Tang lễ của người Khmer theo Phật giáo Nam tông ở tỉnh An Giang hiện nay
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
TANG LỄ CỦA NGƯỜI KHMER THEO PHẬT GIÁO NAM TÔNG
Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
y Nguyễn Thị Hoàng Phượng(*)
Tóm tắt
Tang lễ là một nghi lễ trong chuỗi nghi lễ vòng đời con người của nhiều dân tộc trên thế giới.
Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến tang lễ của người Khmer An Giang theo Phật giáo Nam
tông từ các nghi thức diễn ra trong quá trình tiến hành tang lễ đến các nghi thức thờ cúng sau đám
tang. Bài viết còn đề cập đến một số biến đổi trong tang ma và tục thờ cúng người chết của người
Khmer An Giang hiện nay.
Từ khóa: Tang lễ, Phật giáo Nam tông, Khmer An Giang.
1. Đặt vấn đề
Xác định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh trong tang ma
2.1. Sơ lược về người Khmer An Giang
2. Người KhmerAn Giang và các nghi thức
thần của xã hội, của dân tộc mà còn là mục tiêu,
động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
nên Đảng và Nhà nước ta đưa ra hàng loạt các Chỉ
thị, Nghị quyết, Quyết định, nhằm bảo tồn và phát
huy những phong tục, tập quán truyền thống của
các dân tộc, cụ thể như: Tại Điều 5 của Hiến pháp
năm 1992 có nêu: “Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa tốt đẹp của mình”; Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ VII (khóa IX) nêu
rõ: “Giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất”; Quyết định số: 1270/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, ngày 27 tháng 07 năm
2011 về việc: Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm
2020”; Chỉ thị số: 194/CT-BVHTTDLcủa Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch ra ngày 20 tháng 10 năm
2011 về việc: Triển khai thực hiện Đề án “Bảo
tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020”. Như vậy, việc nghiên cứu
và bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong đó có dân tộc
Khmer An Giang theo Phật giáo Nam tông qua lễ
tang là thực hiện đúng tinh thần “tốt đời, đẹp đạo”
góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam vốn “thống nhất trong
sự đa dạng”, phù hợp chủ trương của Đảng và chính
sách Nhà nước ta hiện nay.
Về nguồn gốc: Người KhmerAn Giang là một
bộ phận thuộc Khmer Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL). Khi bàn về nguồn gốc của người Khmer
ĐBSCL, một số nhà nghiên cứu đưa ra những giả
thuyết như sau:
Giả thuyết thứ nhất: “Người Khmer ĐBSCL
và người Khmer Campuchia có chung một nền
văn hóa và nguồn gốc lịch sử giống nhau. Người
Khmer đến sinh sống ở vùng ĐBSCL khoảng thế
kỷ X - XII” [9, tr. 2]; Giả thuyết thứ hai: “Người
Khmer ở vùng ĐBSCL gốc vốn là tộc người Văh
Năh (Phù Nam)” [5, tr. 26]; Giả thuyết thứ 3:
“Người Khmer ĐBSCL có hai nguồn gốc: Người
Khmer sống ở vùng đồi núi có nguồn gốc từ Khmer
Campuchia (Chân Lạp) và người Khmer sống ở
vùng đồng bằng, ven biển có nguồn gốc từ người
Phù Nam. KhmerAn Giang (đại diện Khmer vùng
núi), Khmer tỉnh Sóc Trăng (đại diện Khmer vùng
biển)” [8, tr. 56].
Có thể nói, những giả thuyết trên đã góp phần
làm phong phú thêm hoạt động nghiên cứu về
nguồn gốc của người Khmer ở ĐBSCL nói chung,
người Khmer An Giang nói riêng.
Tính đến tháng 7/2018 “Dân số toàn tỉnh An
Giang có 2.159.859 người. Ngoài dân tộc Kinh
chiếm đa số còn có 28 dân tộc thiểu số với 119.219
người (Trong đó Khmer là 93.717 người; Chăm
15.327 người; Hoa có 10.079 người và 25 dân tộc
thiểu số khác với tổng số 96 người)” [1, tr. 1].
Về tôn giáo: Người Khmer An Giang hầu hết
theo Phật giáo Nam tông (chỉ có một số theo đạo
Công Giáo hoặc Tin Lành). Điều đáng lưu ý là,
(*) Trường Đại học An Giang.
