lại lợi ích  
vật chất cho những người dân bản địa mà còn  
tạo ra nhiều lợi ích ý nghĩa như sự tự hào về  
truyền thống văn hóa, nhận thức đúng đắn  
về việc gìn giữ, phát huy các giá trị, di sản văn  
hóa dân tộc, địa phương, nâng cao chất lượng  
cuộc sống như sức khỏe, phúc lợi xã hội và  
giáo dục. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội  
xây dựng theo yêu cầu của phát triển du lịch  
như giao thông, bưu chính viễn thông, ngân  
hàng, hệ thống cung cấp nước sạch, an ninh,  
vệ sinh, dịch vụ y tế lại mang lại lợi ích chung  
cho cả cộng đồng. Điều đó thực sự cần thiết  
cho các khu vực còn thiếu thốn, khó khăn như  
Tây Nguyên, nơi có số đông đồng bào dân tộc  
thiểu số sinh sống.  
Tây Nguyên còn là một vùng có tiềm năng  
kinh tế dồi dào, có kho tàng văn hóa tộc người  
phong phú, đa dạng và hết sức độc đáo để  
tạo nên một hệ thống tài nguyên du lịch đặc  
trưng. Một vùng văn hóa được hình thành và  
phát triển chủ yếu trên cơ sở của nền“văn minh  
nương rẫy, “ văn minh núi rừng. Nơi đây chính  
là địa bàn cư trú của 20 dân tộc anh em với các  
dân tộc bản địa chính như Gia Rai, Ê Đê, Ba Na,  
Cơ Ho, Xê Đăng, M’Nông, Pa Cô, Vân Kiều, Mạ,...  
Họ đã tạo nên một nền văn hóa truyền thống  
với hệ thống các giá trị văn hóa trong đời sống  
tộc người, tiêu biểu là các công trình kiến trúc,  
trang phục, ẩm thực, phương tiện đi lại, vận  
chuyển, công cụ sản xuất cổ truyền, nhạc khí,  
lễ hội, phong tập tập quán, nghi thức, văn học,  
nghệ thuật dân gian…  
2. Du lịch Tây Nguyên, những lợi thê  
Tây Nguyên là vùng đất chiến lược quan  
trọng vào bậc nhất nước ta, giáp với Hạ Lào và  
Đông Bắc Campuchia, gồm 5 tỉnh: Kon Tum,  
Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, với 3  
thành phố Plêiku, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt. Theo  
kết quả điều tra dân số 1/4/2011, dân số Tây  
Nguyên có trên 5 triệu người, chiếm khoảng  
6% dân số cả nước.  
Công trình kiến trúc bao gồm hệ thống các  
kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, sinh hoạt cộng  
đồng (chùa, nhà thờ, nhà mồ, nhà rông, nhà  
dài); các di tích/di chỉ khảo cổ; các công trình  
kiến trúc dân dụng... Ở mỗi tộc người, các giá  
trị kiến trúc đó biểu hiện rất sinh động, gắn bó  
mật thiết với môi trường sinh thái nhân văn, hài  
hòa trong nếp sống tộc người... tạo nên sự hấp  
dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế.  
Đây cũng là vùng sơn nguyên lớn nhất của  
cả nước, do kiến tạo của địa chất đã tạo nên  
những cao nguyên đất đỏ bazan Kon Tum, Kon  
Plông, Kon Hà Nừng, M’Drăk, Buôn Ma Thuột,  
Lâm Viên, Di Linh gối lên nhau kéo dài bất tận.  
