Du lịch sinh thái cộng đồng Na Hang trong bối cảnh hội nhập toàn cầu

KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
DU LỊCH SINH THÁI CỘNG ĐỒNG NA HANG  
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP TOÀN CẦU  
Phạm Thị Cẩm Vâna  
Hoàng Thị Lệ Thảob  
Viện Dân tộc học  
ô hình du lịch sinh thái cộng đồng đang ngày càng phổ  
biến bởi nó hướng đến việc liên kết giữa khả năng khai  
M
thác tài nguyên hợp lý, bền vững và trách nhiệm bảo vệ môi trường  
tự nhiên của cộng đồng địa phương. Đó cũng là sự hài hòa giữa  
lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, không chỉ quan  
tâm bảo vệ môi trường tự nhiên, du lịch sinh thái cộng đồng ở một  
số địa phương đang được tổ chức xây dựng và phát triển với mục  
tiêu gìn giữ và phát huy môi trường văn hóa. Mỗi địa phương có  
đặc thù, thế mạnh riêng trong phát triển du lịch sinh thái cộng  
đồng, không thể áp đặt mô hình chung. Bài viết này phân tích, làm  
rõ tiềm năng và điều kiện thực tế của huyện Na Hang (tỉnh Tuyên  
Quang) để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng hiệu quả trong  
bối cảnh hội nhập toàn cầu.  
Ngày nhận bài:  
10/8/2020  
Ngày phản biện: 09/11/2020  
Ngày tác giả sửa: 12/11/2020  
Ngày duyệt đăng: 13/11/2020  
Ngày phát hành: 20/11/2020  
DOI:  
Từ khóa: Du lịch sinh thái; Du lịch cộng đồng; Hội nhập;  
Toàn cầu; Văn hóa.  
1. Đặt vấn đề  
Na Hang là huyện vùng cao của tỉnh Tuyên  
Quang, cách trung tâm thành phố Tuyên Quang  
111km về phía Bắc. Nơi đây có nhiều tài nguyên  
sinh thái tự nhiên và nhân văn cho phát triển du  
lịch. Huyện nằm trên vòng cung sông Gâm, nên có  
địa hình đa dạng, núi đất và núi đá xen kẽ tạo thành  
nhiều thung lũng, có khu bảo tồn thiên nhiên Na  
Hang, hồ Na Hang, ruộng bậc thang Hồng Thái…  
Đây còn là nơi tụ cư lâu đời của nhiều dân tộc như:  
Tày, Dao, Kinh, Mông, Hoa, Sán Chay, Nùng…  
(Hòa & cộng sự, 2006a) với hệ thống văn hoá vật  
chất và tinh thần phong phú. Có thể nói, mảnh đất  
này đã hội tụ cả tài nguyên thiên nhiên và văn hóa  
đa sắc tộc để phát triển du lịch cộng đồng. Về giao  
thông, Na Hang có tuyến đường chính gồm: Quốc  
lộ 2B nối Tuyên Quang với Hà Giang, Cao Bằng;  
quốc lộ 279 hướng từ Vị Xuyên qua thị trấn Na  
Hang đến Năng Khả sang huyện Chiêm Hóa với  
chiều dài 41km; đường tỉnh lộ 176 với chiều dài  
48,5km; đường huyện lộ dài 142km. Na Hang có  
tuyến đường sông với tổng chiều dài 126km với các  
tuyến chính: Na Hang - Bột Sào; Na Hang - Thủy  
Loa - Bắc Mê; Na Hang - Đà Vị - Yên Hoa. Điều  
này tạo điều kiện thuận lợi cho du khách có thể đến  
tham gia các hoạt động du lịch ở Na Hang từ nhiều  
hướng và nhiều địa phương khác nhau. Với điều  
kiện cơ sở hạ tầng như vậy, Na Hang có điều kiện  
cơ bản để thu hút đầu tư, chú trọng phát triển du  
lịch.  
Theo Luật Du lịch Việt Nam ban hành ngày  
19/06/2017, du lịch là các hoạt động có liên quan  
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú  
thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm  
liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ  
dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du  
lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác. Du  
lịch sinh thái (DLST) là loại hình du lịch dựa vào  
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương,  
có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo  
dục về bảo vệ môi trường. Du lịch cộng đồng là loại  
hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị  
văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng quản lý, tổ  
chức khai thác và hưởng lợi.  
Có thể thấy, hoạt động DLST cộng đồng là loại  
hình du lịch phát triển dựa trên nguồn tài nguyên  
sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn, có sự tham  
gia của cộng đồng địa phương và do cộng đồng quản  
lý (Vân, 2018). Như vậy, để có thể phát triển DLST  
cộng đồng, địa phương cần hội tụ các điều kiện về  
tài nguyên cho phát triển du lịch. Tài nguyên du  
lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các  
giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du  
lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu  
cầu du lịch (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ  
nghĩa Việt Nam, 2017). Tài nguyên du lịch bao gồm  
tài nguyên du lịch tự nhiên (vị trí địa lý, địa hình,  
các cảnh quan thiên nhiên độc đáo…) và tài nguyên  
du lịch văn hóa (phương thức canh tác truyền thống,  
lễ hội, ẩm thực…).  
2. Tổng quan nghiên cứu  
Du lịch sinh thái hình thành từ nửa cuối thập  
146  
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
kỷ 70, thế kỷ 19, nhưng phải đến năm 1983, thuật đó xây dựng được cơ sở khoa học và góp phần đưa  
ngữ về DLST mới được Hector Ceballos-Lascurain ra các giải pháp phát triển hiệu quả.  
