Vai trò của Hội An với con đường tơ lụa trên biển (Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII)
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603
DOI: 10.47393/jshe.v10i4.862
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC
VAI TRÒ CỦA HỘI AN VỚI CON ĐƯỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN
(TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII)
Nhận bài:
Tăng Chánh Tína*, Phan Nguyễn Huy Chinhb
15 – 04 – 2020
Chấp nhận đăng:
10 – 06– 2020
Tó m tắt: Con đường tơ lụa trên biển được xem là khởi đầu cho mọi con đường thương mại hàng hải
quốc tế, khô ng chỉ có ý nghĩa về giao thương; con đường tơ lụa trên biển cò n là nền tảng cho những
khá m phá , hiểu biết mới của con người về các vùng đất, địa lý, tự nhiên, chí nh trị, xã hội của cá c khu
vực trên thế giới. Với vị trí quan trọng về chí nh trị, văn hóa; từ rất sớm, thương cảng Hội An (Việt Nam)
đã dự phần và có vai trò quan trọng trên tuyến đường huyết mạch này. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ
về sự ra đời cũng như vai trò của Hội An với con đường tơ lụa trên biển từ đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ
XVIII.
Từ khóa: con đường tơ lụa; vai trò ; thương mại; hàng hải; Hội An.
Mãi đến thế kỉ V thời Đông Tấn, nhà sư Pháp Hiển
từ Ấn Độ đến Xri Lanca, sau đó trở về nước bằng
1. Mở đầu
Với việc ra đời của con đường tơ lụa trên biển, Việt
Nam đã trở thành trạm trung chuyển cho các tuyến giao
thương hàng hải quốc tế. Theo đó, xuyên suốt chiều dài
lịch sử, các thương cảng ở Việt Nam trong đó có thương
cảng Hội An đã tích cực tham gia vào tuyến giao
thương trên con đường tơ lụa trên biển nhất là giai đoạn
từ đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII, tạo điều kiện
giao lưu kinh tế và văn hoá giữa nhiều quốc gia trên thế
giới.
đường biển. Những ghi chép sinh động của ông trong
“Phật quốc kí” (còn gọi là Pháp Hiển truyện) đã miêu tả
chi tiết tuyến hàng hải từ Sư tử quốc (Xri Lanca) qua Da
Phò Đề (Giava) và cuối cùng là vùng Sơn Đông. Hành
trình của nhà sư Pháp Hiển có tính lịch sử vì đã khai
thông tuyến giao thông biển từ Biển Đông đến Ấn Độ
Dương qua các eo biển ở khu vực Đông Nam Á hải đảo
và quan trọng hơn, đó là mốc đánh dấu sự hình thành
con đường tơ lụa trên biển. Và thời gian trước đó, chỉ
được xem là khoảng thời gian định hình cho hoạt động
thương mại trên biển của Trung Quốc (Nguyễn &
Hoàng, 2008, 125).
2. Khái quát về con đường tơ lụa trên biển
2.1. Sự ra đời
Về sự hình thành của con đường tơ lụa trên biển
hiện có nhiều giả thuyết. Nhiều ý kiến cho rằng từ trước
thế kỉ V, đã xuất hiện những mầm mống sơ khai của con
đường tơ lụa trên biển ở Trung Quốc. Tuy nhiên, giai
đoạn này chỉ diễn ra quá trình giao lưu giữa Trung Quốc
với các nước lân cận diễn ra trên quy mô nhỏ hẹp. Đây
được xem là giai đoan xác lập cho các mối quan hệ bằng
đường biển giữa Trung Quốc và các nước.
Con đường tơ lụa là một mạng lưới, một hệ thống
các con đường trao đổi thương mại trên biển. Trong đó,
Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc hình hành
và định hình một số hoat động ở con đường tơ lụa trên
biển; con đường tơ lụa trên biển hoàn toàn không phải
là của Trung Quốc như một số người vẫn lầm tưởng.
2.2. Tên gọi
Nguồn gốc của thuật ngữ “Con đường tơ lụa”
không phải xuất phát từ Trung Quốc. Người khai sinh ra
thuật ngữ Seidenstrasse (Con đường tơ lụa) chính là nhà
địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen (1833 -
1905), ông đã sử dụng thuật ngữ này trong các báo cáo
a,b Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
*
Tác giả liên hệ
Tăng Chánh Tín
Email: tctin@ued.udn.vn
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số đặc biệt (2020), 15-21 | 15
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyễn Huy Chinh
hàn lâm của mình gửi đi từ Trung Á. Các báo cáo này
được xuất bản lần đầu ở Berlin vào năm 1877. Trong
các nghiên cứu của ông về con đường thương mại cổ đại
xuất phát từ Trung Hoa đi về phía tây châu Á, xuyên
qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran,
Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, các nước xung quanh Địa
Trung Hải và đến tận châu Âu, dài hơn 6.400 km.