Vùng đất Tây Nguyên nổi tiếng với độ rừng che  
phủ trên 60% diện tích, với những cánh rừng  
đại ngàn mênh mông chứa đựng thảm thực vật  
đa dạng, đồi thông ngút ngàn, một hệ thống  
sông, suối, hồ, thác, các khu bảo tồn thiên  
nhiên hùng vĩ, phong cảnh tuyệt đẹp rất thuận  
lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng,  
tham quan ngắm cảnh thiên nhiên. Đây cũng  
là nơi chứa đựng môi trường sinh thái nhân  
văn của các dân tộc thiểu số do con người tạo  
nên trên những địa bàn cư trú của mình, cùng  
Trang phục cổ truyền các dân tộc vùng Tây  
Nguyên là một kho tàng phong phú về nghệ  
thuật tạo dáng, trang trí, về chủng loại, thể hiện  
sự tài hoa, óc thẩm mỹ của người dân và góp  
phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa tộc  
người, tạo nên nét hấp dẫn cho điểm đến du  
lịch. Văn hóa ẩm thực phản ánh nghệ thuật ăn  
uống trong mối quan hệ ứng xử của con người  
nơi đây với môi trường tự nhiên và xã hội.  
Những món ăn, đồ uống nổi tiếng của đồng  
bào Tây Nguyên như cơm lam, thịt nướng, cà  
đắng, muối kiến, cà phê, rượu cần cùng những  
đặc sản như mật ong, hạt điều, măng khô…  
làm nên sức cuốn hút rất lớn trong du lịch.  
Phương tiện đi lại bằng voi, thuyền, bè… trên  
86 Số 24 - Tháng 6 - 2018  
VĂN HÓA DU LỊCH  
các vùng núi, vùng hồ, cao nguyên… giúp cho  
môi trường hoạt động du lịch thêm hấp dẫn.  
Các loại nhạc cụ độc đáo như: đàn đá, đàn K’ny,  
tù và, Đinh tuk, Klongpút, T’rưng, chiêng Klong  
Klai, trống Sơgơr,… Nghề và sản phẩm thủ  
công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên  
như nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ, trang trí  
cột, vật thờ, dệt thổ cẩm, làm đồ trang sức, đan  
lát (gùi, bồ)… là những giá trị tạo nên một hệ  
thống sản phẩm du lịch độc đáo, riêng biệt, có  
sức hút cao.  
mạng, kháng chiến như Bản Đôn, làng Kông  
Hoa quê hương anh hùng Núp, là ngục Kon  
Tum, là chiến thắng An Khê, Play Me, Đắk Tô,  
Đắk Nông, Đăk Min,...  
Hệ thống tài nguyên du lịch thiên nhiên,  
nhân văn vô cùng phong phú, độc đáo, hấp  
dẫn như trên đã tạo cho Tây Nguyên điều kiện  
và môi trường để du lịch nơi đây phát sinh và  
phát triển. Giá trị của những cảnh quan: rừng,  
sông hồ, suối, thác; của di sản văn hóa: di tích  
lịch sử, công trình kiến trúc nghệ thuật, các  
hình thức sinh hoạt văn nghệ, các tập quán, lễ  
hội, ngành nghề truyền thống… là những đối  
tượng cho du khách khám phá, thưởng thức,  
cho du lịch khai thác, sử dụng. Chính những  
tài nguyên này không chỉ tạo ra môi trường  
và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát  
triển mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất  
lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của  
vùng/địa phương.  
Mỗi tộc người nơi đây còn lưu giữ một kho  
tàng văn hóa phi vật thể đa dạng. Đó là hệ  
thống triết lý về vũ trụ và nhân sinh; là các lễ  
hội, lễ nghi thờ cúng tổ tiên; các bộ luật tục  
giàu giá trị lịch sử; các trò chơi dân gian, các  
loại hình dân ca, dân vũ; là kho tàng văn học  
truyền miệng (sử thi, truyền thuyết, thần thoại,  
ngụ ngôn…) và đặc biệt tiêu biểu là không gian  
văn hóa cồng chiêng. Văn hóa cồng chiêng trải  
rộng suốt 5 tỉnh với chủ nhân là cư dân các dân  
tộc: Ba Na, Xê Đăng, M’Nông, Cơ Ho, Rơ Măm,  
Ê Đê, Gia Rai. Cồng chiêng Tây Nguyên là biểu  
tượng, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con  
người, gắn với mọi hoạt động sản xuất, sinh  
hoạt của đồng bào. Năm 2005, không gian văn  
hóa Cồng chiêngTây Nguyên đã được UNESCO  
công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi  
vật thể của nhân loại.  