48
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
khác với Phật giáo Nam tông của người Khmer
Trong nhà có người sắp chết thì gia đình
các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cần Thơ lập bàn thờ Phật và mỗi buổi tối mời Acha Duky
hay Vĩnh Long thì Phật giáo Nam tông của người (người hướng dẫn làm nghi thức tụng kinh cho
Khmer An Giang có hai hệ phái: Mahanikay và người đang hấp hối) đến tụng kinh Kok salla. Mục
Thommazut, còn các tỉnh kể trên chỉ có một đích tụng kinh này là để người đang hấp hối giải
phái Mahanikay. Theo số liệu thống kê của Ban hết nghiệp chướng đang mang và tâm trí luôn
Tôn giáo tỉnh An Giang năm 2018, trên địa bàn hướng về Đức Phật.
toàn tỉnh An Giang “Có 66 chùa theo Phật giáo
Nam tông (trong đó có 19 chùa theo chi phái
b. Khi tắt thở (Chết)
Khi đang tụng kinh Kok salla mà người thụ
Thommazut và 47 chùa theo chi phái Mahanikay). kinh tắt thở, Acha Duky chuyển sang tụng kinh
Riêng, ở huyện Tri Tôn có 37 chùa (08 chùa Apithom. Ý nghĩa của kinh này là khuyên mọi
Thommazut); huyện Tịnh Biên 24 chùa (09 chùa người cố tu tâm, tịnh diệt, trong lòng giữ gìn chánh
Thommazut); huyện Châu Thành 03 chùa (02 đạo. Kinh Apithom đọc đi đọc lại nhiều lần để
chùa Thommazut); huyện Châu Phú 01 chùa; người vừa tắt thở ra đi thanh thản, không lưu luyến
huyện Thoại Sơn 01 chùa. Trong đó, các Chư gì về kiếp sống trần gian. Tục lệ đọc kinhApithom
tăng có 895 vị (09 Hòa thượng, 13 Thượng tọa, xuất phát từ câu chuyện cổ của Phật giáo Nam tông:
66 Ban Quản trị Achar, 370 vị Achar, số còn lại “Ngày xưa, có 500 đệ tử của Pras Sêrây Poth, lúc
gồm: Tùy Khưu, Thức Xoamana, Sadi)” [2, tr. 2]. đương thời làm nhiều điều độc ác, nên khi chết đi
Phật giáo Nam tông có mặt ở ĐBSCL nói họ đầu thai thành 500 con dơi cùng sống chung
chung và An Giang nói riêng từ rất lâu đời và chỉ trong một hang núi. Một hôm, Pras Chetha Puth
có một giáo phái đó là Mahanikay. Đến “Cuối thế đi vào hang núi đó và tụng kinhApithom, 500 con
kỷ XIX, có một vị trưởng lão tên Preah Saukonn dơi chăm chú nghe đến nổi không hay biết quả núi
bất mãn trong tăng đoàn, bỏ sang Thái Lan tu sắp đổ. Quả nhiên, núi đổ và đè chết 500 con dơi
hành và thành lập giáo hội Thommazut, nghĩa là mà bên tai chúng vẫn văng vẳng nghe tiếng kinh
"chánh pháp”. Sau đó, Ngài về Campuchia truyền Apithom. Sau khi chết, 500 con dơi đều đầu thai
bá giáo phái đó vào năm 1864. Điểm đặc biệt của thành con người. Trở lại kiếp người, họ biết thức
phái này là được Hoàng gia Campuchia ủng hộ tỉnh, chỉ làm điều lành, tránh điều ác, khổ luyện
và khi xuất gia họ cũng chọn giáo phái này. Vì tu tâm, dưỡng tính và đi tu, họ trở thành chánh
thế, Thommazut, trở thành một giáo phái quan quả” [3, tr. 98].
trọng. Vào năm 1900, Hoàng gia Campuchia cử
Sau khi tắt thở, thi hài được đặt trên giường,
một nhà sư thuộc giáo phái Thommazut sang Việt đầu quay về hướng Đông (hệ phái Mahanikay).