Trong đó, cảng Tuyền Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến đã
phát triển vượt xa thương cảng Quảng Châu. Các
thương nhân Ả Rập lúc bấy giờ nhận xét “Tuyền Châu
là một trong những thương cảng lớn nhất thế giới”. Tiếp
đến, thời nhà Minh đã chú trọng đề ra những chính sách
nhằm thúc đẩy và phát triển ngành thương mại biển như
tái lập các Thị Bách Ti, miễn giảm thuế khi buôn bán
với dân bản địa và đón tiếp các tàu buôn từ nước ngoài
đến triều cống,…
Thuật ngữ của Ferdinand von Richthofen lúc bấy
giờ tuy đã được biết đến nhưng chưa sử dụng rộng rãi,
mãi đến khi một trong các học trò của Richthofen tại
trường Đại học Humboldt ở Berlin bắt đầu sử dụng nó
trong các nghiên cứu của mình vào thập niên 1930.
Người học trò này là một nhà thám hiểm tên là Sven
Hedin, người Thụy Điển. Vào năm 1936 ông xuất bản
một cuốn sách có nhan đề “Die Seidenstrasse” bằng
tiếng Đức và “Sidenvägen” bằng tiếng Thụy Điển.
Cuốn sách sau đó được dịch sang một số ngôn ngữ
khác, bao gồm tiếng Anh vào năm 1938, và được biết
đến với cái tên “The Silk Road” (Con đường Tơ lụa).
Đến giữa thế kỉ XVI, những biến động của thị trường
Trung Quốc, đó là việc nhà Minh thực hiện chính sách
“hải cấm” đã làm cho “con đường tơ lụa trên biển” của
Trung Quốc sau giai đoạn phát triển cực thịnh đã có dấu
hiệu suy giảm rõ rệt và suy tàn cuối thế kỉ XVIII.
Hải trình của con đường tơ lụa trên biển có điểm
cực Tây bắt đầu từ Roma qua các hải cảng vùng Trung
Cận Đông như: Al Tur, Fustat, Cairo... men theo bờ
biển phía nam Ấn Độ qua Thái Lan vòng xuống eo
Malacca để vào vùng biển Thái Bình Dương.
Và mãi đến năm 1989, khi cuốn sách của tác giả
Che Muqi có nhan đề Con đường tơ lụa: Quá khứ và
Hiện tại được Nhà xuất bản Ngoại văn Bắc Kinh xuất
bản thì thuật ngữ này mới được chính thức sử dụng ở
Trung Quốc (Trung Hiếu, 2019). Về sau, giới học thuật
quốc tế đều thống nhất tên gọi con đường tơ lụa để chỉ
tuyến đường thông thương thời cổ đại xuất phát từ
Trung Quốc qua Nam Á, Tây Á nối liền tới châu Âu và
Bắc Phi, bao gồm tuyến đường trên bộ (Con đường tơ
lụa - Silk Road) và trên biển (Con đường tơ lụa trên
biển - Maritime Silk Road).
Sau khi vượt qua eo Malacca, con đường chia làm
hai ngả. Một ngả men theo vùng biển Việt Nam qua các
cảng: Côn Đảo - Cù Lao Chàm - Hội An - vào vùng
biển Nam Trung Hoa rồi qua nam Nhật Bản. Ngả thứ
hai đi vào quần đảo Indonesia, Philippines rồi ngược
vào vùng phía nam Trung Quốc để tới nam Nhật Bản -
Cảng Hakata trên đảo Kyushu được coi là điểm tận
cùng phía Đông của con đường này.
3. Sự ra đời của thương cảng Hội An
Với những đặc điểm vị trí địa lý thuận lợi, từ đầu
Công nguyên, thương cảng Hội An đã tồn tại và phát
triển trên nền tảng văn hoá Sa Huỳnh. Giai đoạn của
những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Champa từng là
điểm đến đồng thời cũng là chốn đi về của nhiều đoàn
thương thuyền từ Đông Bắc Á xuống, từ Đông Nam Á,
Tây Nam Á sang. Đặc biệt các thương cảng vùng
Champa (trong đó có thương cảng Hội An mà ngày đó
gọi là Lâm Ấp phố) là những thương cảng sâu, nơi ẩn
gió tốt, có nguồn nước ngọt dồi dào và quê hương của
những sản vật như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, sa
nhân, đồi mồi nên các thương cảng vùng Champa đã trở
thành trạm trung chuyển rất lí tưởng cho những tàu
buôn nước ngoài trên con đường tơ lụa trên biển.
2.3. Hoạt động
Hoạt động của con đường tơ lụa trên biển gắn với
vai trò quan trọng của Trung Quốc trên tuyến đường
này. Năm Khai nguyên thứ 2 (714) dưới thời nhà
Đường, triều đình thiết lập Thị Bách Ti ở Quảng Châu
để quản lý những việc mua bán của thuyền bè nước
ngoài. Đến thời Tống, kỹ thuật hàng hải có sự phát
triển, đột phá mới, người Trung Quốc đã bắt đầu biết sử
dụng la bàn để đi biển và từ thời Lưỡng Tống, đồ gốm
đã trở thành mặt hàng buôn bán chủ yếu trên con đường
thương mại biển (Nguyễn & Hoàng, 2008, 128).
Từ thời nhà Nguyên, con đường tơ lụa trên biển
không ngừng phát triển, ngành thương mại biển không
ngừng được mở rộng. Nghề đóng thuyền đi biển cũng
phát triển quy mô hơn trước bởi lợi nhuận rất cao.
Giai đoạn từ thế kỉ V đến thế kỉ X, người Chăm đã
thiết lập nên một hệ thống cảng thị, mạng lưới giao
16
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 15-21
thông rộng lớn, có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều thị
của cư dân cổ ở Hội An nói riêng và cả Champa nói
chung (Đỗ, 2016).
trường, trung tâm nguyên liệu, luân chuyển hàng hoá
(V. K. Nguyễn & Trần, 2019,138-147). Dải bờ biển
miền Trung làm cơ sở, coi tiềm năng kinh tế biển là thế
mạnh, các cộng đồng người thuộc vương quốc Champa
đã thiết lập “một hệ thống thương cảng giúp cho việc
trao đổi thương mại với các quốc gia bên ngoài. Các
thương cảng này đã đóng một vai trò quan trọng trong
việc hình thành con đường tơ lụa trên biển vào thế kỉ IX
- X và phồn thịnh trong các thế kỉ sau” (Hà, 2002, 346).
4. Hội An với con đường tơ lụa trên biển (từ
đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII)
Xứ Quảng dưới thời các chúa Nguyễn trong những
thế kỉ XVI - XVIII là một vùng đất trù phú nhất của
Đàng Trong với đô thị thương cảng Hội An nổi tiếng
mở rộng cửa giao thương với thế giới bên ngoài. Sau
một thời gian suy thoái kéo dài đến 150 năm từ năm
1306 - 1558, trải qua các triều đại phong kiến như nhà
Trần, nhà Hồ, nhà Lê, cảng thị Hội An mới được phục
hồi trở lại dưới thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 -
1613) nhờ chính sách mở cửa buôn bán với nước ngoài,
khôi phục hoạt động ngoại thương trên thương cảng Hội
An và nhằm mục đích tăng cường tiềm lực kinh tế - xã
hội và quân sự của Đàng Trong để đối đầu với chính
quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Giai đoạn từ thế kỉ X trở về sau nhất là trong kỷ
nguyên thương mại sớm ở khu vực Đông Nam Á, thương
cảng Hội An và hệ thống các thương cảng của vùng
Amaravati (bao gồm cả thương cảng vùng cửa sông Hàn
- Đà Nẵng, bến cảng trên đảo Cù Lao Chàm và đảo Lý
Sơn, cảng Cổ Lũy vùng cửa sông Trà Khúc ở Quảng
Ngãi) đã dự nhập một cách tích cực vào mạng lưới giao
thông biển của khu vực và được ghi nhận là những điểm
đến thường xuyên của các đoàn thuyền buôn và thương
nhân Trung Hoa, Arab và Đông Nam Á.