Hiện toàn khu vực Tây Nguyên có 943 cơ sở  
lưu trú, trong đó có 1 khách sạn 5 sao, 9 khách  
sạn 4 sao, 8 khách sạn 3 sao, 20 khách sạn 2  
sao; có 30 doanh nghiệp lữ hành với hơn 100  
xe vận chuyển khách du lịch. Hệ thống mạng  
lưới giao thông với các quốc lộ 14, 20, 27, 28,  
51, 19 gắn kết toàn vùng cùng các sân bay Liên  
Khương - Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Plêiku và một  
số sân bay nhỏ khác đã tạo môi trường thuận  
lợi cho đầu tư và du lịch phát triển. Tây Nguyên  
cũng đã có 25 dự án đầu tư với số vốn 3.215  
tỷ đồng trên toàn vùng. Một số dự án tiêu  
biểu có thể kể đến như: Dự án khu du lịch sinh  
thái vườn quốc gia Chư Mom Ray (Kon Tum)  
với vốn đầu tư 200 tỷ đồng; khu du lịch sinh  
thái đồi thông Hà Tam (Gia Lai), vốn đầu tư 30  
triệu USD; khu du lịch sinh thái đồi Cư Luê (Đắk  
Lắk), vốn đầu tư 500 tỷ đồng; 151 dự án đầu  
tư tại Lâm Đồng với tổng vốn đầu tư là 43.865  
tỷ đồng; khu du lịch sinh thái - văn hóa Nam  
Nung (Đắk Nông) với vốn đầu tư 180 tỷ đồng.  
Nói đến Tây Nguyên còn phải kể đến kho  
tàng sử thi “sống” trường tồn trong đời sống  
của các tộc người nơi đây, với hàng trăm tác  
phẩm được trình diễn trong sinh hoạt cộng  
đồng. Đây được coi là vùng sử thi duy nhất ở  
Việt Nam và cũng là vùng sử thi quý hiếm trên  
thế giới với hơn 622 tác phẩm được tìm thấy.  
Ngoài ra, những tri thức dân gian như kinh  
nghiệm thuần dưỡng voi, những bài thuốc  
gia truyền chữa bệnh, bí quyết về kỹ thuật đúc  
đồng để chế tạo ra đàn đá và nhạc khí cồng  
chiêng… cũng là những giá trị văn hóa tinh  
thần quý giá trong kho tàng di sản văn hóa của  
vùng đất này, tạo nên những sản phẩm du lịch  
độc đáo, khác biệt.  
Trong 15 năm (2000 - 2015), tốc độ tăng  
trưởng khách du lịch quốc tế của Tây Nguyên  
đạt trung bình 4,9%/năm; khách du lịch nội  
địa đạt 13%/năm. Nhiều chính sách khai thác  
sản phẩm được triển khai như quy hoạch các  
Đặc biệt, Tây Nguyên còn có một hệ thống  
những di tích thời kỳ cận hiện đại, di tích cách  
NGHIÊN CỨU  
Số 24 - Tháng 6 - 2018  
87  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Tỉnh  
Các điêm du lịch được khai thác  
từ các tài nguyên du lịch nổi bât cua Tây Nguyên  
Chùa Minh Thành; khu Tây Sơn Thượng (căn cứ vua Quang Trung), quê hương anh  
hùng Núp (làng Kông Hoa), địa danh Pleime, Cheo Reo, Ja Đrăng; nhà máy thủy điện  
Ialy; cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (giáp Campuchia); buôn làng người Bahnar, Jrai.  
Gia Lai  
Biển Hồ; thác Phú Cường, thác Queng Thao, thác Chín Tầng; vườn quốc gia Kon Ka  
Kinh, khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ja Răng.  