(1983) (Vân, 2018) đưa ra lần đầu tiên. Cho đến  
đầu những năm 90 của thế kỷ trước, những nghiên  
cứu về DLST dành sự quan tâm nhiều đến vai trò  
của DLST, đó là hoạt động du lịch có liên quan đến  
thiên nhiên và bảo vệ môi trường (Taylor, Boo,  
E. (1990), Kreg lindberg and Donald E. Hawkins  
(1990). Cơ sở chính để DLST có thể hình thành và  
phát triển là dựa vào những giá trị tự nhiên và văn  
hóa Bucley RC (1991).  
Cho tới những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ  
trước, những nghiên cứu về DLST của Honey, M.  
(1999), Simpson and Wall (1999) còn đề cập thêm  
vai trò của con người trong hoạt động DLST, vị trí  
của cộng đồng ngày càng được khẳng định. DLST  
phát triển ở mức cao, đó là “DLST dựa vào cộng  
đồng”. Nghiên cứu về vấn đề này được các học giả  
quan tâm dưới những góc độ khác nhau: Du lịch  
3. Phương pháp nghiên cứu  
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát tại huyện Na  
Hang vào đầu năm 2018. Việc quan sát cảnh quan,  
các hoạt động tổ chức du lịch và trao đổi với những  
người làm du lịch ở đây đã mang lại những ghi  
chép và mô tả, tìm hiểu thực tế tại địa phương. Bên  
cạnh phương pháp điền dã thực địa, nhóm nghiên  
cứu còn thực hiện phương pháp tổng hợp tài liệu  
bao gồm các công trình nghiên cứu về DLST, du  
lịch cộng đồng và các báo cáo của chính quyền, cơ  
quan quản lý. Đây là những số liệu có ý nghĩa tham  
khảo và đối chiếu đối với những thông tin đã có từ  
phương pháp điền dã thực địa.  
4. Kết quả nghiên cứu  
4.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên  
Na Hang có tổng diện tích tự nhiên là 1.461km2  
cộng đồng hay Du lịch dựa vào cộng đồng, DLST (Tổng cục thống kê, 2019). Phía Bắc giáp huyện  
dựa vào cộng đồng, DLST cộng đồng.  
Bắc Mê (tỉnh Hà Giang) và Bảo Lạc (tỉnh Cao  
Bằng); phía Đông giáp huyện Chợ Đồn, Ba Bể (tỉnh  
Bắc Kạn); phía Tây giáp huyện Bắc Quang (tỉnh Hà  
Giang). Dạng địa hình chính là đồi núi cao với độ  
chia cắt mạnh, nhiều sườn dốc và khe sâu. Điểm cao  
nhất trong huyện là 1.060m so với mực nước biển  
và khu vực thấp nhất là 50m so với mực nước biển.  
Na Hang nằm trong vành đai nhiệt đới, khí hậu  
nóng ẩm, nhiệt độ trung bình năm là 200C, lượng  
mưa hàng năm đạt 1.800mm/năm (Lê Bá Thảo,  
1998). Na Hang có 81.027,94ha rừng tự nhiên và  
4.637,44ha rừng trồng, trong đó có 34.849ha rừng  
phòng hộ. Rừng ở Nà Hang có nhiều loại gỗ dược  
thảo và động vật quý hiếm. Với những giá trị nổi  
bật về cảnh quan, đa dạng sinh học. Năm 1994,  
UBND tỉnh Tuyên Quang ra quyết định thành lập  
Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang với diện tích trên  
33.000ha. Năm 2011, huyện Lâm Bình được thành  
lập, bao gồm tách từ 5 xã của huyện Na Hang và 3  
xã của huyện Chiêm Hoá. Vì vậy, xuất hiện tên Khu  
bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình với diện  
tích được điều chỉnh lên 41.061ha, trong đó gồm  
33.061ha đất rừng và 8.000ha mặt nước vùng lòng  
hồ. Về thủy văn, địa phận Na Hang có lưu vực của  
hai sông lớn là sông Gâm và sông Năng. Điều này  
tạo sự thuận lợi trong giao thông đường thủy cũng  
như tạo các tuyến du lịch sông nước ở Na Hang.  
Tại Việt Nam, DLST bắt đầu hình thành và phát  
triển từ năm 1990 bằng sự kiện “Năm du lịch Việt  
Nam”. Sau đó, nhiều thông tư, nghị định, văn bản  
liên quan đến quy hoạch và phát triển du lịch trong  
đó có DLST đã được Nhà nước ban hành. Song song  
với đó, nghiên cứu về DLST được thực hiện và công  
bố ở cả phương diện lý thuyết và thực tiễn (Phạm  
Trung Lương (2002), Lê Huy Bá (2009), Nguyễn  
Đình Hòe (2005), Thế Đạt (2003)... Dựa trên nền  
tảng của DLST, du lịch cộng đồng được hình thành  
và phát triển. Du lịch cộng đồng nhấn mạnh và đề  
cao vai trò của cộng đồng trong mọi hoạt động lên  
kế hoạch, thực thi kế hoạch và cung cấp dịch vụ  
du lịch (Võ Quế (2006), Bùi Thị Hải Yến (2008),  
Nguyễn Thị Hải (2004), Trần Đức Thanh (chủ biên,  
2014). Du lịch cộng đồng cũng đã khẳng định vai  
trò trong việc nâng cao thu nhập cho cộng đồng tại  
một số địa phương vùng núi, vùng sâu vùng xa. Với  
ý nghĩa đó, du lịch cộng đồng đã chính thức được  
đưa vào Luật Du lịch (2017): “Du lịch cộng đồng  
là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các  
giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư  
quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi”. Đối với  
vùng đất Na Hang, Nguyễn Đức Khoa (2015) đánh  
giá đây là nơi có tiềm năng phát triển cả du lịch  
tự nhiên và du lịch sinh nhân văn. Tác giả đưa ra  
những nhận định cơ bản về các tiềm năng cũng như  
Những đặc trưng tự nhiên như trên đã tạo cho  
định hướng cho việc phát triển du lịch cộng đồng ở khu vực Nà Hang hệ thống thắng cảnh nổi bật, đã  
Na Hang. Tuy nhiên, bài viết chưa có các số liệu để và đang rất thu hút khách du lịch. Tiêu biểu có thể  
có thể phân tích cụ thể mức độ tiềm năng, chưa mô kể đến:  
tả thực trạng du lịch ở Na Hang để có các giải pháp  
đề xuất gắn với thực tế. Có thể nói rằng, nghiên cứu  
về du lịch cộng đồng ở huyện Na Hang vẫn đang  
là khoảng trống cần được bổ khuyết để làm rõ hơn  
những điều kiện thực tế, những hoạt động đã có, từ  
Thác Mơ (tên gọi khác là thác Pác Ban): Nằm  
giữa khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang. Thác có  
chiều dài khoảng 2km, tầng cao nhất là 20m, nhìn  
từ xa như một dải lụa trắng mềm mại chảy xuống  
hồ sinh Thái Na Hang. Từ Thác Mơ, du khách có  
Volume 9, Issue 4  
147  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thị trấn Na Hang với là “vú của trời” hay còn gọi là Núi Voi, có dáng hình  
99 ngọn núi trùng điệp bao quanh. Thác đẹp nhất là chú voi đứng bên nậm rượu. Đây là ngọn núi cao  
vào mùa hè và đầu thu bởi lúc này là mùa nưa nên nhất huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, sừng sững,  
thác lúc nào cũng nhiều nước. Thác Mơ chính là uy nghiêm, thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây vờn bên  
điểm đầu kết nối các tuyến du lịch giữa huyện Na hồ thủy điện Tuyên Quang. Dưới chân núi còn có  
Hang với huyện Bắc Mê của tỉnh Hà Giang và danh ngôi đền được xây dựng từ đời nhà Trần, càng làm  
thắng quốc gia Ba Bể của tỉnh Bắc Kạn.  
cho núi Pắc Tạ thêm linh thiêng huyền bí, nên còn  
gọi là “Tạ sơn huyền sử”. Núi Pắc Tạ là điểm du lịch  
hấp dẫn cho du khách, có thể du thuyền trên lòng hồ  
tham quan công trình thủy điện, vào đền thắp hương  
cầu nguyện hay trải nghiệm DLST, du lịch tâm linh  
nhiều ngày giữa những cánh rừng nguyên sinh  
Hồ Na Hang: là một trong những hồ nước ngọt  
lớn nhất miền Bắc hiện nay. Lòng hồ là nơi hội tụ  
dòng chảy của sông Gâm và sông Năng. Nơi đây  
được ví như “Vịnh Hạ Long giữa đại ngàn”. Với  
tổng diện tích mặt nước hồ là 8.000ha. Mặt hồ như  
một tấm gương lớn phản chiếu cảnh đẹp kỳ vĩ của  
4.2. Tiềm năng du lịch nhân văn của huyện  
99 ngọn núi trùng điệp bao bọc lòng hồ. Đến du lịch Na Hang  
Hồ Na Hang, thuyền sẽ đưa du khách lướt nhẹ trên  
mặt hồ yên ả, thưởng ngoạn cảnh đẹp thơ mộng và  
khám phá khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ. Nằm trong  
khuôn viên Hồ Na Hang còn có 2 khu nuôi cá tầm  
quy mô lớn, du khách có thể thưởng thức món cá  
tầm ngon có tiếng nơi đây.  
Huyện Na Hang có nhiều dân tộc cùng sinh  
sống gồm: Tày, Dao, Mông, Kinh, Hoa, Sán Chay,  
Nùng... Với sự đa dạng về thành phần dân tộc, Na  
Hang hứa hẹn du khách trải nghiệm môi trường đa  
dạng về văn hóa tộc người, bao gồm cả văn hoá vật  
chất và văn hoá tinh thần. Đó là ẩm thực, lễ hội, văn  
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Na Hang, học nghệ thuật, cảnh quan văn hoá nông nghiệp.  
nằm trên địa bàn 4 xã Khau Tinh, Côn Lôn, Sơn  
Phú, Thanh Tương. Với đặc điểm của khí hậu vùng  
núi cao, nhiệt độ dao động lớn giữa mùa hè và mùa  
đông nên nơi đây thuận lợi cho sự phát triển của các  
loài thực vật. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của  
các nhà khoa học, KBTTN Na Hang còn khoảng  
68% diện tích là rừng ẩm nhiệt đới nguyên sinh,  
trong đó có khoảng 70% là rừng trên núi đá vôi.  
Thành phần loài của hệ thực vật đa dạng với khoảng  
1.357 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 74  
loài quý, hiếm (chiếm khoảng 5,45% tổng số loài  
đã ghi nhận); 62 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam  
(chiếm khoảng 4,57%); 25 loài nằm trong Nghị định  
số 32/2006/NĐ-CP, ngày 30 tháng 03 năm 2006 của  
Chính phủ về quản lý thực vật, động vật rừng nguy  
cấp, quý, hiếm (chiếm 1,84%) và 10 loài theo tiêu  
chí IUCN 2014 (chiếm 0,74%) với nhiều loài có giá  
trị sử dụng cao như trai, nghiến, lát hoa, đinh, thông  
tre, hoàng đàn giả, bách xanh… (Nguyễn Chung,  
2020). KBTTN Na Hang có khoảng 88 loài thú,  
thuộc 25 họ, 8 bộ đã được ghi nhận, chiếm 20,4%  
tổng số loài trong hệ động vật toàn khu vực, trong  
đó có 18 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam, 15 loài  
trong sách đỏ thế giới; 294 loài chim, thuộc 15 bộ,  
46 họ, chiếm khoảng 68,2%, trong đó có 7 loài đã  
được ghi vào sách đỏ Việt Nam, 6 loài trong sách đỏ  
thế giới; 30 loài bò sát, 18 loài lưỡng cư, trong đó  
4.2.1. Hệ thống ẩm thực dân tộc độc đáo  
Người Tày ở Nà Hang có vốn văn hóa ẩm thực  
truyền thống khá phong phú với nhiều món ăn đặc  
trưng của miền núi rừng, để lại dấu ấn sâu đậm trong  
lòng du khách. Một số món đặc trưng của người  
Tày: Thịt chua (hém nựa); cá chua (hém pya); thịt  
gà xào gừng (nựa cáy xẻo khinh); thịt lợn phơi khô  
(nựa lảm)... Một số món đặc biệt xuất hiện trong  
các dịp lễ Tết của người Tày: Bánh chuối, bánh  
gừng, chè lam và đặc biệt nhất là bánh trứng kiến.  
Để làm được bánh trứng kiến, người Tày đã dùng  
bột gạo nếp nặn hình tròn với nhân trứng kiến vàng,  
rang với đường gói trong lá ngõa non, sau đó đồ  
cho chín. Đây là món ăn vô cùng đặc sắc, ít nơi nào  
ở Việt Nam có được. Cũng như những vùng miền  
khác, người Tày ở đây có món xôi 5 màu: Màu tím  
của lá nhả khẩu đeng, màu vàng của nghệ nếp, màu  
xanh của lá gừng, màu đen của lá nhả khẩu đăm.  
Đi đôi với các món ăn đặc sắc là rượu ngô Na  
Hang được ủ bằng men lá. Men rượu làm từ các  
loại lá, rễ cây rừng (rau răm, xả, trầu không, sâm  
thục...). Để tạo được thứ đồ uống đặc sắc như vậy  
là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự tuân thủ các nguyên  
tắc nhất định từ chọn ngô nếp, phơi ngô, nấu ngô, ủ  
men và nấu cất thành rượu.  
4.2.2. Hệ thống lễ hội mang đậm sắc thái vùng  
có 9 loài bò sát, 1 loài lưỡng cư được ghi vào sách cao  
đỏ Việt Nam, 3 loài bò sát ghi vào sách đỏ thế giới  
Đến với Na Hang, du khách sẽ được tham gia  
rất nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của cộng  
đồng các dân tộc ở Na Hang nói riêng và ở Tuyên  
Quang nói chung: Lễ hội Lồng tồng, lễ hội Giã cốm  
của người Tày; lễ Cấp sắc, lễ hội Nhảy lửa, lễ Tơ  
hồng của người Dao...  
(Phạm Trung Lương, 2002) Sự đa dạng cảnh sắc  
thiên nhiên và phong phú về hệ động, thực vật quý,  
hiếm của Na Hang đã thu hút sự quan tâm của các  
nhà nghiên cứu khoa học, khảo sát thực địa, du lịch  
khám phá, thám hiểm.  
Núi Pắc Tạ: Núi Pắc Tạ trong tiếng Tày có nghĩa  
Đặc biệt, từ năm 2018, huyện Na Hang đã tổ  
148  
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
chức Ngày hội văn hóa du lịch vùng cao Na Hang. thu hoạch lê;  
Đây là dịp để địa phương quảng bá, giới thiệu tới du  
khách trong và ngoài nước về các giá trị di sản văn  
hóa đặc sắc như: Hát páo dung và nghi lễ cấp sắc  
(dân tộc Dao); ngoài ra còn có nhiều hoạt động hấp  
dẫn như: Tổ chức hội thi hái lê, thi hái chè, thi thêu  
khăn của người Dao Tiền...  
Tháng 10 - 12: Ngắm cảnh hồ Na Hang, dã ngoại  
khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, thưởng thức ẩm  
thực của người dân địa phương...  
Song song với các hoạt động du lịch này, một số  
dịch vụ đã và đang phát triển ở Na Hang, rất cần chú  
trọng tiếp tục ưu tiên phát triển, cụ thể:  
4.2.3. Văn hóa nghệ thuật  
* Du lịch tham quan khu bảo tồn thiên nhiên  
Na Hang  
Kho tàng múa của các dân tộc huyện Na Hang  
rất phong phú. Mỗi điệu múa là sự kết tinh của  
truyền thống văn hóa, quan niệm của đồng bào về  
cuộc sống xã hội, nhân sinh, tín ngưỡng, tôn giáo  
nên có sức sống mãnh liệt. Một số điệu múa đặc sắc  
của cộng đồng dân tộc ở Na Hang: Dân tộc Mông  
có nhẩy khèn, múa khèn, múa ô; dân tộc Dao có  
múa chuông, múa kiếm;...  
Du khách đến đây sẽ được trải nghiệm thăm khu  
bảo tồn Na Hang, khám phá thác Mơ và du thuyền  
trên hồ Na Hang. Những hoạt động này phụ thuộc  
vào sự điều phối của Ban quản lý Khu bảo tồn  
thiên nhiên (KBTTN). Người dân sinh sống trong  
KBTTN tham gia vào hoạt động du lịch thông qua  
hoạt động bán hàng nước, cho thuê trang phục dân  
tộc, thuê du thuyền trên sông… Những hoạt động  
4.2.4. Hệ thống cảnh quan văn hóa nông nghiệp  
Ruộng bậc thang Hồng Thái: Nằm ở độ cao này mới chỉ đem lại thu nhập cho một bộ phận nhỏ  
1.287m so với mực nước biển, Hồng Thái được ví người dân, còn lại đa số cộng đồng nơi đây vẫn dựa  
như Sa Pa thứ hai của Tuyên Quang. Nơi đây sở vào nông nghiệp là chủ yếu. Trong tương lai, Na  
hữu một bầu không khí trong lành, mát mẻ quanh Hang có thể tiếp tục liên kết với huyện Lâm Bình  
năm. Đến Hồng Thái vào khoảng cuối tháng 9, du để có thể phát triển hoạt động tham quan KBTTT  
khách ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của ruộng bậc thang kết hợp với du lịch mạo hiểm leo núi và khám phá  
thôn Khau Tràng, Nà Kiếm, Bản Muông, Hồng Ba, hang động.  
Nà Mụ, Pác Khoang, Khuổi Phầy. Từng dải sóng  
lúa óng vàng uốn lượn bên sườn non làm mê hoặc  
lòng người. Du khách phóng tầm mắt xa xa, vượt  
đỉnh núi cao bên kia là các xã Cổ Linh, Công Bằng,  
Cao Tân, huyện Pắc Nậm của tỉnh Bắc Kạn. Đứng  
ở địa danh có độ cao 1.287m so với mặt nước biển  
này, ai cũng có cảm giác lâng lâng như con người,  
thiên nhiên hòa vào đất trời bao la. Từ năm 2018, tại  
đây tổ chức lễ hội ruộng bậc thang Hồng Thái nhằm  
quảng bá cho hoạt động du lịch nơi đây. Không  
chỉ được ngắm nhìn vẻ đẹp của các thửa ruộng bậc  
thang, du khách còn có thể được trải nghiệm đi gặt  
lúa, hái lê, hái chè.... Điều này tạo cơ hội thuận lợi  
cho Hồng Thái phát triển dịch vụ homestay với các  
hoạt động du lịch trải nghiệm hấp dẫn.  
4.3. Phát huy lợi thế du lịch của huyện Na  
Hang cho phát triển du lịch sinh thái cộng đồng  
trong bối cảnh hội nhập  
Với các cảnh quan về tự nhiên, tài nguyên nhân  
văn sẵn có, Na Hang có thể xây dựng bảng thời gian  
cho các hoạt động du lịch như sau:  
* Du lịch homestay  
Hoạt động dịch vụ homestay bắt đầu phát triển  
ở Na Hang từ năm 2016, đến nay được khá nhiều  
du khách trong và ngoài nước biết đến. Tại thôn  
Nà Khá, xã Năng Khả có 2 hộ gia đình tham gia  
dịch vụ homestay, trung bình mỗi hộ có thể đảm bảo  
cho trên 20 khách nghỉ/đêm. Giá nghỉ trung bình  
cho mỗi khách là 70.000 đồng/ngày/người. Giá này  
chưa tính các chi phí ăn, uống, xem biểu diễn văn  
nghệ. Tại các bản được đánh giá có khả năng phát  
triển du lịch homestay và trải nghiệm không gian  
văn hóa bản làng có trên 15 hộ gia đình tham gia  
cung cấp nhà nghỉ cộng đồng cùng với đó là các  
dịch vụ khác được người dân cung cấp: Biểu diễn  
văn nghệ truyền thống, nấu ăn thuê.  
Cùng với việc nghỉ lại ở các khu homestay,  
người dân ở đây còn cung cấp thêm dịch vụ ăn  
uống và biểu diễn văn nghệ truyền thống của địa  
phương. Đội văn nghệ chủ yếu do chi hội phụ nữ  
của bản thành lập. Trung bình mỗi đội văn nghệ có  
6 - 8 thành viên, biểu diễn mỗi tối khoảng 1h - 1,5h  
Tháng 1- 3: Ngắm hoa lê; tham dự lễ hội lồng và đội văn nghệ được khách trả 600.000 đồng/tối  
tồng, hội thi bắt cá bằng tay;  
- 700.000 đồng/buổi biểu diễn. Các bài biểu diễn  
thường là Páo dung của dân tộc Dao, hát Then của  
người Tày... Dịch vụ này không những đem lại việc  
làm và thu nhập ổn định cho người dân, đặc biệt  
là phụ nữ, mà còn gìn giữ được những nét văn hóa  
truyền thống của địa phương. Đặc biệt, câu lạc bộ  
Bảo tồn văn hóa dân tộc Dao được thành lập năm  
2014 truyền dạy và tổ chức biểu diễn các làn điệu  
Páo dung, các điệu múa trong nghi lễ tín ngưỡng,  
Tháng 4 - 6: Thu hoạch chè, thăm quan thác Mơ,  
ngắm cảnh hồ Na Hang, thăm khu bảo tồn thiên  
nhiên Na Hang; thưởng thức ẩm thực của người dân  
địa phương;  
Tháng 7 - 8 - 9: Lễ hội Ruộng bậc thang; lễ hội  
Ngày hội văn hóa du lịch vùng cao Na Hang; thăm  
vườn chè, tìm hiểu quy trình hái chè, chế biến chè;  
Volume 9, Issue 4  
149  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
các trò chơi dân gian của người Dao. Chính việc giải pháp, hướng đầu tư tập trung để làm nổi bật đặc  
phát triển du lịch đã thúc đẩy người dân bảo tồn và trưng sản phẩm du lịch của mình.  
khôi phục những lời ca, điệu múa của dân tộc mình.  
5. Thảo luận  
* Dịch vụ du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông  
thôn  
Phân tích ở trên cho thấy, Na Hang hiện đang  
có thế mạnh trong phát triển du lịch homestay, du  
Với đặc trưng tự nhiên là nằm ở độ cao 1.287m lịch tham quan dã ngoại, du lịch trải nghiệm nông  
so với mặt nước biển, Hồng Thái khá phù hợp cho nghiệp. Theo quy hoạch du lịch của huyện Na Hang,  
sự phát triển của cây chè San Tuyết, cây lê và một số nơi đây sẽ hình thành một số phân khu chức năng  
rau củ quả đặc trưng của vùng nhiệt đới. Đặc biệt, như Khu lâm viên Phiêng Bung (có sân bay mini,  
một số hộ dân nơi đây đã phát triển hợp tác xã Sơn trường đua ngựa, sân golf, bãi cắm trại…), Khu lâm  
Trà chuyên cung cấp các sản phẩm chè San Tuyết, thủy Cọc Vài (gồm khu biệt thự, đảo nuôi thú, khu  
hợp tác xã rau sạch Tân Hợp. Cho đến nay, các hợp thể thao mạo hiểm, khu câu cá, bến cảng…), khu  
tác xã này đã đưa ra thị trường các loại nông sản thể thao trên nước, khu làng văn hóa lịch sử. Tuy  
sạch như chè, rau xanh, bí, lê... được ưa chuộng. nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, các  
Nhiều sản phẩm nông sản đã được du khách mua nhà quản lý cần lưu tâm đến vấn đề bảo vệ môi  
về làm quà sau mỗi chuyến đi. Với thuận lợi này, trường sinh thái cho KBTTN. Chỉ nên xây dựng và  
người dân bên cạnh việc sản xuất các sản phẩm phát triển những phân khu thực sự cần thiết, không  
nông nghiệp sạch đưa ra thị trường, nơi đây có thể nên xây dựng một cách tràn lan mà dễ đánh mất tính  
phát triển đón khách tham quan vào vườn thu hoạch hoang sơ thiên nhiên của KBTTN.  
rau, hái quả, chụp ảnh, bán các sản phẩm nông  
nghiệp. Hoạt động này không những tăng thêm thu  
nhập cho người dân, mà còn đa dạng thêm các sản  
phẩm du lịch cho địa phương.  
Trước mắt, nên tiếp tục đầu tư nâng cao chất  
lượng của các dịch vụ đã và đang cung cấp tại địa  
phương: tham quan dã ngoại KBTTN, homestay,  
trải nghiệm nông nghiệp, phát triển thêm du lịch  
Với điều kiện về tài nguyên, các dịch vụ du lịch mạo hiểm khám phá hang động, leo núi.  
cung cấp ở Na Hang, cho đến nay lượng khách du  
lịch biết thông tin và tham gia các chuyến du lịch ở  
Na Hang đã tăng lên (Hình 1).  
Từ thực tế tự nhiên và xã hội của địa phương,  
chúng tôi đề xuất một số giải pháp có thể triển khai  
trong thời gian gần:  
- Đa dạng sản phẩm và nâng cao chất lượng du  
lịch  
* Đối với du lịch homestay: Hiện tại một số  
điểm du lịch cộng đồng ở huyện Na Hang mới chỉ  
dừng lại ở việc đón khách lưu trú tại gia, xem biểu  
diễn văn nghệ truyền thống và thưởng thức ẩm  
thực dân tộc. Vì vậy muốn kéo dài thời gian lưu trú  
của khách, sử dụng các dịch vụ, tăng doanh thu tại  
các điểm du lịch cộng đồng thì trong tương lai, du  
lịch cộng đồng cần phát triển các sản phẩm, dịch  
vụ như: Hướng dẫn viên địa phương; phục vụ ăn  
uống (khách tự chế biến các món ăn truyền thống  
và thưởng thức cùng người dân bản địa); cung cấp  
Hình 1. Lượng khách du lịch đến Na Hang giai  
đoạn 2016-2018  
Nguồn: Thống kê huyện Na Hang các năm 2016,  
2017, 2018.  
Với một số sản phẩm du lịch đặc trưng trên, dịch vụ chỗ ở/lưu trú; bán hàng thủ công mỹ nghệ,  
lượng du khách đến Na Hang có xu hướng tăng. phục vụ phương tiện đi lại (cho thuê phương tiện  
Nếu năm 2016 chỉ có 136.526 lượt khách đến Na vận chuyển); mở thêm các tour, tuyến du lịch tham  
Hang, đến năm 2017, lượng khách đã đạt 160.808 quan các bản làng trong KBTTN.  
lượt. Năm 2018, Na Hang đã đón 188.300 lượt  
khách, tăng 14,6% so với năm 2017. Chỉ tính riêng  
6 tháng đầu năm 2019, với ngày nghỉ lễ 30/4 - 1/5,  
Na Hang đã đón được 28.000 lượt khách du lịch.  
Điều này cho thấy, hoạt động du lịch ở Na Hang  
được khách du lịch trong và ngoài nước biết tới  
ngày càng nhiều.  
* Đối với du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông  
thôn: Dịch vụ du lịch này có tiềm năng phát triển  
ở Hồng Thái, nơi có nhiều hợp tác xã rau sạch,  
vườn lê, vườn chè, ruộng bậc thang. Để du lịch trải  
nghiệm nông thôn ở Na Hang không bị trùng lặp  
với các địa phương miền núi khác, cần nghiên cứu  
thiết kế các chương trình du lịch trải nghiệm đặc  
Tuy nhiên, các sản phẩm du lịch vẫn còn đơn thù của địa phương: như đề xuất một mức vé trải  
điệu. Trong bối cảnh hội nhập, để thu hút khách du nghiệm nhất định, khách tham gia có thể mang các  
lịch nội địa và khách quốc tế, du lịch Na Hang còn sản phẩm nông nghiệp mà họ thu hái được; trồng  
gặp rất nhiều khó khăn thách thức và cần có những các loại rau quả nông nghiệp đặc sản của địa phương  
150  
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
(chẳng hạn mở rộng nâng cao chất lượng vườn lê), đồng trong bảo tồn tự nhiên, gìn giữ bản sắc văn  
mở rộng dịch vụ thăm quan, chụp ảnh dã ngoại…  
hóa cộng đồng.  