Nhờ mở cửa và quan hệ buôn bán với người nước
ngoài mà thương cảng Hội An đã trở thành điểm
dừng chân và trạm trung chuyển của nhiều tuyến hải
thương quốc tế, bên cạnh đó là hoạt động trao đổi
mua bán hàng hoá, cung cấp nước ngọt, than củi,
lương thực. Cristophoro Borri từng nhận định: “Châm
ngôn của người Đàng Trong là không sợ sệt bất cứ
nước nào trên thế giới. Hoàn toàn trái ngược với vua
Trung Quốc là sợ bất cứ ai nên đóng chặt cửa không
cho người nước ngoài vào, không cho phép buôn bán
ở nước mình” (Borri, 2014, 93). Vì lẽ đó, Hội An đã
dự phần và có những đóng góp quan trọng trên con
đường thương mại trên biển từ đầu thế kỉ XVI đến
cuối thế kỉ XVIII.
Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII có thể được
xem là giai đoạn phát triển thịnh vượng nhất của nagara
Amaravati cả về mặt chính trị, kinh tế và văn hoá nhờ
vào sự phát triển mạnh mẽ của giao thương biển quốc tế
với vai trò quan trọng của cảng thị Hội An. Các tư liệu
cổ của văn khắc Champa đã cung cấp những tư liệu
quan trọng cho thấy sự hội nhập tích cực, chủ động và
liên tục của Champa trong việc dự nhập vào mạng lưới
giao thương quốc tế. Ngoài ra, dựa trên những tư liệu
khảo cổ học về việc tìm thấy được đồ gốm men ngọc
của lò Việt Châu (thế kỷ X), đồ sứ hoa lam, đồ gốm
men ngọc Long Tuyền, đồ sứ hoa lam Đồng An (thế kỉ
XII – XIII) và đồ sứ trắng Đức Hóa (thế kỉ XIII) ở địa
điểm Trảng Sỏi (Cẩm Hà, Hội An), Bàu Đá (Cẩm
Thanh, Hội An) hay giếng Champa cũng đã được tìm
thấy ở xóm Thanh Chiêm và xóm An Bàng (Cẩm Hà,
Hội An).
4.1. Điểm dừng chân, trao đổi mua bán hàng hoá
Dưới tác động của hoạt động thương mại thế giới
và các nước trong khu vực, đồng thời, do yêu cầu xây
dựng tiềm lực chính trị - kinh tế - quân sự lớn mạnh để
đối trọng với chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài,
chúa Nguyễn đã thực thi chính sách ngoại thương mở
cửa đối với bên ngoài. Nhờ vây, hoạt động thương
nghiệp ở Đàng Trong nói chung và Hội An nói riêng
đã phát triển phồn thịnh từ thế kỉ XVI. Ngoài ra, Hội
An còn hội tụ những điều kiện địa lý thuận lợi để trở
thành một thương cảng sầm uất. Với vị trí địa lý nằm
bên cạnh sông Thu Bồn, liền ngay với cửa Đại, phía
trước được che chắn bởi Cù Lao Chàm, các thuyền bè
Từ những tư liệu khảo cổ học trên, có thể thấy rằng,
trước khi trở thành một thương cảng nổi tiếng của Đàng
Trong ở thế kỉ XVI – XVIII thì Hội An đã từng là một
trung tâm kinh tế có tầm quan trọng bậc nhất của cư dân
cổ Champa. Sự hiện diện phong phú của các hiện vật
khảo cổ học, đặc biệt là các hiện vật gốm sứ thương mại
đã góp phần quan trọng vào việc phục dựng lại lịch sử
17
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyễn Huy Chinh
từ ngoài biển vào có thể đi qua cửa Đại hay đi vào từ
phía cửa Hàn (vịnh Đà Nẵng), theo sông Cổ Cò đến
Hội An (Đ. A. S. Trần, 2000, 51-64).
sinh sống. Đầu tiên phải kể đến các thương nhân Hoa
Kiều và Nhật Bản. Theo sau là người Bồ Đào Nha, rồi
người Hà Lan lần lượt tìm đến, lập các thương điếm để
buôn bán lâu dài trên đất Hội An. Trong số 37 hồ sơ về
mối quan hệ giữa công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) với
các chúa Nguyễn trong thế kỉ XVII - XVIII do TS.
Nguyễn Văn Bình và TS. John Kleinen (ĐH Leiden -
ĐH Amsterdam, Hà Lan) công bố tại Hội thảo quốc tế
về Hội An (1990) thì có đến 19 văn kiện liên quan trực
tiếp đến việc giao lưu thương mại của VOC với các
cảng thị miền Trung, trong đó chủ yếu là thương cảng
Hội An (Trương & Kleinen, 1991, 63-67).