Nam truyền đạo và ủng hộ những ngôi chùa nào Phái này quan niệm, nếu đặt đầu quay về hướng
chấp nhận bỏ giáo phái Mahanikay theo giáo phái Tây sẽ không tốt cho con cháu trong công việc làm
của mình” [7, tr. 65-66]. Hai phái Thommazut ăn sau này, vì hướng Tây là hướng của điềm xấu.
và Mahanikay của Phật giáo Nam tông ở tỉnh An Còn hệ phái Thommazut đặt người chết quay mặt
Giang xuất phát từ hai tầng lớp khác nhau. Phái vào nhà (không phân biệt hướng Tây hay Đông mà
Thommazut thuộc Hoàng gia, phái Mahanikay tùy thuộc vào cửa chánh của ngôi nhà).
thuộc tầng lớp bình dân nhưng về kinh điển và
Công việc kế tiếp là gia đình cử người đến
nghi lễ phần nhiều hoàn toàn giống nhau. Riêng về chùa và mang theo Chong thbau ung (là một cái
hình thức thì có một số điểm dị biệt. Tuy nhiên ở thúng, bên trong thúng chứa từ 02 đến 03 lít gạo,
bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến lễ tang của người 01 cái nồi đất, 01 cái đèn cóc, bốn bộ chén đĩa
Khmer An Giang.
2.2. Các nghi thức trong tang ma của người trước là thông báo với sư sãi trong gia đình có
Khmer An Giang theo Phật giáo Nam tông người qua đời, sau là trình với sư sãi đây là lễ vật
2.2.1. Các nghi thức tiến hành trong tang lễ của người chết mang theo về thế giới bên kia để
(ăn cơm), 01 trái dừa khô bóc vỏ, 2m2 vải trắng),
a. Khi lâm chung (Trước khi tắt thở)
sử dụng. Sau đó, người ở chùa đánh 03 hồi trống/
49
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
chiêng với mục đích thông báo cho người trong thẳng chân rồi phủ kín vải trắng (Rumsa) từ đầu
Phum, Sóc biết có người qua đời. Ngoài ra, để mọi đến chân. Muốn quàng người chết lâu ngày, tử thi
người nhận biết dễ dàng hơn, phía trước nhà tang phải quấn thêm một lớp vải dầu hay vải cao su và
chủ người ta dựng cây cờ tang. Sau khi nhận tin từ lót trấu hay trà, hoa nhằm để hút nước, tránh mùi
03 hồi trống/chiêng của chùa, mọi người sắp xếp hôi phát ra từ tử thi. Ngoài ra, người ta để trên bụng
công việc đến chia buồn và giúp đỡ gia đình có người chết một nải chuối xanh (chuối sống). Việc
tang. Người Khmer đến cúng, viếng thường cúng để nải chuối xanh có nhiều mục đích: hoặc ngụ ý
tiền, nhang, gạo, chuối chín, nến, trái cây… Để tỏ con người như cây chuối khi có quả thì cây chết
lòng biết ơn, gia đình tang chủ mời khách dùng đi; hoặc để tránh cho phần bụng của người chết
cơm, bún. Đặc biệt ở Khmer An Giang trong tang trương lên sớm.
ma, gia đình tang chủ không có đãi bia, rượu.
Kế tiếp Acha Duky lấy Slatho (gồm: hai lá
Sau khi chuẩn bị 05 Tean Kol (mỗi cái Tean trầu ốp lại nhau, chính giữa có hai cây nhang và
Kol gồm: trầu, đèn cầy, nhang cắm lên thân cây 01 cây đèn cầy) để lên ngực người chết và lấy hai
chuối cao khoảng 15cm), lúc này Acha Duky thắp tay người chết chắp lại (trường hợp chết quá lâu
05 Tean Kol (01 để ở đầu, 02 để hai bên vai, 02 để không thể chắp tay người chết được thì Slatho để
ở dưới hai chân người chết) và Tông Prôlưng (là cờ trên ngực). Ý nghĩa của việc làm này, ngụ ý là
hồn hình con rồng hoặc cá sấu từ nhiều mảnh vải người chết chỉ mang theo lời kinh và hình ảnh Đức
trắng kết lại) đặt ở phía trên đầu người chết. Tiếp Phật. Tục lệ này xuất hiện trong truyện cổ Phật
theo,Acha Duky để vào miệng người chết một đồng giáo: “Ngày xưa có một người chuyên sống bằng
bạc trắng (với quan niệm là, sau khi chết một đồng nghề săn thú. Trong cuộc đời của ông đã giết chết
bạc bỏ vào miệng cũng đem theo không được. Mục biết bao loài thú không kể xiết. Đến khi bị bệnh
đích của việc làm đó là để cho người sống suy nghĩ sắp chết, ông thấy các loài thú bị giết chết đến đòi
mà làm đúng theo đạo lý ở đời). Sau đó,Acha Duky mạng. Ông rất đau đớn và khổ sở. Con trai ông là
hướng dẫn người thân tắm rửa tử thi bằng nước ướp Tùy Khưu, thấy cha đau đớn như vậy mới lấy lá
hương (nước ướp hương xưa kia người ta làm bằng trầu xanh ghim vào cây hương để lên ngực ông
nhiều cách: làm bằng sáp ong; hoa lài; nhang. Nếu và nói: cha đừng nghĩ vẫn vơ nữa mà nghĩ đến
làm bằng hoa lài thì người ta lấy hoa lài bóp dập dập Đức Phật thôi. Nhờ đó mà ông không còn nghĩ
thả vào nước cúng (nước cúng là nước sạch được lung tung mà chỉ một lòng hướng về Đức Phật
sư sãi làm phép); nếu làm bằng nhang thì người ta cho đến khi nhắm mắt” [3, tr.101]. Dưới chân thi
đốt nhang, sau khi khói nhang bay lên, người ta lấy hài người chết, người ta để di ảnh và đặt 01 lon
cái ly hoặc xô úp xuống để chặn khói vào ly, xô, sau đất cát (Chơng thúp) để cắm hương. Ngoài ra, gia
đó lật ngược ly, xô lên rồi nhanh tay đổ nước cúng đình cũng chuẩn bị các lễ vật như: Son khur lễ vật
vào xô, ly; nếu làm bằng sáp ong thì cho sáp ong cúng chùa (chiếu, cà sa, mùng, thùng đựng nước..)
vào ô đậy nắp lại và xông lửa lên, sau đó cho nước để sư sãi sử dụng và Tean’t bôn lễ vật trả ơn cho
cúng vào để lấy mùi thơm. Ngày nay, người ta làm các acha (gồm 01 cái thúng, đựng một nải chuối,
nước hương bằng cách lấy nước cúng rồi xịt nước đèn dầu, nhang, một trái dừa khô bóc vỏ, bánh,
hoa (dầu thơm) vào).
Việc tắm rửa tử thi được ông Chau Kuôn
(Acha Duky chùa Sà Lôn) lý giải như sau: “Việc
trà, nồi, tô…) .
Khâm liệm (Đưa tử thi vào quan tài):
Sau khi tụng xong kinh Apithom, Acha
con, cháu tắm rửa cho ông, bà, cha, mẹ thì ngoài Duky thỉnh sư tụng kinh Achirăng. Nội dung kinh
mục đích làm vệ sinh cho tử thi, còn xin người quá Achirăng nói về sự tồn tại của thân xác là tạm bợ.
cố tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm mà con, cháu sai Sau khi đọc kinhAchirăng xong, phương thức tẩm
phạm với ông, bà, cha, mẹ khi lúc ông, bà, cha, liệm được tiến hành. Lúc bấy giờ, thân xác của
mẹ còn sống”.
người chết được quấn vải trắng (Rum sap); trường
Sau khi tắm rửa và thay quần áo mới cho hợp gia đình khó khăn người ta quấn bằng chiếu,
người chết, người ta đặt tử thi nằm thẳng tay, có nơi chỉ để miếng vải trắng nhỏ (từ 05 cm đến
50
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
01 m) lên ngực người chết (xã Ô Lâm, Tri Tôn). làm lễ di quan (sau đó quan tài được di chuyển từ
Trên miếng vải này,Acha Duky viết dòng chữ với ý nhà đến chùa), rồi tiến hành thiêu hay chôn là do
nghĩa căn dặn linh hồn người chết đừng đi xa, nên Hòa thượng là người quyết định”.
ở yên một chỗ. Tiếp theo,Acha Duky tiến hành lấy
TạiAn Giang không có bán quan tài của người
03 đoạn chỉ buộc ở 03 nơi của thi hài: buộc ngang Khmer như ở Trà Vinh, SócTrăng mà chỉ có một số
cổ (tượng trưng cho con); buộc ngang rốn (tượng chùa đóng quan tài làm từ thiện như: chùa Svayton,
trưng cho vợ/chồng); buộc ngang bàn chân (tượng chùa Sà Lôn (hiện nay chùa Sà Lôn không còn
trưng cho tài sản). