Giao thoa văn hóa của người Việt Nam với người Lào ở tỉnh Salavan (Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào)
No.18_Oct 2020|Số 18 – Tháng 10 năm 2020|p.6-12
DOI:
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
GIAO THOA VĂN HÓA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VỚI NGƯỜI LÀO Ở TỈNH
SALAVAN (NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO)
Nguyễn Thị Quế Loan1*, Singamphai Phimphaphone2
1 Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
2 Trường Cao đẳng Sư phạm Salavan, CHDCND Lào
Thông tin bài viết
Tóm tắt
Là tỉnh thuộc miền Nam của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Salavan
có chiều dài biên giới 80 km giáp với Việt Nam, chính vì vậy, ngoài cư dân
bản địa, Salavan còn có nhiều người Việt Nam đến sinh sống và làm việc.
Trong quá trình định cư ở Salavan, người Việt Nam đã mang tới Lào văn hóa
truyền thống của mình, đồng thời giao lưu tiếp xúc và học hỏi những giá trị văn
hóa của người Lào. Sự giao thoa văn hóa đó đã hình thành nên những giá trị
văn hóa mới, làm phong phú kho tàng văn hóa của người Việt Nam cũng như
cư dân Lào ở tỉnh Salavan. Trong nghiên cứu này, bằng phương pháp điền dã
dân tộc học, tổng hợp và so sánh, chúng tôi xem xét sự ảnh hưởng, giao thoa
văn hóa Việt Nam- Lào ở một số thành tố tiêu biểu của văn hóa vật thể và phi
vật thể.
Ngày nhận bài:
03/08/2020
Ngày duyệt đăng:
20/9/2020
Từ khóa:
Ảnh hưởng, Giao thoa văn
hóa, Lào, Việt Nam, tỉnh
Salavan.
1. Dẫn luận
Theo UNESCO, văn hoá được hiểu “Là hệ thống
các đặc điểm về tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc
của xã hội hay một nhóm người trong xã hội và văn
hóa bao gồm nghệ thuật, văn học, phong cách sống,
cách thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và
tín ngưỡng” [7]. Như vậy, với nhận định của
UNESCO, văn hoá không đơn thuần chỉ là nhận thức,
hiểu biết mà bao gồm cả những giá trị vật chất và tinh
thần trong đời sống con người, cộng đồng xã hội và
môi trường sinh thái cộng đồng dân cư đó sinh sống.
Lào là quốc gia có chung đường biên giới giáp nửa
phía tây Việt Nam. Năm 1962, Việt Nam và Lào thiết
lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu một giai đoạn phát
triển mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai
nước. Trong lịch sử cũng như hiện tại đã có nhiều người
Việt Nam đến Lào sinh sống, làm việc và mang tới đất
nước Lào văn hóa truyền thống của mình [2], [6], đồng
thời giao lưu tiếp xúc và học hỏi những giá trị văn hóa
của người Lào [1]. Trong nghiên cứu này, bằng phương
pháp điền dã dân tộc học, tổng hợp và so sánh, chúng
tôi tìm hiểu hiện tượng giao thoa văn hóa giữa cư dân
Việt Nam- Lào ở tỉnh Salavan qua một số các thành tố
văn hóa tiêu biểu.
Giao thoa văn hóa là sự tương tác giữa các nhóm
xã hội, giữa các tiểu văn hóa, giữa văn hóa các tộc
người và giữa các nền văn hóa khác nhau [4, tr.77].
Sự giao thoa văn hóa được hiểu theo hai nghĩa, thứ
nhất là quá trình tiếp xúc văn hóa giữa hai tộc
người/dân tộc; thứ hai là hiện tượng ảnh hưởng của
một nền văn hóa này đến một nền văn hóa khác.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giao thoa văn hóa là
hiện tượng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế mà
không một nền văn hóa nào có thể đứng ngoài.
2. Nội dung
2.1. Khái quát về cộng đồng người Việt Nam ở
tỉnh Salavan
Salavan là một tỉnh thuộc miền Nam của nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nằm trên cao
nguyên Bolaven - Tạ-ôi có diện tích 10.691 km2.
Phía đông giáp các tỉnh Quảng trị, Thừa Thiên - Huế
1
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
của Việt Nam với chiều dài biên giới 80 km; Phía bắc
công an nhân khẩu tỉnh Salavan, tổng số Việt Kiều đã
đăng ký hộ khẩu màu đỏ là 160 người; trong đó có 81
nam, 79 nữ. Việt Kiều tỉnh Salavan tập trung sinh
sống ở 4 huyện: Khongsedone, Laungam, Salavan và
Samuor, đông nhất là ở huyện Khongsedone 139
người [3, tr.2].
giáp tỉnh Savannakhet; phía nam giáp tỉnh
Champasak, phía đông nam giáp tỉnh Xekong (Lào)
và phía tây giáp tỉnh Amnatchalern của Thái Lan.
