Vai trò của Hội An với con đường tơ lụa trên biển (Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII)

UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603  
DOI: 10.47393/jshe.v10i4.862  
TP CHÍ KHOA HC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DC  
VAI TRÒ CA HI AN VI CON ĐƯỜNG TƠ LA TRÊN BIN  
(TỪ ĐẦU THKỶ XVI ĐẾN CUI THKXVIII)  
Nhận bài:  
Tăng Chánh Tína*, Phan Nguyn Huy Chinhb  
15 04 2020  
Chấp nhận đăng:  
10 062020  
Tó m tt: Con đường tơ lụa trên biển được xem là khởi đầu cho mọi con đường thương mại hàng hi  
quc tế, khô ng chỉ có ý nghĩa về giao thương; con đường tơ lụa trên bin cò n là nn tng cho nhng  
khá m phá , hiu biết mi ca con người về các vùng đất, địa lý, tnhiên, chí nh tr, xã hi ca cá c khu  
vc trên thế gii. Vi vtrí quan trng vchí nh trị, văn hóa; trt sm, thương cảng Hi An (Vit Nam)  
đã dự phn và có vai trò quan trng trên tuyến đường huyết mch này. Bài viết này stp trung làm rõ  
vsự ra đời cũng như vai trò của Hi An với con đường tơ lụa trên bin từ đầu thế kỉ XVI đến cui thế kỉ  
XVIII.  
Từ khóa: con đường tơ lụa; vai trò ; thương mại; hàng hải; Hội An.  
Mãi đến thế kV thời Đông Tấn, nhà sư Pháp Hiển  
từ Ấn Độ đến Xri Lanca, sau đó trở về nước bng  
1. Mở đầu  
Vi việc ra đời của con đường tơ lụa trên bin, Vit  
Nam đã trthành trm trung chuyn cho các tuyến giao  
thương hàng hải quc tế. Theo đó, xuyên suốt chiu dài  
lch s, các thương cảng Việt Nam trong đó có thương  
cng Hội An đã tích cực tham gia vào tuyến giao  
thương trên con đường tơ lụa trên bin nhất là giai đon  
từ đầu thế kỉ XVI đến cui thế kXVIII, tạo điều kin  
giao lưu kinh tế và văn hoá giữa nhiu quc gia trên thế  
gii.  
đường bin. Những ghi chép sinh động ca ông trong  
“Phật quốc kí” (còn gọi là Pháp Hin truyện) đã miêu tả  
chi tiết tuyến hàng hi từ Sư tquc (Xri Lanca) qua Da  
Phò Đề (Giava) và cuối cùng là vùng Sơn Đông. Hành  
trình của nhà sư Pháp Hiển có tính lch sử vì đã khai  
thông tuyến giao thông bin tBin Đông đến Ấn Độ  
Dương qua các eo bin khu vực Đông Nam Á hải đảo  
và quan trọng hơn, đó là mốc đánh dấu shình thành  
con đường tơ lụa trên bin. Và thời gian trước đó, chỉ  
được xem là khong thời gian định hình cho hoạt động  
thương mại trên bin ca Trung Quc (Nguyn &  
Hoàng, 2008, 125).  
2. Khái quát về con đường tơ lụa trên biển  
2.1. Sự ra đời  
Vshình thành của con đường tơ lụa trên bin  
hin có nhiu githuyết. Nhiu ý kiến cho rng từ trước  
thế kỉ V, đã xuất hin nhng mm mống sơ khai của con  
đường tơ lụa trên bin Trung Quc. Tuy nhiên, giai  
đoạn này chdiễn ra quá trình giao lưu giữa Trung Quc  
với các nước lân cn din ra trên quy mô nhhp. Đây  
được xem là giai đoan xác lp cho các mi quan hbng  
đường bin gia Trung Quốc và các nước.  
Con đường tơ lụa là mt mạng lưới, mt hthng  
các con đường trao đổi thương mại trên biển. Trong đó,  
Trung Quc có vai trò quan trng trong vic hình hành  
định hình mt shoat động ở con đường tơ lụa trên  
bin; con đường tơ lụa trên bin hoàn toàn không phi  
là ca Trung Quốc như một số người vn lầm tưởng.  