Nhà thờ gỗ (nhà thờ Chánh Tòa), đại chủng viện Kon Tum; ngục Kon Tum, ngục Tố  
Hữu, ngục Đắk Lei, các địa danh Đắk Tô, Tân Cảnh, đồi Chelesi, sân bay Phượng Hoàng;  
các buôn làng của người Bana (Kon Ktu, Rơ Hai, Kon Chri), Gia Rai (Lung, Rắc), Xơ Đăng  
(Dakripeng, Đakrijob); cửa khẩu Bờ Y (giáp Lào).  
Kon Tum  
Sông Đakbla, Poko; đỉnh Ngọc Lĩnh, Ngọc Phan; rừng nguyên sinh Chư Mom Ray, Đak  
Uy, Sa Thầy, rừng thông Măng Đen; hồ Yaly.  
Nhà đày Buôn Ma Thuột; chùa Sắc Tứ Khải Đoan, đình Lạc Giao; Bảo tàng dân tộc Đắk  
Lắk; Buôn làng của người Ê Đê, M’Nông, Lào, Gia Rai (buôn Đôn, làng nghề ở buôn Alê  
A, Păn Lăm, Kô Sia, Niên…); căn cứ cách mạng hang đá Dak Tuar, hang đá Ba tầng (xã  
Krông Nô, huyện Lăk).  
Đắk Lắk  
Hồ Lăk, hồ Ea Nhaie, hồ Eo Kao, suối Đan Kia; thác Dray Nur, Gia Long, Dray H’lonh,  
thác Krông Kma, thác Thủy Tiên, thác Dray Nao; đồi thông Cư D’lue, vườn quốc gia Yok  
Đôn, Chư Yang Sin, khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô.  
Cụm di tích N’Trang Lơng, di tích lịch sử kháng chiến B4 - liên tỉnh IV tại Nâm Nung,  
ngục Đắk Mil, di tích lịch sử đồi 722 Đắk Sắk; buôn làng của người M’Nông, Mạ (bon  
N’Jriêng, Bu Kon, Buôr, Bu Prâng).  
Đắk Nông  
Lâm Đồng  
Thác Đắk Glun, thác Đắk P’lao, cụm thác Đray Sáp - Gia Long; cao nguyên M’Nông; Hồ  
Ea Snô; khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (Đắk Glong); các hang dung nham núi lửa xã  
Buôn Choáh, huyện Krông Nô  
Nhà thờ Con Gà, Do Maine; ga Đà Lạt; chùa Thiên Vương cổ sát, Dinh Bảo Đại, thiền  
viện Trúc Lâm; Buôn làng dân tộc Mạ (Bảo Lộc), Cơ Ho (Dai Linh), Chu Ru (Đơn Dương),  
các làng nông trại (trồng hoa, chè, cây ăn quả, rau,…)  
Hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Suối Vàng; Hồ Tuyền Lâm, hồ Đa Nhim; Thác Cam Ly,  
Prenn, Datanla, Ponggour, Gougar; đồi Cù; núi Bà (Lang Bian), núi Voi; thung lũng  
Tình Yêu.  
làng văn hóa dân tộc, tổ chức các lễ hội truyền  
thống, nhất là lễ hội Cồng Chiêng Tây Nguyên,  
khai thác các cảnh quan thiên nhiên nơi đồng  
bào dân tộc sinh sống.  
dựng nông thôn mới với tốc độ vừa nhanh,  
vừa bền vững, do không những tham gia tích  
cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở  
rộng đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, thay  
đổi diện mạo cảnh quan, môi trường, mà còn  
bảo tồn được các giá trị văn hóa gốc của nông  
thôn, tộc người hoặc giá trị về thương hiệu  
hàng hóa đặc thù cho địa phương, khu vực.  