Theo GS Trần Quốc Vượng, “Hội An là sự phục
hưng của cảng thị Champapura, nơi ngã tư đường nước
(sông Cổ Cò-Đế Võng-Trường Giang và sông Chợ Củi-
Sài Thị)” (Nhiều tác giả, 2004, 88).
Nhắc đến vai trò trung tâm mua bán, trao đổi hàng
hóa của Hội An trong giai đoạn này, không thể không
nhắc đến vai trò của tiền cảng Cù Lao Chàm. Bởi lẽ, từ
buổi khởi nguyên của các hoạt động thương mại Đông -
Tây ở khi vực biển Đông thì vận mệnh của Hội An và
Cù Lao Chàm đã gắn chặt với nhau. Trong thư tịch cổ Ả
Rập đã ghi chép: “Tàu từ Hind (Ấn Độ) đến Sanf
(Champa) mất 10 ngày. Ở đây có nước ngọt và trầm
hương xuất khẩu... Họ dừng lấy nước ngọt ở Sanf-
Fulaw, Cham Pulaw (Cù Lao Chàm) rồi định hướng đi
đến Sin (Trung Quốc)” (Hoàng, 2007, 121).
Còn đối với thương nhân Nhật Bản, trong số 354
Shuinjo (Châu ấn trạng) mà Mạc phủ Tokugawa cấp
cho các thương thuyền Nhật Bản ra nước ngoài buôn
bán trong khoảng thời gian 1604 - 1634, thì có 334
Shuinjo được cấp để đi đến 19 thương cảng thuộc các
nước Đông Nam Á, chiếm 93,5% trong đó Hội An có
86 thuyền, chiếm tỉ lệ 66% (Vũ, 1991, 206-207).
Những số liệu dẫn chứng trên đây đã chứng tỏ thương
cảng Hội An có sức thu hút lớn đối với các thuyền
buôn nước ngoài.
Vào giai đoạn từ đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ
XVIII, thương nhân các nước phương Tây như Hà Lan,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp… các nước
Đông Nam Á như Mã Lai, Indonesia, Thái Lan,
Singapore,…và các nước Đông Bắc Á như Trung Quốc,
Nhật Bản hàng năm đã dừng chân tại Hội An để nghỉ
chân hay trao đổi hàng hoá trên các thương thuyền. Với
điều kiện thuận lợi của mình, Hội An trở thành nơi đô
hội sầm uất bậc nhất của xứ Đàng Trong.
Một trong những mặt hàng được trao đổi, mua bán
từ rất sớm tại thương cảng Đại Chiêm - Hội An là trầm
hương và nô lệ. “giá một đứa bé là ba lạng vàng hay trả
bằng gỗ thơm tương đương với ba lạng vàng” (Trần &
Vũ, 1991, 132). Trầm hương của Quảng Nam đã thu hút
một số lượng đông đảo các thương nhân nước ngoài tới
tìm mua, nhất là từ các nước Trung Á và Đông Á.
Người Ả Rập, Trung Hoa và Nhật Bản đều rất ưa
chuộng món hàng này. Ngoài hai nguồn hàng xuất khẩu
chính trên, ở đây “còn xuất khẩu vàng, ngà voi, sừng tê,
đồi mồi, tơ lụa, hồ tiêu, mật ong, đường mía, các loại gỗ
quý, các loại đậu, chim và thú vật hiếm lạ…và những
loại lâm thổ sản khác” (Trần & Vũ, 1991, 133).
Trong tác phẩm “Xứ Đàng Trong 1621”,
Cristophoro Borri đã ghi lại cảnh quan nơi đây với một
ngòi bút đầy cảm xúc: “Còn về hải cảng thì thật lạ lùng
chỉ trong hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm
được hơn 60 cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến
và lên đất liền. Là vì ở ven bờ có nhiều nhánh biển lớn,
hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới
và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng
thuộc tỉnh Quảng Nam. Người ta cập bến bằng hai cửa
biển, một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là
Puluciambello (Cửa Đại, Hội An). Các cửa biển cách
nhau chừng 3 hay 4 dặm, kế đó biển chia làm hai nhánh
đi sâu vào đất liền chừng bảy hay tám dặm làm thành
như hai con sông luôn tách rời nhau để rồi cùng gặp
nhau và đổ vào một con sông lớn. Tàu bè từ hai phía tới
cũng đi vào con sông này” (Borri, 2014, 91).
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp
lục, thuyền buôn nước ngoài đến Hội An mang theo các
mặt hàng may mặc, vải, giấy, đồ đồng, đồ gỗ, sành sứ,
đồ thờ cúng, tạp hoá, thực phẩm, dược phẩm. Trong đó,
đồ sành sứ chiếm tỉ lệ 4,64%, đúng hàng thứ tư trong số
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu vào Hội An
(Lê, 1977, 357-358).
Về hàng xuất khẩu, Hội An xuất ra nước ngoài các
mặt hàng gỗ, đặc sản quý hiếm (như sừng tê, ngà voi,
trầm hương, yến sào), hải sản, kim loại, nông sản thực
Nhờ hội tụ những yếu tố đó mà Hội An đã trở thành
nơi thu hút các thương nhân các nước đến buôn bán và
18
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 15-21
phẩm, hàng thủ công, dược phẩm. Trong những mặt kể
“Hòn Tàu, Hòn Kẽm, Hòn Vung
Ba hòm xúm lại đỡ vùng Quảng Nam
Non sông ai dựng ai làm
hàng kể trên thì đồ gốm sứ chiếm một tỉ lệ lớn. Những
tư liệu khảo cổ học dựa trên kết quả khai quật ở Hội An
đã chứng minh cho điều đó. Trong công cuộc khai quật
vào năm 1989, đã phát hiện một số lượng khá lớn đồ
gốm Trung Hoa ở các địa điểm Hậu Xá (Thanh Hà, Hội
An), chùa Âm Bổn (Sơn Phong, Hội An). Tiếp theo đó
là sự phát hiện các đồ gốm thuộc dòng gốm Hizen (Nhật
Bản) chứng minh cho hoạt động giao thương của Hội
An rất phát triển.
Sông Sài Giang lượn khúc, Cù Lao Chàm xanh um”
“Quảng Nam có núi Ngũ Hành
Có sông chợ Củi, có thành Đồng Dương”
Địa danh chúng tôi muốn nhắc tới ở đây chính là
chợ Củi (Sài Thị) và sông Sài Thị (Sài Thị Giang). Sài
Thị Giang là tên của một con sông chảy qua Chợ Củi
sầm uất rồi chảy qua những bến nước Câu Lâu, Vạn
Đông… kéo dài mãi tới Gò Sài của Điện Phương (Điện
Bàn) ngày nay. Nhiều ý kiến đồng ý sông Chợ Củi
chính là một đoạn sông Thu Bồn đi qua cái chợ Củi
(thuộc thôn Đông Khương, xã Điện Phương nay), nơi
tập trung thuyền bè đông đúc để được tiếp củi - nhiên
liệu chất đốt cần thiết, nước ngọt, lâm hải sản cho
những chuyến đi xa.
Bên cạnh các hoạt động với các thương nhân người
Hoa, người Nhật thì thời kỳ này, hoạt động thương mại
với các thương nhân phương Tây cũng rất phát triển.
Tuy nhiên, trong chính sách giao thương với thương
nhân phương Tây, chính quyền chúa Nguyễn vẫn luôn
lo sợ mối nguy cơ tiềm ẩn về an ninh quốc gia, do vậy,
chính quyền chúa Nguyễn luôn ban hành lệnh cấm,
không cho thuyền hoặc thương nhân phương Tây vào để
buôn bán.
Học giả Nguyễn Văn Xuân trong bài viết “Từ Sài
Thị đến Sài Gòn” từng nhận định: “Từ bến cảng quốc tế
này, các tàu bè đều cần đến củi và nước sạch để giải
quyết sinh hoạt khi ở lại hay tiếp tục hành trình. Củi
nước, đặc biệt củi là vấn đề cực kỳ quan trọng cho tàu
bè đô thị cũng như cho dân địa phương. Vì thế phải lập
một chợ lớn chuyên việc buôn củi bao gồm các thợ đốn
củi, các thuyền bè và lái buôn cho toàn nhiệm vụ này”
(V. X. Nguyễn, 2010).
Từ sau thế kỉ XVII, hoạt động buôn bán của thương
nhân phương Tây có bước khởi sắc hơn bằng việc các
thương thuyền phương Tây đã đến Hội An buôn bán
nhiều hơn. Điển hình như các thương nhân Bồ Đào Nha
đã tiến hành bán vũ khí và mua các mặt hàng từ Hội An
như tơ lụa, hồ tiêu, gỗ quý, trầm hương,…hay thương
nhân Hà Lan tiến hành việc bán ra những sản phẩm bạc
nén, chì, vải, thuỷ tinh và mua lại các mặt hàng như
vàng, tơ lụa, đường,… Tuy nhiên, hoạt đông buôn bán
của thương nhân phương Tây sau ba thế kỷ phồn thịnh
đến khoảng cuối thế kỉ XVIII đã suy tàn do nhiều
nguyên nhân.
Chợ Củi thời này chẳng khác gì một thị tứ, tấp nập
kẻ bán người mua, cảnh “trên bến dưới thuyền” dập dìu
thuyền bè qua lại. Củi được khai thác từ trên thượng
nguồn để cung cấp cho toàn bộ vùng dinh trấn, các lò
gạch và gốm nung Thanh Hà, lò đúc đồng Phước Kiều
và thuyền bè trong nước và tàu buôn ngoại quốc từ cảng
Hội An, Trà Nhiêu lên. Đoạn sông từ cầu Câu Lâu ngày
nay kéo dài mãi xuống khoảng 4 - 5 cây số có Gò Sài
(gần chợ La Nghi) là một gò cao chất đầy củi, muối,
nước mắm để dễ tiếp ứng cho ghe thuyền. Sông Chợ
Củi còn là nơi neo đậu tàu thuyền, đóng quân của đại
thủy quân chúa Nguyễn.
4.2. Cung cấp nước ngọt, than củi, lương thực
Bên cạnh việc trao đổi, mua bán hàng hóa; một
trong những vai trò không kém phần quan trọng của Hội
An trong giai đoạn này chính là cung cấp nước ngọt,
than củi cũng như nhu yếu phẩm cho các thương thuyền
ngoại quốc. Hội An (Hoài phố) ngày xưa có phạm vi
khá rộng, không chỉ nằm trong phạm vi phố cổ như bây
giờ mà có thể không gian của nó còn mở rộng rất nhiều
về phía đông (Cù Lao Chàm) và phía Tây (Sài Thị -
Thanh Chiêm).
Như vậy, có thể thấy, giai đoạn thế kỉ XVI-thế kỉ
XVIII, với tư cách là một điểm dừng quan trọng trên
con đường tơ lụa trên biển, Hội An đã là nơi các thuyền
buôn quốc tế cập bến để bổ sung nước ngọt, thực phẩm
và nhiên liệu than củi bên cạnh trao đổi, mua bán các
mặt hàng khác.
Nhắc tới chức năng cung cấp than củi, chất đốt,
nước ngọt của cảng thị Hội An thời kỳ này, chúng ta
không thể không nhắc đến những địa danh đã đi vào ca
dao xứ Quảng:
19
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyễn Huy Chinh
4.3. Cầu nối giao lưu văn hoá
Hà, V. T. (2002). Khảo cổ học Việt Nam, tập 3. Khoa
học Xã hội.
Hoàng, A. T. (2007). Cù Lao Chàm và hoạt động
thương mại ở biển Đông thời vương quốc
Champa. Kỷ yếu Cù Lao Chàm - Vị thế, tiềm
năng và triển vọng.
Trong suốt ba thế kỉ (XVI - XVIII), Hội An đã thực
sự trở thành cầu nối cũng như nơi hội tụ sự giao lưu văn
hóa Đông - Tây. Sự có mặt của các thương nhân Trung
Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đã để lại
những dấu ấn đậm nét của sự giao lưu văn hóa. Sự giao
lưu ấy được thể hiện rõ nét trong kiến trúc Hội An. Đó
là những ngôi nhà cổ mang phong cách Việt - Hoa;
những hội quán mà đặc biệt là chùa Cầu (Lai Viễn
Kiều) mang đậm phong cách Nhật - Việt - Hoa.
Lê, Q. Đ. (1977). Phủ biên tạp lục, tập 1. Khoa học
Xã hội.
Nguyễn, M. M., & Hoàng, V. V. (2008). Con đường
Tơ lụa: Quá khứ và tương lai. Giáo dục.
Nguyễn, V. K., & Trần, V. M. (2019). Cù Lao Chàm
trong không gian biển Champa thế kỷ XI - XV:
Tiềm năng, vị thế và hoạt động giao thương quốc
tế. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Cù Lao Chàm đa
dạng tài nguyên thiên nhiên - văn hoá và phát
triển bền vững, Quảng Nam.
Vai trò giao lưu văn hóa của Hội An còn được thể
hiện qua sự đa dạng của đời sống tôn giáo tín ngưỡng
với sự có mặt của các tôn giáo như Phật giáo, Lão Giáo,
Nho giáo, Công giáo… và các tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, thờ tổ nghề, thờ Thiên hậu, thờ Quan Công, thờ Bà
Mụ, thờ Bắc đế Trần vũ…
Nguyễn, V. X. (2010). Từ Sài Thị đến Sài Gòn.
Nhiều tác giả. (2004). Duyên hải miền Trung - Đất và
người. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần, Đ. A. S. (2000). Các thương cảng vùng Trung
Trung bộ Việt Nam và con đường gốm sứ ở vùng
Tây Nam Thái Bình Dương trong thời đại thương
mại (thế kỷ XVI - XVIII). Tạp chí Thông tin
Khoa học và Công nghệ, 4(30), 51-64.
Hội An còn là trung tâm giao lưu ngôn ngữ quốc tế
với nguồn tư liệu phong phú được tìm thấy từ các ngôn
ngữ Hán-Nôm đến Nhật Bản, Pháp và cả chữ Phạn cổ.
Đồng thời, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
Hội An với tư cách là một trong những chiếc nôi hình
thành chữ Quốc ngữ vào nửa đầu thế kỉ XVII. Sự giao
lưu văn hóa cũng làm nên tính cách, phong cách của
người Hội An; những con người hiền hòa, hiếu khách và
cởi mở.
Trần, K. P., & Vũ, H. M. (1991). Cửa Đại Chiêm thời
vương quốc Champa thế kỷ IV - XV. In Đô thị
cổ Hội An. Khoa học xã hội.
5. Kết luận
Từ đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII, hoạt động
thương mại trên con đường tơ lụa tên biển đã ghi dấu ấn
của Hội An với tư cách là một điểm dừng chân, trạm
trung chuyển; trung tâm mua bán hàng hải cũng như
cung cấp nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho các thương nhân
Đông - Tây. Nghiên cứu về Hội An, đặt trong bối cảnh
và hoạt động của con đường tơ lụa thực sự là một vấn
đề nghiên cứu hấp dẫn và còn nhiều dư địa cho các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước.
Trung Hiếu. (2019, December 26). Danh xưng “Con
đường Tơ lụa” vốn dĩ không phải của Trung
Quốc?. Cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Doanh
nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
vn.vn/kham-pha/danh-xung-con-duong-to-lua-
von-di-khong-phai-cua-trung-
quoc/20191226033237736
Trương, V. B., & Kleinen, J. (1991). Tư liệu VOC về
mối quan hệ giữa công ty Đông Ấn Hà Lan với
các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII - XVIII. Đô
thị cổ Hội An. Khoa học xã hội.
Vũ, M. G. (1991). Người Nhật, phố Nhật và di tích
Nhật Bản ở Hội An. Đô thị cổ Hội An. Khoa học
xã hội.
Tài liệu tham khảo
Borri, C. (2014). Xứ Đàng Trong năm 1621. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
Đỗ, T. G. (2016). Hội An - Champa trong kỷ nguyên
thương mại sớm của Đông Nam Á (900 - 1300).
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Dinh trấn Thanh
Chiêm và chữ Quốc ngữ, Quảng Nam.
20
ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 15-21
THE ROLE OF HOI AN TO THE MARITIME SILK ROAD
(FROM THE FIRST HALF OF 16TH CENTURY TO THE SECOND HALF OF 18TH CENTURY)
Tang Chanh Tin, Phan Nguyen Huy Chinh
The University of Danang - University of Science and Education
Abstract: The Maritime Silk Road is considered the beginning of all international maritime trade routes, not only in terms of
trade; the Maritime Silk Road is also the foundation for human discoveries and understanding about geography, nature, politics and
society of many parts of the world. Thanks to its significantly geopolitical and geo-cultural position; from a very early age, Hoi An
trading port (Vietnam) has participated and played an important role on this arterial route. This article will focus on clarifying the birth
as well as the role of Hoi An to the Maritime Silk Road from) early 16th century to the end of 18th century.
Key words: The Silk Road; Role; Trade; Maritime trade; Hoi An.
21
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của Hội An với con đường tơ lụa trên biển (Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- vai_tro_cua_hoi_an_voi_con_duong_to_lua_tren_bien_tu_dau_the.pdf