2.2. Tên gọi  
Ngun gc ca thut ngữ “Con đường tơ lụa”  
không phi xut phát tTrung Quc. Người khai sinh ra  
thut ngữ Seidenstrasse (Con đường tơ lụa) chính là nhà  
địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen (1833 -  
1905), ông đã sử dng thut ngnày trong các báo cáo  
a,b Trường Đại hc Sư phạm – Đại học Đà Nẵng  
*
Tác giliên hệ  
Tăng Chánh Tín  
Email: tctin@ued.udn.vn  
Tp chí Khoa hc Xã hội, Nhân văn và Giáo dc, Tp 10, Số đặc bit (2020), 15-21 | 15  
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyn Huy Chinh  
hàn lâm ca mình gửi đi từ Trung Á. Các báo cáo này  
được xut bn lần đầu Berlin vào năm 1877. Trong  
các nghiên cu ca ông về con đường thương mại cổ đại  
xut phát từ Trung Hoa đi về phía tây châu Á, xuyên  
qua Mông C, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran,  
Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, các nước xung quanh Địa  
Trung Hải và đến tn châu Âu, dài hơn 6.400 km.  
Trong đó, cảng Tuyn Châu thuc tnh Phúc Kiến đã  
phát triển vượt xa thương cảng Qung Châu. Các  
thương nhân Ả Rp lúc by ginhn xét “Tuyền Châu  
là mt trong những thương cảng ln nht thế giới”. Tiếp  
đến, thời nhà Minh đã chú trọng đề ra nhng chính sách  
nhằm thúc đẩy và phát triển ngành thương mại biển như  
tái lp các ThBách Ti, min gim thuế khi buôn bán  
vi dân bản địa và đón tiếp các tàu buôn từ nước ngoài  
đến triu cống,…  
Thut ngca Ferdinand von Richthofen lúc by  
giờ tuy đã được biết đến nhưng chưa sử dng rng rãi,  
mãi đến khi mt trong các hc trò ca Richthofen ti  
trường Đại hc Humboldt Berlin bt đầu sdng nó  
trong các nghiên cu ca mình vào thp niên 1930.  
Người hc trò này là mt nhà thám him tên là Sven  
Hedin, người Thụy Điển. Vào năm 1936 ông xuất bn  
mt cuốn sách có nhan đề “Die Seidenstrasse” bằng  
tiếng Đức và “Sidenvägen” bằng tiếng Thụy Điển.  
Cuốn sách sau đó được dch sang mt sngôn ngữ  
khác, bao gm tiếng Anh vào năm 1938, và được biết  
đến với cái tên “The Silk Road” (Con đường Tơ lụa).  
Đến gia thế kXVI, nhng biến động ca thị trường  
Trung Quốc, đó là việc nhà Minh thc hin chính sách  
“hải cấm” đã làm cho “con đường tơ lụa trên biển” của  
Trung Quốc sau giai đoạn phát trin cc thnh đã có dấu  
hiu suy gim rõ rt và suy tàn cui thế kXVIII.  
Hi trình của con đường tơ lụa trên biển có điểm  
cc Tây bắt đầu tRoma qua các hi cng vùng Trung  
Cận Đông như: Al Tur, Fustat, Cairo... men theo bờ  
bin phía nam Ấn Độ qua Thái Lan vòng xung eo  
Malacca để vào vùng biển Thái Bình Dương.  
Và mãi đến năm 1989, khi cuốn sách ca tác giả  
Che Muqi có nhan đề Con đường tơ lụa: Quá khvà  
Hin ti được Nhà xut bn Ngoại văn Bc Kinh xut  
bn thì thut ngnày mới được chính thc sdng ở  
Trung Quc (Trung Hiếu, 2019). Vsau, gii hc thut  
quc tế đều thng nht tên gọi con đường tơ lụa để chỉ  
tuyến đường thông thương thời cổ đại xut phát từ  
Trung Quc qua Nam Á, Tây Á ni lin ti châu Âu và  
Bc Phi, bao gm tuyến đường trên bộ (Con đường tơ  
la - Silk Road) và trên biển (Con đường tơ lụa trên  
bin - Maritime Silk Road).  
Sau khi vượt qua eo Malacca, con đường chia làm  
hai ng. Mt ngmen theo vùng bin Vit Nam qua các  
cảng: Côn Đảo - Cù Lao Chàm - Hi An - vào vùng  
bin Nam Trung Hoa ri qua nam Nht Bn. Ngthứ  
hai đi vào quần đảo Indonesia, Philippines rồi ngược  
vào vùng phía nam Trung Quốc để ti nam Nht Bn -  
Cảng Hakata trên đảo Kyushu được coi là điểm tn  
cùng phía Đông của con đường này.  
3. Sự ra đời của thương cảng Hội An  
Vi những đặc điểm vị trí địa lý thun li, từ đầu  
Công nguyên, thương cảng Hội An đã tồn ti và phát  
trin trên nn tng văn hoá Sa Huỳnh. Giai đoạn ca  
nhng thế kỷ đầu sau Công nguyên, Champa tng là  
điểm đến đồng thời cũng là chốn đi về ca nhiều đoàn  
thương thuyền từ Đông Bắc Á xung, từ Đông Nam Á,  
Tây Nam Á sang. Đặc biệt các thương cảng vùng  
Champa (trong đó có thương cảng Hi An mà ngày đó  
gi là Lâm p ph) là những thương cảng sâu, nơi ẩn  
gió tt, có nguồn nước ngt dồi dào và quê hương của  
nhng sn vật như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, sa  
nhân, đồi mồi nên các thương cảng vùng Champa đã trở  
thành trm trung chuyn rất lí tưởng cho nhng tàu  
buôn nước ngoài trên con đường tơ lụa trên bin.  
2.3. Hoạt động  
Hoạt động của con đường tơ lụa trên bin gn vi  
vai trò quan trng ca Trung Quc trên tuyến đường  
này. Năm Khai nguyên thứ 2 (714) dưới thi nhà  
Đường, triều đình thiết lp ThBách Ti Qung Châu  
để qun lý nhng vic mua bán ca thuyền bè nước  
ngoài. Đến thi Tng, kthut hàng hi có sphát  
triển, đột phá mới, người Trung Quốc đã bắt đầu biết sử  
dụng la bàn để đi biển và tthời Lưỡng Tống, đồ gm  
đã trthành mt hàng buôn bán chyếu trên con đường  
thương mại bin (Nguyn & Hoàng, 2008, 128).  
Tthời nhà Nguyên, con đường tơ lụa trên bin  
không ngng phát trin, ngành thương mại bin không  
ngừng được mrng. Nghề đóng thuyền đi biển cũng  
phát triển quy mô hơn trước bi li nhun rt cao.  
Giai đoạn tthế kỉ V đến thế kỉ X, người Chăm đã  
thiết lp nên mt hthng cng th, mạng lưới giao  
16  
ISSN: 1859 - 4603, Tp chí Khoa hc Xã hội, Nhân văn và Giáo dc, Tp 10, S2 (2020), 15-21  
thông rng ln, có mi liên hcht chvi nhiu thị  
của cư dân cổ ở Hi An nói riêng và cChampa nói  
chung (Đỗ, 2016).  
trường, trung tâm nguyên liu, luân chuyn hàng hoá  
(V. K. Nguyn & Trn, 2019,138-147). Di bbin  
miền Trung làm cơ sở, coi tiềm năng kinh tế bin là thế  
mnh, các cộng đồng người thuộc vương quốc Champa  
đã thiết lập “một hthống thương cảng giúp cho vic  
trao đổi thương mại vi các quc gia bên ngoài. Các  
thương cảng này đã đóng mt vai trò quan trng trong  
vic hình thành con đường tơ lụa trên bin vào thế kIX  
- X và phn thnh trong các thế ksau(Hà, 2002, 346).  
4. Hội An với con đường tơ lụa trên biển (từ  
đầu thế kỉ XVI đến cuối thế kXVIII)  
XQuảng dưới thi các chúa Nguyn trong nhng  
thế kXVI - XVIII là một vùng đất trù phú nht ca  
Đàng Trong với đô thị thương cảng Hi An ni tiếng  
mrng ca giao thương với thế gii bên ngoài. Sau  
mt thời gian suy thoái kéo dài đến 150 năm từ năm  
1306 - 1558, tri qua các triều đại phong kiến như nhà  
Trn, nhà H, nhà Lê, cng thHi An mới được phc  
hi trlại dưới thi chúa Tiên Nguyn Hoàng (1558 -  
1613) nhchính sách mca buôn bán với nước ngoài,  
khôi phc hoạt động ngoại thương trên thương cảng Hi  
An và nhm mục đích tăng cường tim lc kinh tế - xã  
hi và quân scủa Đàng Trong để đối đầu vi chính  
quyn chúa Trnh ở Đàng Ngoài.  
Giai đoạn tthế kX trvsau nht là trong kỷ  
nguyên thương mại sm khu vực Đông Nam Á, thương  
cng Hi An và hthống các thương cảng ca vùng  
Amaravati (bao gm cả thương cảng vùng ca sông Hàn  
- Đà Nẵng, bến cng trên đảo Cù Lao Chàm và đảo Lý  
Sơn, cảng Cổ Lũy vùng cửa sông Trà Khúc Qung  
Ngãi) đã dự nhp mt cách tích cc vào mạng lưới giao  
thông bin ca khu vực và được ghi nhn là những điểm  
đến thường xuyên của các đoàn thuyền buôn và thương  
nhân Trung Hoa, Arab và Đông Nam Á.  