Giao thông đường bộ ở Salavan tương đối thuận
lợi, các tuyến giao thông chính là quốc lộ 13 nam,
đường số 1 H, đường số 15A - 15B và đường số 20.
Salavan có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch,
ngoài Khu Bảo tồn Đa dạng Sinh học Quốc gia Phu
Xieng Thong và những khu nhà nghỉ nằm men theo
những dải rừng nhiệt đới, Salavan còn có các điểm
du lịch nổi tiếng như: Tạt Ló, nhà máy thủy điện
Seset, Tạt Súng, hang 9 nhánh, cao nguyên Bolaven.
Người Lào vẫn có câu “Mak phao Naxay, ping kay
Napong, Lau khao Meung Khong, Lam vong Salavan
”(dịch nghĩa: Quả dưa nhiều ở bản Na xay, gà nướng
ngon ở bản Napông, rượu trắng ngon ở huyện
khongsedone, múa Lăm Vông Salavan) với hàm ý
thể hiện sự hấp dẫn và phong phú của những địa
danh du lịch ở tỉnh Salavan.
Bộ phận thứ hai là người Việt Nam đã nhập quốc
tịch Lào (hay còn gọi là người Lào gốc Việt). Những
người Việt Nam nhập quốc tịch Lào có quyền lợi và
nghĩa vụ đầy đủ như người Lào. Tuy nhiên, số lượng
người Việt Nam nhập quốc tịch Lào ở tỉnh Salavan
không nhiều. Theo thống kê của Sở Chỉ huy bảo vệ
an ninh phòng công an nhân khẩu Salavan, đến năm
2018, Salavan có 74 người Việt Nam nhập quốc tịch
Lào [3, tr.3].
Bộ phận thứ ba là người Việt Nam cư trú tạm
thời. Đây là những người Việt Nam sang làm ăn,
buôn bán…, họ có giấy tờ hợp lệ như giấy Thông
hành hay Hộ chiếu do các tỉnh dọc biên giới cấp.
Người Việt Nam cư trú tạm thời ở Lào chưa có cuộc
sống ổn định, họ thường sống tập trung từ 2 đến 3 gia
đình, cùng nhau thuê nhà làm ăn sinh sống. Ở Salavan,
người Việt Nam định cư tạm thời chiếm số lượng
nhiều nhất (năm 2018 có 1.104 người).
Về dân cư, tính đến năm 2018, Salavan có
492.400 người, mật độ dân số 37 người/km2, với 10
dân tộc chủ yếu: Lào, Katang, Suồi, Lavên, Tạôi, Phù
Thai, In, Nghẹ, A Lăc, Ka Tu. Trong đó, dân tộc
chiếm tỷ lệ đông nhất là dân tộc Lào (chiếm 60% dân
số toàn tỉnh), còn lại là các dân tộc thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn - Khơ me. Cư dân Salavan phần lớn theo
đạo Phật. Hằng tháng, người dân vào chùa làm lễ để
cầu mong mang sự may mắn cho mình và cả gia
đình. Những món ăn đặc trưng của người dân ở
Salavan là lạp Salavan, chèo pa đẹc, chèo pa tau,
chèo phác y khụ, các loại mắm ...
Dù định cư lâu dài hay tạm thời, cộng đồng người
Việt Nam ở Salavan cũng nhanh chóng thích nghi,
hòa nhập với cư dân bản địa, đồng thời có sự ảnh
hưởng nhất định trong kinh tế, văn hóa với cộng
đồng người Lào ở Salavan.
2.2. Giao thoa văn hóa giữa cư dân Việt Nam-Lào
Là hai dân tộc láng giềng, Việt Nam và Lào vốn
đã có nhiều nét tương đồng về văn hóa. Trong quá
trình sinh sống ở tỉnh Salavan, sự giao thoa văn hóa
giữa cộng đồng người Việt Nam và Lào càng được
thể hiện mạnh mẽ qua một số các thành tố cơ bản
trong đời sống như ẩm thực, nhà ở, trang phục, ngôn
ngữ, thực hành tôn giáo tín ngưỡng…
Salavan là một trong 3 tỉnh của Lào (Champasak,
Sekong và Attapeu) có các dự án hợp tác phát triển
kinh tế “Ba quốc gia mười thành phố”. Do vậy, ngoài
cư dân bản địa, tỉnh Salavan còn có người Trung
Quốc, Nhật Bản, Mĩ, Thái Lan, Úc… đến định cư,
sinh sống và làm việc... Trong đó, người Việt Nam
chiếm số lượng nhiều nhất.
Về ẩm thực, cùng với sự xuất hiện của người Việt
tại Salavan, là những món ăn của Việt Nam làm cho
“bức tranh” ẩm thực ở Salavan thêm phong phú. Tại
các chợ và đường phố ở Salavan có thể thấy những
món ăn của người Việt Nam được bán tại chợ, trong
các quán ăn như: Nem, phở, bánh chưng, bún, bánh
cuốn, bánh canh… Có 3 loại nem cơ bản được bán:
nem chua. Món nem rán và nem cuốn được nhiều
Người Việt Nam tại tỉnh Salavan gồm 3 bộ phận.
Bộ phận thứ nhất là Việt Kiều. Đây là những người
Việt Nam định cư ở Lào từ lâu đời, được cấp hộ khẩu
màu đỏ và chứng minh thư Lào nhưng chưa đủ điều
kiện nhập quốc tịch Lào, vẫn mang quốc tịch Việt
Nam. Theo quy định của Lào, Việt Kiều lấy vợ hay
chồng người Lào thì con của họ có quyền chọn quốc
tịch của bố hoặc mẹ. Do vậy con cái trong các gia
đình này thường lựa chọn quốc tịch Lào. Năm 2018,
theo thống kê của Sở Chỉ huy bảo vệ an ninh phòng
2
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
người Lào ưa thích. Vì vậy, trong các dịp lễ, tết,
nhiều gia đình làm món này để thưởng thức.
Món Lạp - (với nguyên liệu chủ yếu là các loại
gia đình người Việt những dịp tết, lễ. Ngoài lạp, các
món canh (canh cá, canh gà, canh xương lợn, xương
bò… ninh cùng các loại mắm, ớt cay), món nộm (rau,
đu đủ thái nhỏ trộn với thịt, xương cua đồng đã được
hấp chín) được nhiều gia đình người Việt Nam chế
biến, sử dụng.
hút nhiều khách hàng người Lào. Không chỉ mở quán
bún, người Việt Nam còn đem công nghệ sản xuất
bún vào tỉnh Salavan. Năm 2014, đã xuất hiện hiệu
làm bún của người Việt Nam ở huyện Salavan, huyện
Khongsedone với số lượng sản xuất lớn cung cấp cho
người dân Lào, giá thành của bún khá rẻ khoảng
4000 Kíp/1 Kg (trong khi đó bún Lào có giá thành
6000 Kíp/1Kg). Ngoài bún, các quán phở (phở gà,
phở lợn, phở bò) của người Việt Nam có nhiều tại
các thành phố lớn như: Salavan, Laungam và
Khongsedone được nhiều người Lào ưa thích.
Không chỉ trong các bữa ăn hằng ngày, mà cả
những ngày giỗ, tết Nguyên đán, cùng với các món
ăn truyền thống của Việt Nam như: bánh chưng, gà
luộc, nem rán, nem cuốn… người Việt Nam còn làm
cả món lạp, canh cay bày mâm cúng tổ tiên. Trong
ngày lễ truyền thống của Lào, người Việt Nam gói
bánh chưng, các món ăn, dâng cơm tại chùa của
người Lào.
Thức uống của cộng đồng người Việt Nam định
cư tại tỉnh Salavan rất phong phú. Họ sử dụng nhiều
loại đồ uống, nhưng phổ biến nhất là trà, cà phê,
rượu, bia, nước ngọt… Chè khô để pha trà được
người Việt Nam mang từ Việt Nam sang và bày bán
ở một số hàng, quán. Vào các cửa hàng người Việt
Nam hoặc đến các gia đình, họ thường pha ấm trà để
mời khách uống. Cà phê người Việt Nam sử dụng là
cà phê Đao- sản phẩm của nhà máy Đao Hương,
được trồng và chế biến tại tỉnh Salavan. Rượu Lẩu
Kháo Mương Không, Bia Savane là thức uống nổi
tiếng của Salavan, sản xuất ở huyện Khongsedone
được người Việt Nam rất thích.
Về trang phục, phụ nữ Việt Nam tuổi trung niên
rất thích mặc váy Lào (sỉn). Trong những ngày làm
lễ, đi chùa dâng cơm, đám cưới của người Lào, họ
thường mặc váy Lào với 2 loại cơ bản (sỉn máy làm
bằng lụa, sỉn phải làm bằng vải thô, may dài đến mắt
cá chân hoặc dài ngang bọng chân). Chỉ trong dịp lễ
hội truyền thống của người Việt Nam hay khi tham
dự sự kiện quan trọng của cộng đồng người Việt
Nam họ mới mặc áo dài truyền thống. Với những
người trẻ tuổi cả người Việt và người Lào đều mặc
quần âu, áo, váy... Do vậy, nếu nhìn vào trang phục
của họ, khó có thể phân biệt đâu là người Việt Nam,
đâu là người Lào.
Ngoài mang sắc thái ẩm thực Việt Nam đến
Salavan, người Việt Nam cũng nhanh chóng thích
nghi với món ăn Lào. Trong bữa ăn hàng ngày của
người Việt có cả món ăn truyền thống của Việt Nam
và món ăn truyền thống của Lào mà tiêu biểu là xôi.
Khi mới đến Lào, người Việt Nam ăn cơm tẻ là chủ
yếu với dụng cụ ăn là bát, đũa, dần dần họ quen với
ăn xôi nếp và sử dụng thìa, đĩa trong các bữa ăn hàng
ngày giống cư dân Lào. Đến với các gia đình Việt
Nam ở Salavan, đặc biệt là các gia đình Việt Kiều có
thể thấy nhà nào cũng có chõ - một dụng cụ quen
thuộc được sử dụng để đồ xôi. Xôi không chỉ là
lương thực chủ đạo trong bữa ăn hằng ngày, mà còn
là một trong những món ăn người Việt dùng dâng
cơm tại các ngôi chùa ở Lào vào những ngày lễ.
Cũng giống như cư dân Lào, người Việt Nam dùng
xôi dát lên những bức tượng Phật hoặc tường nhà ở
gia đình để cúng các vị thần ngụ cư tại đó. Người
Việt Nam ăn xôi nếp với nhiều món như: thịt nướng,
ruốc chà bông hay cá khô và các món ăn của Lào
(lạp, kọi, canh, các loại mắm…). Trong chế biến, họ
cũng cho các gia vị chủ yếu như sả, tỏi, rau mùi tươi
và thật nhiều ớt giống người Lào.
Trong lễ cưới, nếu cô dâu và chú rể đều là người
Việt Nam đang sinh sống ở Lào thì cô dâu mặc váy
voan màu trắng, chú rể mặc áo vét, quần âu, đi giầy.
Trường hợp chú rể người Lào, cô dâu người Việt
Nam thì họ sẽ mặc trang phục truyền thống của
người Lào. Cô dâu mặc sỉn, áo lụa, khi làm lễ ở nhà
trai; ngược lại mặc theo kiểu Việt Nam (áo dài hoặc
váy voan trắng) khi làm lễ ở nhà gái.
Nhà của người Việt Nam định cư tại tỉnh Salavan
phong phú về kiến trúc, không rập khuôn theo mẫu
và kiểu cách có sẵn nào mà tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế. Các ngôi nhà được xây dựng từ 1 - 3 tầng với
các vật liệu cơ bản: gạch, gỗ, lợp ngói (phần dưới
làm bằng gạch, phần trên làm bằng gỗ) và được thiết
kế thuận tiện nhất để phục vụ mục đích kinh doanh,
buôn bán. Cũng có một số gia đình làm nhà sàn theo
kiểu của người Lào, có sân khá rộng rãi, trồng nhiều
cây cảnh và hoa. Trong ngôi nhà của gia đình người
Việt Nam, bàn thờ cúng ông bà tổ tiên và những
3
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
người đã khuất đặt nơi linh thiêng nhất. Ngoài bàn
Laungam) để làm lễ và dâng cơm và Tắc Bạt, đóng
góp tu sửa chùa. Hằng ngày, vào buổi sáng họ cũng
chế biến món ăn để dâng cơm giống như người Lào.
thờ tổ tiên, họ còn đặt bàn thờ thần tài và bàn thờ
Nang Quắc (bàn thờ thần tài của người Lào, là một
phật tượng phụ nữ ngồi hoặc đứng và vẫy tay với ý
nghĩa cầu yên, cầu lộc, cầu tài).
Ngoài tôn giáo, người Việt Nam ở Salavan còn
theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và sùng bái thần
linh. Bàn thờ gia tiên được đặt nơi trang nghiêm nhất
tại gian chính trong nhà. Những gia đình làm kinh
doanh đặt bàn thờ thần tài tiếp đất ngay cửa gian
chính để cầu lộc và đặt thêm bàn thờ Nang Quắc
(thần tài của người Lào) tại nhà, cửa hàng và ô tô.
Một số gia đình còn làm ngôi nhà nhỏ bằng gỗ, gạch,
có một cột, thờ San Phạ Phum (ma giữ nhà) giống
người Lào, thời gian cúng San Phạ Phum vào buổi
sáng hằng ngày.
Việt Kiều thế hệ thứ nhất sinh ra ở Việt Nam nên
sử dụng tốt tiếng Việt, đồng thời cũng thành thạo
tiếng Lào. Khi ở nhà họ nói chuyện với nhau bằng
tiếng Việt, khi giao tiếp với người bản xứ họ lại dùng
tiếng Lào. Những người Việt Nam thuộc thế hệ thứ
hai, thứ ba phần lớn có thể nói được tiếng Việt,
nhưng ít người có thể đọc, viết được chữ Việt bởi
không có điều kiện sử dụng và tiếp xúc với sách báo
tiếng Việt. Bên cạnh đó, do sinh sống ở Lào, nghề
nghiệp chủ yếu làm kinh doanh với khách hàng là
người Lào, nên dù là người Việt Nam định cư lâu dài
hay tạm thời cũng cố gắng học tiếng Lào để phục vụ
cho mục đích kinh doanh.
Người Việt Nam thích kết hôn với người Việt
Nam. Tuy nhiên, do sống xen cư cùng người Lào,
nên hiện tượng hôn nhân hỗn hợp Việt Nam- Lào
không còn xa lạ. Trong đám cưới của người Việt
Nam và người Lào có sự kết hợp linh hoạt giữa
phong tục người Việt Nam và phong tục người Lào.
Để bảo tồn ngôn ngữ Việt, cộng đồng người Việt
Nam ở huyện Kongsedone tổ chức quyên góp tiền
xây dựng trường tiểu học cho con em Việt Kiều. Sau
nhiều năm hoạt động, do không có kinh phí sửa chữa
nên trường xuống cấp, không sử dụng được phải phá
bỏ. Đầu năm 2007, Hội người Việt tỉnh Salavan đã tổ
chức vận động quyên góp ủng hộ để xây dựng trường
tiểu học trên khu đất của ngôi trường cũ. Năm 2009-
2010 trường hoàn thành và đưa vào sử dụng, đặt tên
là Trường Tiểu học Hữu Nghị Việt Nam - Lào. Hiện
nay, trường Tiểu học Hữu Nghị Việt Nam - Lào có
một giảng đường, 5 lớp học, một văn phòng, 2 phòng
vệ sinh. Đây là loại hình trường tư thục dưới sự quản
lý của Hội người Việt tỉnh Salavan và văn phòng
giáo dục và thể thao huyện Khongsedone, học sinh
theo học trường phải trả tiền học phí 50.000
kip/1tháng/1người. Trường thực hiện dạy học theo
chương trình của Bộ Giáo Dục và thể thao Lào, từ
năm 2012, nhà trường triển khai dạy tiếng Việt, mỗi
ngày 2 tiết. Bên cạnh việc giảng dạy tiếng Việt, vào
dịp Tết cổ truyền Việt Nam, nhà trường cũng tổ chức
các chương trình văn hóa cổ truyền Việt Nam.
Trường hợp chồng Việt Nam - vợ Lào thì không
có lễ ăn hỏi theo phong tục Việt Nam, chỉ có số ít
người nhà trai đến nhà gái bàn bạc và nhà gái mời
cơm. Nhà gái thách cưới bằng tiền, vàng nhưng nhà
trai có thể thỏa thuận với nhà gái. Trong đám cưới,
theo phong tục Lào, buổi sáng chú rể sang nhà gái để
làm lễ rước rể. Chú rể mặc trang phục Lào, che ô đi
trước, tay cầm hoa. Trong đoàn rước, chú rể phải bắt
buộc có một khẳn tiền, một khẳn vàng, một cái gối,
một đệm, một chiếc chiếu, một cây chuối, một cây
dừa nhỏ… những người đi rước rể cùng hát bài
“Rước rể”. Đến cổng nhà gái, đại diện nhà gái kiểm
tra lễ vật, nhà gái chăng 3 lần dây tượng trưng cho 3
lần cửa, mỗi một cửa chú rể phải trả tiền gọi là “tiền
mua đường” mới được vào, đến cửa cuối cùng, chú rể
phải đứng lại để cho em gái hoặc em trai của cô dâu
rửa chân cầu thang, chú rể cũng đưa một phong bì
đựng tiền cho người này rồi đoàn rước dâu được mời
vào làm lễ Xù Khẳn (buộc chỉ cổ tay). Trong lễ Xù
Khẳn, chú rể và cô đâu cùng nhau uống chung một
cốc nước và cùng ăn chung một quả trứng với ý
nghĩa sau này đồng cảm cộng khổ, sống chết có
nhau. Sau buổi lễ, cô dâu và chú rể chuẩn bị khăn
Phả Khá Mạ (khăn tắm truyền thống của nam Lào)
để đem tặng cho các ông bà, bố mẹ và những người
cao tuổi của hai bên thể hiện sự biết ơn. Đám cưới
xong, hai vợ chồng ở gia đình nhà vợ, lúc nào có điều
kiện mới ra ở riêng, trong trường hợp đôi vợ chồng trẻ
Về tôn giáo, phần lớn người Việt Nam sinh sống
tại Salavan theo Phật giáo dòng đại thừa. Họ thường đi
lễ ở các ngôi chùa Việt như: Kim Sơn, Trang
Nghiêm, Long Vân, Thanh Quang tại huyện Pakse,
tỉnh Champasak. Khi làm lễ ở nhà họ mời sư thầy từ
huyện Pakse lên. Trong dịp lễ hội truyền thống của
Lào, những người Việt Nam định cư tại tỉnh Salavan
cũng vào chùa Lào (chùa Lắc Sóng, Vặt Cang, chùa
bản Không Nhày, chùa bản Pặc Thò, chùa bản
4
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
có nhà riêng rồi thì họ ở nhà cô dâu 3 ngày rồi mới tách
ra ở riêng.
thân ở xa về. Ban đêm, họ mời nhà sư người Việt từ
các chùa tại huyện Pakse đến nhà cầu kinh khấn Phật
để linh hồn người mất được siêu thoát. Thậm chí, có
đám tang của người Việt cũng mời nhà sư người Lào
về cầu kinh niệm Phật cho người thân đã qua đời,
thường mỗi lần phải mời từ 3 - 9 nhà sư về làm lễ.
Trường hợp chồng Lào - vợ Việt Nam, người ta
thường tổ chức ăn cưới theo hai phong tục, bên nhà
trai tổ chức nghi lễ theo phong tục cưới hỏi truyền
thống của người Lào. Trước ngày cưới một ngày, nhà
trai mời thầy cúng đến nhà để tổ chức lễ Xù Khẳn
(buộc chỉ cổ tay) cho chú rể. Bố mẹ và họ hàng buộc
chỉ cổ tay chúc cho chàng trai đi làm rể được mạnh
khỏe, phát tài, may mắn. Bởi cô dâu là người Việt
Nam, nên nhà cô dâu thách cưới theo phong tục của
người Việt Nam, tuy nhiên nhà gái phải cử người
sang hướng dẫn nhà trai cách tổ chức hôn lễ theo
đúng phong tục của người Việt Nam.
Ở Salavan, sau khi qua đời, người chết được chôn
luôn một lần mà không bốc mộ. Sau khi việc mai
táng hoàn tất, người Việt Nam cúng tuần, cúng 49
ngày, cúng 100 ngày, rồi làm giỗ đầu. Sau giỗ đầu
(một năm sau khi mất) con cái có thể đốt hết các đồ
như: áo xô, khăn tang. Sau đó, gia đình có người mất
mới được tổ chức ăn hỏi, đám cưới… Hằng năm, vào
rằm tháng 3 và rằm tháng 7 âm lịch Việt Nam, người
Việt Nam ra thăm mộ, dọn dẹp, cúng ở nghĩa trang
và vào chùa làm lễ cho người mất.
Nếu cô dâu người Việt Nam về ở cùng gia đình
chú rể thì nhà trai phải làm lễ Xù Khẳn; khỏang 3
hôm sau kết thúc đám cưới chú rể Lào thường đưa cô
dâu về nhà bố mẹ của mình, bên nhà trai cũng tổ
chức lễ buộc chỉ cổ tay cho hai vợ chồng. Ở Salavan,
phần nhiều con trai Lào lấy vợ người Việt Nam phải
về ở cùng gia đình của vợ do nhà cô dâu có cơ sở làm
ăn thuận lợi hơn.
Nghĩa trang của người Việt nằm ở bản Nôn Đin
Đeng huyện Khong sedone, tỉnh Salavan, cách trung
tâm huyện Khongsedone khoảng 3 km. Đây là mảnh
đất mà cộng đồng người Việt Nam mua để làm nơi
yên nghỉ cho người thân. Nhìn bề ngoài, các ngôi mộ
người Việt Nam tại nghĩa trang bản Nôn Đin Đeng
cũng giống như các ngôi mộ ở các nghĩa trang khác.
Trên những tấm bia mộ được viết bằng cả tiếng Việt
và tiếng Lào, cũng có số ít mộ mới được xây dựng
khang trang nhưng trên tấm bia chỉ viết bằng tiếng
Lào với nội dung tên, ngày - tháng - năm sinh và
ngày - tháng - năm mất.
Người Lào không theo tín ngưỡng thờ phụng tổ
tiên giống như người Việt Nam. Do vậy, về mặt tín
ngưỡng, phụ nữ Việt Nam làm dâu trưởng trong gia
đình người Lào không áp lực như làm dâu trong gia
đình người Việt Nam. Mặt khác, do phụ nữ Việt Nam
chịu thương chịu khó, làm kinh tế giỏi… nên được
quý mến khi là dâu trong các gia đình Lào. Trong
thời gian sinh đẻ và nuôi con, cô dâu Việt Nam mặc
dù đã đi lấy chồng nhưng vẫn được mẹ đẻ theo chăm
sóc, được ăn uống và kiêng kị theo phong tục của
người Việt Nam. Người vợ Việt Nam khi làm dâu
trong gia đình người Lào vẫn tham gia cúng tổ tiên
bên gia đình sinh thành. Cô cũng hoàn toàn được
quyền thờ cúng bố mẹ đẻ của mình nếu gia đình sinh
thành không có con trai và tập cho chồng, các con
thực hành nghi lễ theo phong tục thờ cúng của người
Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng để
người Việt Nam có thể bảo lưu được văn hóa tuyền
thống của mình qua thời gian một cách bền bỉ dù họ
sống xa Tổ quốc.
Với Việt Kiều đã đổi sang họ Lào, trước khi chết,
cũng yêu cầu làm nghi lễ tang ma theo phong tục
Lào, hỏa táng và đặt tro trong chùa. Chùa của người
Lào vừa là nơi người Lào đến lễ Phật, vừa là chỗ mà
khi mất người Lào hỏa táng xác ngay tại chùa và để
tro cốt trong những chiếc tháp đặt xung quanh chùa.
Còn bộ phận những người Việt Nam tạm thời làm
ăn tại tỉnh Salavan, khi có người qua đời trong gia
đình họ thường đưa người chết về Việt Nam để tổ
chức lễ tang ma theo phong tục của người Việt Nam
trong nước.
Trong một năm người Việt Nam định cư tại tỉnh
Salavan có nhiều ngày tết, lễ khác nhau, vừa của
người Việt Nam, vừa của người Lào. Tuy nhiên,
ngày lễ tết quan trọng nhất và vui nhất của người
Việt đó là Tết Nguyên Đán. Vào dịp này, một số gia
đình người Việt tổ chức ăn tết tại gia đình, một số gia
đình khác lại về thăm người thân ở Việt Nam (đặc
biệt là những người Việt Nam định cư tạm thời dành
thời gian này về thăm quê hương mình). Hằng năm,
lãnh sự quán Việt Nam tại Pakse thường tổ chức đón
Cộng đồng người Việt Nam luôn đoàn kết, chia
sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là lúc gia đình có
chuyện không may. Khi người thân mất, người con
trai lớn trong gia đình có trách nhiệm chính trong
việc lo tang ma cho bố mẹ. Theo phong tục của
người Việt Nam, sau khi qua đời, người chết thường
được giữ lại trong nhà khoảng 3 ngày để chờ người
5
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
tết, với nhiều hoạt động vui chơi cho bà con Việt
Trong văn hóa vật thể, đó là việc kiến trúc và xây
dựng những ngôi nhà của người Việt Nam theo kiểu
dáng của người Lào, là sự thích nghi trong gia vị để
chế biến món ăn theo kiểu Lào (ăn cay nhiều), thay
cho cơm tẻ là việc dùng xôi nếp trong bữa ăn hàng
ngày, làm xôi cúng phật, dát xôi lên cột nhà cầu
may…; trong trang phục, thế hệ trung niên thích mặc
mặc váy Lào (Sỉn), váy dài (Sỉntẹm). Cùng với đó,
người Việt Nam cũng phổ biến món ăn đặc trưng của
dân tộc mình cho người Lào thông qua việc bày bán
trong các cửa hàng như bún, phở, bánh chưng, bánh
cuốn… nhiều món ăn của người Việt Nam được
người Lào yêu thích như nem rán, phở, bún…
Kiều. Bên cạnh đó, còn có lãnh đạo Lào của 4 tỉnh
miền Nam Lào (Salavan, Champasak, Sekong và
Attapeu) đến tham dự Tết đón xuân. Sau khi người
Việt Nam tham dự đón xuân tại lãnh sự quán xong,
họ lại trở về đón tết cùng gia đình.
Vào dịp tết Nguyên đán, người Việt Nam trang
trí, quét dọn nhà cửa, bàn thờ, bày mâm quả trên bàn
thờ, chuẩn bị làm mâm cơm cúng tổ tiên vào dịp giao
thừa.. Người khách thăm nhà đầu tiên trong ngày
mồng một tết đối với người Việt Nam rất quan trọng,
bởi họ quan niệm điều may rủi của năm mới phụ
thuộc vào “vía” của người xông đất. Ngày này, con
cháu tập trung lại ở nhà để chúc ông bà và những
người cao tuổi.
Về văn hóa tinh thần, sự giao thoa văn hóa thể
hiện ở việc người Việt Nam đồng thời gìn giữ và duy
trì tín ngưỡng tâm linh của mình (thờ cúng tổ tiên),
song cũng tin vào vía thần tài của người Lào (đặt bàn
thờ Nang Quắc), thờ San Phạ Phum (ma giữ nhà)
giống người Lào. Trong đám cưới của người Việt
Nam- Lào đan xen tín ngưỡng của 2 nền văn hóa Việt
Nam- Lào qua các nghi thức.
Người Việt Nam ở Salavan rất coi trọng việc
thăm viếng họ hàng người thân trong dịp tết mục
đích nhằm gắn kết tình cảm gia đình, cộng đồng. Lời
chúc tết phổ biến của người Việt Nam thường là sức
khỏe, phát tài, phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước
muốn đều thành công. Trong ngày tết, bà con Việt
Kiều chú trọng đến việc chế biến những món ăn
truyền thống của dân tộc để dâng cúng lên tổ tiên như
bánh chưng, bánh dày, nem… bên cạnh đó, còn có
một số món ăn đặc trưng của người Lào như lạp, các
loại mắm.
Trong quá trình sinh sống trên đất nước Lào,
người Việt Nam ở Salavan ứng xử hòa hợp với cư
dân bản địa, nhanh chóng thích nghi với văn hóa Lào,
song cũng luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam và bảo
tồn đặc trưng văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Ngoài tết Nguyên đán của người Việt Nam,
những ngày tết cổ truyền của Lào, người Việt Nam
cũng hưởng ứng tham gia, đặc biệt là dịp tết Bun Pi
Mày hàng năm tổ chức vào giữa tháng 4 dương lịch
(khoảng ngày 13-15 tháng tư). Khi đi ra đường vào
ngày tết Bun Pi Mày có thể thấy các nhóm thanh niên
Việt Nam cùng với thanh niên Lào té nước cho
những người đi lại. Một số thanh niên Việt Nam đi ô
tô và xe máy tận nơi du lịch như suối, sông, thác
nước để té nước cho nhau và tham dự các hoạt động
vui chơi mà người Lào tổ chức như bắn súng nước,
múa Lăm Vông, đi bơi. Còn những người trung tuổi
thường đi chùa làm lễ, chúc tết Bun Pi Mày cho
người Lào và tham dự lễ buộc chỉ cổ tay.
REFERENCES
1. Chanmi Sithimanotham, Laotian Traditional
Culture, Publishing House. Boom Laos, volume I,
1999.
2. Khampheng Thipmountaly, Vietnamese factor
in the process of cultural exchange and contact in
Laos, Lao National Institute for Ethnic and Religious
Studies, Lao National Publishing House, 2009.
3. Salavan Demographic Public Security
Division, "The Statistics of Foreigners in Salavan
Province from 2007 to 2018", Archived at Salavan
Provincial Security Headquarters, 2019.
3. Kết luận
4. Nguyen Quang, "Culture, cultural exchange
and foreign language teaching", Journal of Science,
Hanoi National University, No. 24 (2008), p. 69-85.
Việt Nam và Lào là 2 quốc gia có địa hình cận kề,
trong văn hóa cũng có những điểm tương đồng và lại
có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp. Người Việt Nam
sang Salavan định cư mang theo những đặc trưng văn
hóa của dân tộc mình thông qua sinh hoạt văn hóa
hàng ngày. Bên cạnh đó, họ cũng điều chỉnh lối sống,
học hỏi, nhằm thích ứng một cách nhanh chóng nhất
với cuộc sống ở Lào. Bởi vậy, trong văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể của họ xuất hiện những điểm
tương đồng do giao thoa văn hóa.
5. Nguyen Le Thi, "The pagoda of Vietnamese
people in Laos", Journal of Southeast Asian Studies,
No. 2 (2007).
6. Nguyen Duy Thieu, "The Vietnamese
community in Laos lives and preserves its identity",
Journal of Southeast Asian Studies, No. 2 (2007).
6
N.T.Q.Loan et al/ No.18_Aug 2020|p.6-12
THE INTERCHANGE OF VIETNAMESE CULTURE AND LAO PEOPLE
IN SALAVAN PROVINCE (LAO PEOPLE’S DEMOCRATIC REPUBLIC)
Nguyễn Thị Quế Loan, Singamphai Phimphaphone
Article info
Abstract
Salavan is a province in the South of Lao People’s Democratic Republic, It has a
length of 80 km of border with Vietnam, therefore, besides indigenous residents,
there are also many Vietnamese to live and work in Salavan. In the process of
settling down in Salavan, the Vietnamese brought their traditional culture to Laos,
at the same time, exchanging and learning about the cultural values of the
Laotians. This cultural interchange has formed new cultural values, enriching the
cultural treasures of Vietnamese as well as Lao residents in Salavan province. In
this study, by the ethnographic fieldwork method, synthesis and comparison, we
consider the influence and interchange of culture between Vietnam and Laos in
some typical elements of physical and non-physical culture object.
Recieved:
03/8/2020
Accepted:
20/9/2020
Keywords:
the influence,
interchange of culture,
Laos, Vietnam, Salavan
province.
7
Bạn đang xem tài liệu "Giao thoa văn hóa của người Việt Nam với người Lào ở tỉnh Salavan (Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_thoa_van_hoa_cua_nguoi_viet_nam_voi_nguoi_lao_o_tinh_sa.pdf