3. Giải pháp phát triên du lịch, nâng cao đời  
sông kinh tê - xã hội, xây dựng nông thôn  
mới khu vực Tây Nguyên  
Hiện nay, chương trình mục tiêu quốc gia  
xây dựng nông thôn mới đang được tiến hành  
thực hiện đã tạo một môi trường thuận lợi cho  
việc phát triển du lịch tại các vùng dân tộc,  
nông thôn, và ngược lại du lịch sẽ là động lực  
thúc đẩy cho việc thực hiện phong trào xây  
Suy cho cùng việc xây dựng nông thôn mới  
là rất quan trọng song mục tiêu lớn nhất là  
phải làm cho người dân có cuộc sống khá giả  
và sung túc hơn, góp phần giảm khoảng cách  
giàu nghèo, sự chênh lệch giữa người dân  
88 Số 24 - Tháng 6 - 2018  
VĂN HÓA DU LỊCH  
thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa,  
vùng có hoàn cảnh khó khăn. Thực tế đã phản  
ánh, muốn thực hiện được mục tiêu chiến lược  
phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu xây dựng  
nông thôn mới, nhất là ở vùng đồng bào dân  
tộc thiểu số, trước hết cần phải nâng cao đời  
sống kinh tế cho người dân.  
góp phần tăng thu nhập và việc làm từ du  
lịch. Tài nguyên du lịch sẽ được khai thác để  
tổ chức các loại hình du lịch mới, với các sản  
phẩm và dịch vụ đa dạng, độc đáo, mang tính  
đặc trưng của cảnh quan, của từng tộc người,  
địa phương và khu vực. Hình thành các khu du  
lịch, khu vui chơi giải trí không chỉ tập trung  
ở các khu vực thành thị, thị trấn mà ở cả các  
vùng nông thôn, tộc người. Các dự án du lịch  
phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư và  
đem lại lợi ích cho cộng đồng.  
Tây Nguyên là địa bàn hết sức đặc biệt, nơi  
sinh sống của các dân tộc thiểu số, tập trung  
nhiều những người nghèo nhất Việt Nam hiện  
nay. Mặc dù 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam chỉ  
chiếm 15% tổng dân số cả nước nhưng chiếm  
tới 47% trong tổng số người nghèo ở Việt Nam.  
Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư và điều  
tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên toàn  
quốc năm 2012, tỷ lệ người nghèo khu vực Tây  
Nguyên là 29,7%, trong đó tỷ lệ người nghèo  
ở các tộc người thiểu số chiếm 76,6% chỉ thấp  
hơn vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (78,4%),  
đứng cao thứ hai trong cả nước. Vì vậy, việc lựa  
chọn du lịch, tìm các giải pháp phát triển du  
lịch nói chung và du lịch ở các vùng dân tộc  
thiểu số nói riêng ở khu vực Tây Nguyên là rất  
phù hợp, cần thiết bởi nó có vai trò thiết yếu  
trong tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm  
mới tại chỗ, thay đổi diện mạo, cảnh quan môi  
trường làng bản, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ  
thống phúc lợi cho người dân. Có như vậy mới  
đảm bảo được việc thực hiện các mục tiêu, tiêu  
chí trong xây dựng nông thôn mới.  
Để du lịch gắn với phát triển kinh tế - xã hội  
và xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên, cần  
thực hiện một số nội dung:  
Một là, xây dựng chính sách thu hút đầu tư  
du lịch; chính sách khôi phục, phát triển các  
ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm  
của người Mạ, đan lát của người Cơ Ho, nghề  
gốm của người Churu,… chính sách bảo tồn  
và phát triển đàn voi, phát triển các chương  
trình du lịch sinh thái gắn với bản làng dân tộc;  
chính sách tuyên truyền giáo dục nâng cao  
nhận thức về bảo tồn văn hóa truyền thống,  
lễ hội của đồng bào dân tộc, nâng cao lòng tự  
hào của người dân Tây Nguyên,…  
Hai là, tăng cường phối hợp hoạt động liên  
ngành nhằm khai thác hiệu quả nền văn hóa  
đa dạng các dân tộc thiểu số, góp phần bảo  
tồn gìn giữ bản sắc văn hóa của đồng bào dân  
tộc Tây Nguyên, đồng thời thỏa mãn nhu cầu  
giao lưu, tìm hiểu văn hóa giữa du khách và  
cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi  
tư duy, cải thiện đời sống, tạo cơ hội việc làm  
cho cư dân bản địa.  