Nhmca và quan hbuôn bán vi người nước  
ngoài mà thương cảng Hi An đã trở thành điểm  
dng chân và trm trung chuyn ca nhiu tuyến hi  
thương quc tế, bên cạnh đó là hoạt động trao đổi  
mua bán hàng hoá, cung cấp nước ngt, than ci,  
lương thực. Cristophoro Borri tng nhận định: “Châm  
ngôn của người Đàng Trong là không sợ st bt cứ  
nước nào trên thế giới. Hoàn toàn trái ngược vi vua  
Trung Quc là sbt cứ ai nên đóng chặt ca không  
cho người nước ngoài vào, không cho phép buôn bán  
ở nước mình” (Borri, 2014, 93). Vì lẽ đó, Hội An đã  
dphn và có những đóng góp quan trọng trên con  
đường thương mại trên bin từ đầu thế kỉ XVI đến  
cui thế kXVIII.  
Giai đoạn tthế kỉ X đến thế kXIII có thể được  
xem là giai đoạn phát trin thịnh vượng nht ca nagara  
Amaravati cvmt chính tr, kinh tế và văn hoá nhờ  
vào sphát trin mnh mcủa giao thương biển quc tế  
vi vai trò quan trng ca cng thHi An. Các tư liệu  
ccủa văn khắc Champa đã cung cấp những tư liệu  
quan trng cho thy shi nhp tích cc, chủ động và  
liên tc ca Champa trong vic dnhp vào mạng lưới  
giao thương quốc tế. Ngoài ra, da trên những tư liệu  
kho chc vvic tìm thấy được đồ gm men ngc  
ca lò Vit Châu (thế kỷ X), đồ sứ hoa lam, đồ gm  
men ngc Long Tuyền, đồ sứ hoa lam Đồng An (thế kỉ  
XII XIII) và đồ strắng Đức Hóa (thế kXIII) ở địa  
điểm Trng Si (Cm Hà, Hội An), Bàu Đá (Cẩm  
Thanh, Hi An) hay giếng Champa cũng đã được tìm  
thy xóm Thanh Chiêm và xóm An Bàng (Cm Hà,  
Hi An).  
4.1. Điểm dừng chân, trao đổi mua bán hàng hoá  
Dưới tác động ca hot động thương mại thế gii  
và các nước trong khu vực, đồng thi, do yêu cu xây  
dng tim lc chính tr- kinh tế - quân sln mạnh để  
đối trng vi chính quyn chúa Trnh ở Đàng Ngoài,  
chúa Nguyễn đã thực thi chính sách ngoại thương mở  
cửa đối vi bên ngoài. Nhvây, hoạt động thương  
nghip ở Đàng Trong nói chung và Hi An nói riêng  
đã phát triển phn thnh tthế kXVI. Ngoài ra, Hi  
An còn hi tnhững điều kiện địa lý thun lợi để trở  
thành một thương cảng sm ut. Vi vị trí địa lý nm  
bên cnh sông Thu Bn, lin ngay vi cửa Đại, phía  
trước được che chn bi Cù Lao Chàm, các thuyn bè  
Tnhững tư liệu kho chc trên, có ththy rng,  
trước khi trthành một thương cảng ni tiếng của Đàng  
Trong thế kXVI XVIII thì Hội An đã từng là mt  
trung tâm kinh tế có tm quan trng bc nht của cư dân  
cChampa. Shin din phong phú ca các hin vt  
kho chọc, đặc bit là các hin vt gm sứ thương mại  
đã góp phần quan trng vào vic phc dng li lch sử  
17  
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyn Huy Chinh  
tngoài bin vào có thể đi qua cửa Đại hay đi vào từ  
phía ca Hàn (vịnh Đà Nẵng), theo sông Cổ Cò đến  
Hi An (Đ. A. S. Trần, 2000, 51-64).  
sinh sống. Đầu tiên phi kể đến các thương nhân Hoa  
Kiu và Nht Bản. Theo sau là người Bồ Đào Nha, rồi  
ngưi Hà Lan lần lượt tìm đến, lập các thương điếm để  
buôn bán lâu dài trên đất Hi An. Trong s37 hồ sơ về  
mi quan hgiữa công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) vi  
các chúa Nguyn trong thế kXVII - XVIII do TS.  
Nguyễn Văn Bình và TS. John Kleinen (ĐH Leiden -  
ĐH Amsterdam, Hà Lan) công bố ti Hi tho quc tế  
vHi An (1990) thì có đến 19 văn kiện liên quan trc  
tiếp đến việc giao lưu thương mại ca VOC vi các  
cng thmiền Trung, trong đó chủ yếu là thương cảng  
Hi An (Trương & Kleinen, 1991, 63-67).  