Trên đây là hai sản phẩm du lịch thế mạnh của  
Na Hang, địa phương có thể phát triển du lịch mạo  
hiểm, trải nghiệm khu bảo tồn, leo thác. Để phát  
triển tốt dịch vụ du lịch này, địa phương cần nghiên  
cứu thiết kế thêm các tour đi thăm khu bảo tồn, kết  
hợp vào thăm các bản làng ở xung quanh các điểm  
du lịch này. Bên cạnh đó, cần kết nối các điểm du  
lịch Na Hang với các địa phương khác trong vùng  
tạo tuyến du lịch đa dạng nhằm thu hút khách đến  
với Na Hang là điều cần được quan tâm.  
- Cải thiện vệ sinh môi trường  
Theo tiêu chí của DLST, vấn đề môi trường  
cần được coi trọng. Để nâng cao chất lượng môi  
trường, có thể thực hiện một số việc: (1) Thành lập  
các điểm thu gom rác hợp lý, đặc biệt là tại các bản  
tham gia cung cấp dịch vụ du lịch homestay; (2)  
Tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng (người  
dân, khách du lịch) về giữ gìn vệ sinh môi trường,  
cải tạo nhà vệ sinh cũng như khu vực chăn nuôi;  
(3) Tuyên truyền bảo vệ môi trường thông qua việc  
xây dựng các ấn phẩm tờ rơi, áp phích, bản đồ,...  
nhằm quảng bá thông tin về khu vực, vừa gửi đến  
du khách thông điệp bảo vệ môi trường ở điểm đến.  
Ngoài ra, ở các điểm du lịch cũng có thể treo khẩu  
hiệu, hình ảnh bảo vệ tài nguyên môi trường...  
- Nâng cao năng lực cộng đồng  
Đây là giải pháp then chốt trong việc phát triển  
DLST cộng đồng. Bởi vì, trong loại hình du lịch  
này, bên cạnh yếu tố về tài nguyên thì yếu tố về con  
người là rất quan trọng. Mặc dù theo điều tra, chính  
quyền địa phương cũng đã tổ chức các khóa đào tạo  
ngắn hạn cho những người tham gia làm du lịch ở  
địa phương, nhưng chất lượng cũng như hiệu quả  
của các chương trình này thực sự chưa như mong  
đợi. Hầu hết những người tham gia làm du lịch cũng  
như cung cấp các dịch vụ du lịch là làm tự phát, kỹ  
năng nghề nghiệp chưa chuyên sâu. Vì vậy, chính  
quyền cần có chủ trương mở các khoá đào tạo liên  
tục, hướng đến các kỹ năng chuyên nghiệp theo các  
mô hình du lịch, cụ thể:  
- Giải pháp về quản lý  
Cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các ban ngành  
có liên quan, đặc biệt là sự thống nhất quản lý ở cấp  
địa phương, cấp xã để tạo điều kiện tốt nhất cho du  
lịch phát triển. Theo đúng ý nghĩa cốt lõi của DLST  
cộng đồng, mỗi địa phương phải có Ban quản lý du  
lịch với sự tham gia trực tiếp của cộng đồng dân cư  
đã và đang làm du lịch ở các bản cộng đồng. Ban  
quản lý cần phải đưa ra phương hướng hoạt động,  
lên kế hoạch phân chia lượng khách du lịch tới từng  
- Du lịch Homestay: Tập huấn người dân cách hộ gia đình, tránh tình trạng hộ gia đình quá đông  
đón khách, xây dựng chương trình khi cho khách khách, hộ gia đình lại không có khách. Bên cạnh  
nghỉ tại gia đình, đặc biệt, vấn đề đảm bảo vệ sinh đó, chính quyền địa phương cần có sự liên kết với  
nhà ở, chuẩn bị các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt. các điểm du lịch ở tỉnh bạn để tránh sự đầu tư chồng  
chéo, xây dựng các sản phẩm du lịch na ná nhau,  
dẫn đến sự nhàm chán đối với du khách khi tham  
gia các chuyến du lịch ở vùng núi.  
- Du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông thôn:  
Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực người dân địa  
phương theo từng chủ đề: lớp giới thiệu kỹ năng đón  
khách; lớp giới thiệu kỹ năng thuyết trình hướng  
dẫn chăm sóc, thu hoạch sản phẩm nông nghiệp;  
lớp giới thiệu về chế biến sản phẩm nông nghiệp.  
6. Kết luận  
Na Hang là một trong những địa phương miền  
núi có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và con  
- Du lịch tham quan dã ngoại khu bảo tồn, phát người để phát triển du lịch. Với lợi thế đó, Na Hang  
triển thêm du lịch khám phá hang động, leo núi: đã xác định du lịch là một trong những hướng ưu  
Tấp huấn người dân về các bước giới thiệu điểm du tiên cho phát triển kinh tế hiện nay. Các sản phẩm  
lịch; tập huấn về cách giữ an toàn cho bản thân và du lịch chính của Na Hang cần được chú trọng là  
du khách trong cả chuyến du lịch,…  
thăm quan ngắm cảnh, homestay, trải nghiệm văn  
hoá nông nghiệp. Du khách đến với Na Hang có xu  
hướng tăng theo thời gian. Trong bối cảnh hội nhập,  
bên cạnh thuận lợi thì cũng đặt ra thách thức đối với  
Na Hang mà thách thức lớn nhất là xây dựng sản  
phẩm du lịch đặc thù riêng của địa phương. Để đáp  
ứng được điều này, trước mắt địa phương cần áp  
dụng một số giải pháp về đa dạng sản phẩm du lịch,  
về đào tạo nguồn nhân lực, về cải thiện và bảo vệ  
môi trường, về nâng cao năng lực quản lý. Đặc biệt,  
vấn đề liên kết với các địa phương lân cận trong  
việc quy hoạch, xây dựng đầu tư du lịch tránh sự  
chồng chéo, trùng lặp về sản phẩm du lịch là vấn đề  
cũng cần được lưu tâm.  
Đặc biệt, với một địa phương vùng núi, cơ cấu  
dân số đa dạng trong thành phần dân tộc, có nền  
văn hóa khác nhau, việc đào tạo nguồn nhân lực là  
một việc làm hết sức khó khăn, cần được tiến hành  
trong một lộ trình lâu dài, được nghiên cứu và lên  
kế hoạch cụ thể, đặc biệt là đối với đội ngũ con em  
người dân tộc.  
Trong việc đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực:  
Tuyển chọn trực tiếp người dân địa phương, đào tạo  
cho họ những kỹ năng làm việc trong hoạt động du  
lịch. Trong quá trình đào tạo cần đi đôi thực hành  
nghiệp vụ và có lồng ghép nâng cao nhận thức cộng  
Volume 9, Issue 4  
151  
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN  
Tài liệu tham khảo  
Chung, N. (2020). Du lịch sinh thái khu bảo tồn  
thiên nhiên tát kẻ bản bung Na Hang (khu  
bảo tồn thiên nhiên Na Hang). Truy cập  
sinh-thai-khu-bao-ton-thien-nhien-tat-ke-  
ban-bung-na-hang  
Quế, V. (2006). Du lịch cộng đồng: Lý thuyết và  
vận dụng. Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.  
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt  
Nam. (2017). Luật du lịch.  
Simpson and Wall. (1999). Enviroment Impact  
Assessment for tourism: a discussion and an  
Indonesan example.  
Độ, N. V. (2003). Văn hoá truyền thống các dân  
tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang (Chủ  
biên). Nxb. Văn hóa Dân tộc.  
Thanh, T. Đ., & Hoa, T. T. M. (2014). Giáo trình  
địa lý du lịch (T. Đ. Thanh, Chủ biên). Hà  
Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Taylor, Boo. E. (1990). Ecotourism: the potential  
and pitfalls. 2. Washington DC.  
Thảo, L. B. (1990). Thiên nhiên Việt Nam. Hà  
Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.  
Honey, M. (1999). Ecotourism anh Sustainable  
Tổng cục Thống kê. (2019). Tổng điều tra dân  
số và nhà ở Việt Nam năm 2019. Hà Nội:  
Nxb. Thống kê.  
development: Who owns paradise?  
Linh, G. (2016). Na Hang, tiềm năng du lịch của  
mảnh đất xứ Tuyên. Tạp Chí Môi Trường,  
Số 3.  
Vân, P. T. C. (2018). Cơ sở khoa học cho phát  
triển DLST dựa vào cộng đồng huyện miền  
núi Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Luận án tiến sỹ  
Trường ĐH khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia  
Hà Nội.  
Lương, P. T., Quân, H. H., Khánh, N. N., Lanh,  
L. V., & Thông, Đ. Q. (2002). Du lịch sinh  
thái - những vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt  
Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.  
Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, & Tổ chức  
bảo tồn thiên nhiên thế giới. (1998). Tuyển  
tập báo cáo hội thảo “DLST và phát triển du  
lịch bền vững ở Việt Nam. Hà Nội.  
Khoa, N. Đ. (2015). Phát triển du lịch cộng đồng  
huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Tạp chí  
Văn hóa nghệ thuật, số 374, tháng 8/2015,  
tr. 51-54.  
Yến, B. T. H. (2008). Du lịch Cộng Đồng. Hà  
Nội: Nxb. Giáo dục.  
NA HANG COMMUNITY ECOTOURISM  
IN THE CONTEXT OF GLOBAL INTERGRATION  
Pham Thi Cam Vana  
Hoang Thi Le Thaob  
Institute of Anthropology  
Abstract  
Community ecotourism model is more and more popular  
because it aims to link the ability of local communities to exploit  
natural resources reasonably and sustainably and to protect the  
natural environment. It is also the harmony between economic  
benefits and environmental protection. However, it is not only  
about protecting the natural environment, community ecotourism  
in some localities are being built and developed with the goal of  
preserving and promoting the cultural environment. Each locality  
has its own characteristics, and strength in community ecotourism  
development, so that we cannot impose a common model. We look  
forward to understanding and clarifying the potential and the factual  
conditions of Na Hang district (Tuyen Quang province) to develop  
effective community ecotourism in the context of global integration.  
Received:  
Reviewed:  
Revised:  
Accepted:  
Released:  
10/8/2020  
09/11/2020  
12/11/2020  
13/11/2020  
20/11/2020  
DOI:  
Keywords  
Eco tourism; Community tourism; Intergration; Globalization;  
Culture.  
152  
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH  
pdf 7 trang yennguyen 15/04/2022 1560
Bạn đang xem tài liệu "Du lịch sinh thái cộng đồng Na Hang trong bối cảnh hội nhập toàn cầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdu_lich_sinh_thai_cong_dong_na_hang_trong_boi_canh_hoi_nhap.pdf