Muốn vậy, phát triển du lịch phải được xác  
định là một giải pháp trọng yếu trong chiến  
lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia. Được  
chính quyền địa phương triển khai nhằm mục  
tiêu vì lợi ích của người nghèo chứ không phải  
vì lợi ích thuần túy tăng ngân sách cho địa  
phương.  
Ba là, triển khai xây dựng các mô hình du  
lịch ở nông thôn miền núi Tây Nguyên sao  
cho phù hợp với đặc điểm tộc người, các địa  
phương khác nhau như mô hình du lịch trang  
trại/nông trại; du lịch làng bản, du lịch làng  
nghề; du lịch sinh thái nhân văn, du lịch mạo  
hiểm với những nét khác biệt. Nông thôn miền  
núi Tây Nguyên thường là vùng sâu, vùng xa,  
nơi mà dân trí chưa cao, điều kiện kinh tế - xã  
hội còn khó khăn và bất kỳ hoạt động nào  
cũng dễ dàng tác động đến người dân, vì vậy,  
việc tham gia vào một hoạt động thiết thực,  
giúp họ cải thiện được đời sống cũng là cách  
tích cực góp phần giảm nghèo, giảm tệ nạn,  
tạo sinh kế và cuộc sống ổn định.  
Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều kinh  
nghiệm từ các nước đã trải qua 30, 40 năm  
và đã thành công trong việc đặt nền móng và  
phát triển du lịch, thay đổi diện mạo của vùng  
nông thôn/nông nghiệp với điểm xuất phát  
ban đầu giống Việt Nam hiện nay như Hàn  
quốc, Nhật Bản và một số nước Châu Âu.  
Xác định rõ nội dung chủ yếu để khai thác  
tài nguyên du lịch trên địa bàn Tây Nguyên là  
phát triển du lịch sinh thái, cảnh quan thiên  
nhiên rừng, du lịch văn hóa tộc người với  
phương thức đa dạng hóa thủ thể tham gia,  
NGHIÊN CỨU  
Số 24 - Tháng 6 - 2018  
89  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Bốn là, cần chú ý trong công tác quản  
lý để bảo tồn và phát triển sự độc đáo riêng  
có của từng thôn bản, buôn làng về di tích,  
danh thắng, về nếp sống và các ngành nghề  
thủ công truyền thống. Định hướng, khuyến  
khích làng nghề sản xuất các vật phẩm lưu  
niệm, mỹ nghệ, tránh sao chép. Việc nâng cấp,  
sửa sang nhà cửa, vườn, đường sá, cầu cống,  
phục dựng, khôi phục và phát huy sinh hoạt lễ  
hội, các hoạt động văn hóa nghệ thuật là cần  
thiết để tạo thuận tiện và tăng tiện nghi đón  
khách, nhưng song song với đó phải giữ gìn  
được các di sản kiến trúc, phong cảnh thanh  
bình đúng nghĩa buôn, bon và nét đẹp văn  
hóa, thuần phong mỹ tục. Có như vậy, mới  
đảm bảo tạo sức hấp dẫn du lịch, cuốn hút du  
khách và mang tính bền vững. Đồng thời, khai  
thác những phương tiện thô sơ như xe bò, voi,  
thuyền gỗ,… với những nét đặc sắc của từng  
vùng, là phương tiện vận chuyển thường ngày  
của người dân, nâng cấp phù hợp với tiện ích  
và thẩm mỹ phục vụ du khách đến tham quan,  
du lịch.  
mô cấp vùng. Nối kết với các địa phương Huế,  
Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Nhà Trang để  
tăng dòng khách, tạo hệ thống sản phẩm hỗ  
trợ và giảm chi phí cho các hoạt động quảng  
bá, xúc tiến du lịch.  