Theo GS Trn Quốc Vượng, “Hội An là sphc  
hưng ca cng thị Champapura, nơi ngã tư đường nước  
(sông CCò-Đế Võng-Trường Giang và sông ChCi-  
Sài Thị)” (Nhiu tác gi, 2004, 88).  
Nhắc đến vai trò trung tâm mua bán, trao đổi hàng  
hóa ca Hội An trong giai đoạn này, không thkhông  
nhắc đến vai trò ca tin cng Cù Lao Chàm. Bi l, từ  
bui khi nguyên ca các hoạt động thương mại Đông -  
Tây khi vc biển Đông thì vận mnh ca Hi An và  
Cù Lao Chàm đã gắn cht với nhau. Trong thư tịch cổ Ả  
Rập đã ghi chép: “Tàu từ Hind (Ấn Độ) đến Sanf  
(Champa) mt 10 ngày. Ở đây có nước ngt và trm  
hương xut khu... Hdng lấy nước ngt Sanf-  
Fulaw, Cham Pulaw (Cù Lao Chàm) rồi định hướng đi  
đến Sin (Trung Quốc)” (Hoàng, 2007, 121).  
Còn đối với thương nhân Nhật Bn, trong s354  
Shuinjo (Châu n trng) mà Mc phTokugawa cp  
cho các thương thuyền Nht Bản ra nước ngoài buôn  
bán trong khong thi gian 1604 - 1634, thì có 334  
Shuinjo được cấp để đi đến 19 thương cảng thuc các  
nước Đông Nam Á, chiếm 93,5% trong đó Hội An có  
86 thuyn, chiếm tl66% (Vũ, 1991, 206-207).  
Nhng sliu dn chứng trên đây đã chứng tỏ thương  
cng Hi An có sc thu hút lớn đối vi các thuyn  
buôn nước ngoài.  
Vào giai đoạn từ đầu thế kỉ XVI đến cui thế kỉ  
XVIII, thương nhân các nước phương Tây như Hà Lan,  
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp… các nước  
Đông Nam Á như Mã Lai, Indonesia, Thái Lan,  
Singapore,…và các nước Đông Bắc Á như Trung Quc,  
Nht Bản hàng năm đã dừng chân ti Hội An để nghỉ  
chân hay trao đổi hàng hoá trên các thương thuyền. Vi  
điều kin thun li ca mình, Hi An trở thành nơi đô  
hi sm ut bc nht ca xứ Đàng Trong.  
Mt trong nhng mặt hàng được trao đổi, mua bán  
trt sm tại thương cảng Đại Chiêm - Hi An là trm  
hương và nô lệ. “giá một đứa bé là ba lng vàng hay trả  
bng gỗ thơm tương đương với ba lạng vàng” (Trn &  
Vũ, 1991, 132). Trầm hương của Quảng Nam đã thu hút  
mt số lượng đông đảo các thương nhân nước ngoài ti  
tìm mua, nht là từ các nước Trung Á và Đông Á.  
Người Rp, Trung Hoa và Nht Bản đều rất ưa  
chung món hàng này. Ngoài hai ngun hàng xut khu  
chính trên, ở đây “còn xuất khu vàng, ngà voi, sng tê,  
đồi mi, tơ lụa, htiêu, mật ong, đường mía, các loi gỗ  
quý, các loại đậu, chim và thú vt hiếm lạ…và những  
loi lâm thsản khác” (Trần & Vũ, 1991, 133).  
Trong tác phẩm “Xứ Đàng Trong 1621”,  
Cristophoro Borri đã ghi lại cảnh quan nơi đây với mt  
ngòi bút đầy cm xúc: “Còn về hi cng thì tht llùng  
chỉ trong hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm  
được hơn 60 cảng, tt cả đều rt thun tiện để cp bến  
và lên đất lin. Là vì ven bcó nhiu nhánh bin ln,  
hi cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoi quốc đều ti  
và cũng là nơi có hội chdanh tiếng chính là hi cng  
thuc tnh Quảng Nam. Người ta cp bến bng hai ca  
bin, mt gi là Turon (Đà Nẵng) và mt gi là  
Puluciambello (Cửa Đại, Hi An). Các ca bin cách  
nhau chng 3 hay 4 dm, kế đó biển chia làm hai nhánh  
đi sâu vào đất lin chng by hay tám dm làm thành  
như hai con sông luôn tách rời nhau để ri cùng gp  
nhau và đổ vào mt con sông ln. Tàu bè thai phía ti  
cũng đi vào con sông này(Borri, 2014, 91).  
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phbiên tp  
lc, thuyền buôn nước ngoài đến Hi An mang theo các  
mt hàng may mc, vi, giấy, đồ đồng, đồ g, sành s,  
đồ thcúng, tp hoá, thc phẩm, dược phẩm. Trong đó,  
đồ sành schiếm tlệ 4,64%, đúng hàng thứ tư trong số  
các mt hàng thcông mnghnhp khu vào Hi An  
(Lê, 1977, 357-358).  
Vhàng xut khu, Hi An xuất ra nước ngoài các  
mt hàng gỗ, đặc sn quý hiếm (như sừng tê, ngà voi,  
trầm hương, yến sào), hi sn, kim loi, nông sn thc  
Nhhi tnhng yếu tố đó mà Hội An đã trở thành  
nơi thu hút các thương nhân các nước đến buôn bán và  
18  
ISSN: 1859 - 4603, Tp chí Khoa hc Xã hội, Nhân văn và Giáo dc, Tp 10, S2 (2020), 15-21  
phm, hàng thcông, dược phm. Trong nhng mt kể  
“Hòn Tàu, Hòn Kẽm, Hòn Vung  
Ba hòm xúm lại đỡ vùng Qung Nam  
Non sông ai dng ai làm  
hàng kể trên thì đồ gm schiếm mt tlln. Nhng  
tư liệu kho chc da trên kết qukhai qut Hi An  
đã chứng minh cho điều đó. Trong công cuộc khai qut  
vào năm 1989, đã phát hiện mt số lượng khá lớn đồ  
gm Trung Hoa ở các địa điểm Hu Xá (Thanh Hà, Hi  
An), chùa Âm Bổn (Sơn Phong, Hội An). Tiếp theo đó  
là sphát hiện các đồ gm thuc dòng gm Hizen (Nht  
Bn) chng minh cho hoạt động giao thương của Hi  
An rt phát trin.  
Sông Sài Giang lượn khúc, Cù Lao Chàm xanh um”  
Quảng Nam có núi Ngũ Hành  
Có sông chCi, có thành Đồng Dương”  
Địa danh chúng tôi mun nhc ti ở đây chính là  
chCi (Sài Th) và sông Sài Th(Sài ThGiang). Sài  
ThGiang là tên ca mt con sông chy qua ChCi  
sm ut ri chy qua nhng bến nước Câu Lâu, Vn  
Đông… kéo dài mãi tới Gò Sài của Điện Phương (Điện  
Bàn) ngày nay. Nhiu ý kiến đồng ý sông ChCi  
chính là một đoạn sông Thu Bồn đi qua cái chợ Ci  
(thuộc thôn Đông Khương, xã Điện Phương nay), nơi  
tp trung thuyền bè đông đúc để được tiếp ci - nhiên  
liu chất đốt cn thiết, nước ngt, lâm hi sn cho  
nhng chuyến đi xa.  
Bên cnh các hoạt động với các thương nhân người  
Hoa, người Nht thì thi knày, hoạt động thương mại  
với các thương nhân phương Tây cũng rất phát trin.  
Tuy nhiên, trong chính sách giao thương với thương  
nhân phương Tây, chính quyền chúa Nguyn vn luôn  
lo smối nguy cơ tiềm n van ninh quc gia, do vy,  
chính quyn chúa Nguyn luôn ban hành lnh cm,  
không cho thuyn hoặc thương nhân phương Tây vào để  
buôn bán.  
Hc giNguyễn Văn Xuân trong bài viết “Từ Sài  
Thị đến Sài Gòn” tng nhận định: “Từ bến cng quc tế  
này, các tàu bè đều cần đến củi và nước sạch để gii  
quyết sinh hot khi li hay tiếp tc hành trình. Ci  
nước, đặc bit ci là vấn đề cc kquan trng cho tàu  
bè đô thị cũng như cho dân địa phương. Vì thế phi lp  
mt chln chuyên vic buôn ci bao gm các thợ đốn  
ci, các thuyn bè và lái buôn cho toàn nhim vụ này”  
(V. X. Nguyn, 2010).  
Tsau thế kXVII, hoạt động buôn bán của thương  
nhân phương Tây có bước khi sắc hơn bằng vic các  
thương thuyền phương Tây đã đến Hi An buôn bán  
nhiều hơn. Điển hình như các thương nhân Bồ Đào Nha  
đã tiến hành bán vũ khí và mua các mặt hàng tHi An  
như tơ lụa, htiêu, gquý, trầm hương,…hay thương  
nhân Hà Lan tiến hành vic bán ra nhng sn phm bc  
nén, chì, vi, thutinh và mua li các mặt hàng như  
vàng, tơ lụa, đường,… Tuy nhiên, hoạt đông buôn bán  
của thương nhân phương Tây sau ba thế kphn thnh  
đến khong cui thế kỉ XVIII đã suy tàn do nhiều  
nguyên nhân.  
ChCi thi này chng khác gì mt tht, tp np  
kẻ bán người mua, cảnh “trên bến dưới thuyền” dập dìu  
thuyn bè qua li. Củi được khai thác từ trên thượng  
nguồn để cung cp cho toàn bvùng dinh trn, các lò  
gch và gốm nung Thanh Hà, lò đúc đồng Phước Kiu  
và thuyền bè trong nước và tàu buôn ngoi quc tcng  
Hi An, Trà Nhiêu lên. Đon sông tcu Câu Lâu ngày  
nay kéo dài mãi xung khong 4 - 5 cây scó Gò Sài  
(gn chLa Nghi) là mt gò cao chất đầy ci, mui,  
nước mắm để dtiếp ng cho ghe thuyn. Sông Chợ  
Củi còn là nơi neo đậu tàu thuyền, đóng quân của đại  
thy quân chúa Nguyn.  
4.2. Cung cấp nước ngọt, than củi, lương thực  
Bên cnh việc trao đổi, mua bán hàng hóa; mt  
trong nhng vai trò không kém phn quan trng ca Hi  
An trong giai đoạn này chính là cung cấp nước ngt,  
than củi cũng như nhu yếu phẩm cho các thương thuyền  
ngoi quc. Hi An (Hoài phố) ngày xưa có phm vi  
khá rng, không chnm trong phm vi phcổ như bây  
gimà có thkhông gian ca nó còn mrng rt nhiu  
về phía đông (Cù Lao Chàm) và phía Tây (Sài Thị -  
Thanh Chiêm).  
Như vậy, có ththấy, giai đoạn thế kXVI-thế kỉ  
XVIII, với tư cách là một điểm dng quan trng trên  
con đường tơ lụa trên bin, Hội An đã là nơi các thuyền  
buôn quc tế cp bến để bổ sung nước ngt, thc phm  
và nhiên liu than ci bên cạnh trao đổi, mua bán các  
mt hàng khác.  
Nhc ti chức năng cung cấp than ci, chất đốt,  
nước ngt ca cng thHi An thi knày, chúng ta  
không thkhông nhắc đến những địa danh đã đi vào ca  
dao xQung:  
19  
Tăng Chánh Tín, Phan Nguyn Huy Chinh  
4.3. Cầu nối giao lưu văn hoá  
Hà, V. T. (2002). Kho chc Vit Nam, tp 3. Khoa  
hc Xã hi.  
Hoàng, A. T. (2007). Cù Lao Chàm và hoạt động  
thương mi biển Đông thời vương quốc  
Champa. Kyếu Cù Lao Chàm - Vthế, tim  
năng và triển vng.  
Trong sut ba thế k(XVI - XVIII), Hội An đã thực  
strthành cu nối cũng như nơi hội tsự giao lưu văn  
hóa Đông - Tây. Scó mt của các thương nhân Trung  
Quc, Nht Bn, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đã để li  
nhng du ấn đậm nét ca sự giao lưu văn hóa. Sự giao  
lưu ấy được thhin rõ nét trong kiến trúc Hi An. Đó  
là nhng ngôi nhà cmang phong cách Vit - Hoa;  
nhng hội quán mà đặc bit là chùa Cu (Lai Vin  
Kiều) mang đậm phong cách Nht - Vit - Hoa.  
Lê, Q. Đ. (1977). Phbiên tp lc, tp 1. Khoa hc  
Xã hi.  
Nguyn, M. M., & Hoàng, V. V. (2008). Con đường  
Tơ lụa: Quá khứ và tương lai. Giáo dc.  
Nguyn, V. K., & Trn, V. M. (2019). Cù Lao Chàm  
trong không gian bin Champa thế kXI - XV:  
Tiềm năng, vị thế và hoạt động giao thương quốc  
tế. Kyếu Hi tho Khoa học Cù Lao Chàm đa  
dng tài nguyên thiên nhiên - văn hoá và phát  
trin bn vng, Qung Nam.  
Vai trò giao lưu văn hóa ca Hội An còn được thể  
hin qua sự đa dạng của đời sống tôn giáo tín ngưỡng  
vi scó mt của các tôn giáo như Phật giáo, Lão Giáo,  
Nho giáo, Công giáo… và các tín ngưỡng thcúng tổ  
tiên, thtngh, thThiên hu, thQuan Công, thBà  
M, thBc đế Trần vũ…  
Nguyn, V. X. (2010). TSài Thị đến Sài Gòn.  
Nhiu tác gi. (2004). Duyên hi min Trung - Đất và  
người. Tng hp Thành phHChí Minh.  
Trần, Đ. A. S. (2000). Các thương cảng vùng Trung  
Trung bViệt Nam và con đường gm sứ ở vùng  
Tây Nam Thái Bình Dương trong thời đại thương  
mi (thế kXVI - XVIII). Tp chí Thông tin  
Khoa hc và Công ngh, 4(30), 51-64.  
Hội An còn là trung tâm giao lưu ngôn ngữ quc tế  
vi nguồn tư liệu phong phú được tìm thy tcác ngôn  
ngHán-Nôm đến Nht Bn, Pháp và cchPhn c.  
Đồng thi, không thphnhn vai trò quan trng ca  
Hi An với tư cách là một trong nhng chiếc nôi hình  
thành chQuc ngvào nửa đầu thế kXVII. Sgiao  
lưu văn hóa cũng làm nên tính cách, phong cách ca  
ngưi Hi An; những con người hin hòa, hiếu khách và  
ci m.  
Trần, K. P., & Vũ, H. M. (1991). Cửa Đại Chiêm thi  
vương quốc Champa thế kIV - XV. In Đô thị  
cHi An. Khoa hc xã hi.  
5. Kết luận  
Từ đầu thế kỉ XVI đến cui thế kXVIII, hoạt động  
thương mại trên con đường tơ lụa tên biển đã ghi du n  
ca Hi An với tư cách là một điểm dng chân, trm  
trung chuyn; trung tâm mua bán hàng hải cũng như  
cung cp nhu yếu phm, nhiên liệu cho các thương nhân  
Đông - Tây. Nghiên cu vHội An, đặt trong bi cnh  
và hoạt động của con đường tơ lụa thc slà mt vn  
đề nghiên cu hp dn và còn nhiều dư địa cho các nhà  
nghiên cứu trong và ngoài nước.  
Trung Hiếu. (2019, December 26). Danh xưng “Con  
đường Tơ lụa” vốn dĩ không phi ca Trung  
Quc?. Cơ quan ngôn luận ca Hip hi Doanh  
nghip Khoa hc và Công nghVit Nam.  
vn.vn/kham-pha/danh-xung-con-duong-to-lua-  
von-di-khong-phai-cua-trung-  
quoc/20191226033237736  
Trương, V. B., & Kleinen, J. (1991). Tư liệu VOC về  
mi quan hgiữa công ty Đông Ấn Hà Lan vi  
các chúa Nguyn trong thế kXVII - XVIII. Đô  
thcHi An. Khoa hc xã hi.  
Vũ, M. G. (1991). Người Nht, phNht và di tích  
Nht Bn Hi An. Đô thị cHi An. Khoa hc  
xã hi.  
Tài liu tham kho  
Borri, C. (2014). Xứ Đàng Trong năm 1621. Tng hp  
Thành phHChí Minh.  
Đỗ, T. G. (2016). Hi An - Champa trong knguyên  
thương mại sm của Đông Nam Á (900 - 1300).  
Kyếu Hi tho Khoa hc Dinh trn Thanh  
Chiêm và chQuc ng, Qung Nam.  
20  
ISSN: 1859 - 4603, Tp chí Khoa hc Xã hội, Nhân văn và Giáo dc, Tp 10, S2 (2020), 15-21  
THE ROLE OF HOI AN TO THE MARITIME SILK ROAD  
(FROM THE FIRST HALF OF 16TH CENTURY TO THE SECOND HALF OF 18TH CENTURY)  
Tang Chanh Tin, Phan Nguyen Huy Chinh  
The University of Danang - University of Science and Education  
Abstract: The Maritime Silk Road is considered the beginning of all international maritime trade routes, not only in terms of  
trade; the Maritime Silk Road is also the foundation for human discoveries and understanding about geography, nature, politics and  
society of many parts of the world. Thanks to its significantly geopolitical and geo-cultural position; from a very early age, Hoi An  
trading port (Vietnam) has participated and played an important role on this arterial route. This article will focus on clarifying the birth  
as well as the role of Hoi An to the Maritime Silk Road from) early 16th century to the end of 18th century.  
Key words: The Silk Road; Role; Trade; Maritime trade; Hoi An.  
21  
pdf 7 trang yennguyen 21/04/2022 1740
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của Hội An với con đường tơ lụa trên biển (Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_hoi_an_voi_con_duong_to_lua_tren_bien_tu_dau_the.pdf