Tạm kêt  
Phát triển du lịch gắn với phát triển kinh tế  
- xã hội, xây dựng nông thôn mới là một trong  
những giải pháp hiệu quả và thích hợp cho  
khu vực Tây Nguyên. Đây là một vùng đất có  
tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, kinh tế,  
an ninh, quốc phòng. Sơn nguyên không chỉ  
là mái nhà của Việt Nam mà cả Đông Nam Á  
lục địa. Đảm bảo an sinh, ổn định trật tự và giải  
quyết các vấn đề xã hội, xây dựng đời sống văn  
hóa cơ sở và thực hiện thành công xây dựng  
nông thôn mới vùng Tây Nguyên là một vấn  
đề hết sức quan trọng, cần sự quan tâm, vào  
cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành. Hoàn  
cảnh địa lý, môi trường, sinh thái và con người  
ở đây với cấu trúc xã hội độc đáo, với một tập  
hợp các yếu tố văn hóa phong phú, đa dạng,  
nhiều màu sắc hấp dẫn, một khu vực lịch sử  
hiếm có không chỉ ở Đông Nam Á và thế giới  
thông qua du lịch sẽ phát triển mạnh mẽ và trở  
thành điểm sáng trong tương lai.  
Năm là, chú trọng công tác sử dụng và đào  
tạo, phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Đào tạo  
các kỹ năng tối thiểu cho cư dân địa phương,  
cho đồng bào dân tộc thiểu số khi tham gia  
thị trường lao động du lịch. Đảm bảo sinh kế  
lâu dài cho họ và giúp họ phát triển trở thành  
những người làm chủ.  
B.T.T  
(PGS.TS, Trưởng khoa Gia đình và Công tác  
xã hội, Trường ĐHVH HN)  
Sáu là, đầu tư phát triển mạnh cơ sở hạ tầng  
để tăng khả năng tiếp cận với các điểm du lịch,  
đặc biệt là đường đến các khu bảo tồn, bản  
làng, thôn xã vùng sâu, vùng xa với hệ thống  
giao thông đường thủy, đường bộ. Đối với các  
điểm phát triển du lịch cần xem xét lại tiêu  
chí bê tông hay cứng hóa đường giao thông  
theo quy định quốc gia trong xây dựng nông  
thôn mới, bởi điều này chưa thực sự phù hợp  
với tiêu chí hấp dẫn của các điểm du lịch, làm  
thay đổi quá mức diện mạo cảnh quan nguyên  
sơ của buôn làng; chú ý đầu tư cho cơ sở vật  
chất, thiết bị kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ  
du lịch, sao cho đáp ứng được các nhu cầu của  
du khách, đảm bảo sự tiện ích, an toàn trong  
du lịch và hỗ trợ đời sống của bà con dân cư.  
Tài liệu tham khảo  
1. Bùi Thanh Thủy (2009), Phát triển du lịch  
vùng dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với cộng  
đồng, (phần 1, 2), Tạp chí Du lịch, số 7, 8, tr. 49 -51.  
2. Bùi Thanh Thủy (2010), Sự thích ứng của văn  
hóa truyền thống nhìn từ góc độ du lịch, Kỷ yếu Hội  
thảo khoa học quốc tế Văn hóa trong thế giới hội  
nhập, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.  
3. Nhiều tác giả (2004), Vùng văn hóa Cồng  
chiêng Tây Nguyên, Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
Ngày nhận bài: 26 - 2 - 2018  
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2018  
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2018  
Bảy là, đẩy mạnh liên kết du lịch với các  
tỉnh, hợp tác xúc tiến, quảng bá du lịch ở quy  
90 Số 24 - Tháng 6 - 2018  
pdf 6 trang yennguyen 15/04/2022 1740
Bạn đang xem tài liệu "Du lịch gắn với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdu_lich_gan_voi_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_va_xay_dung_nong_t.pdf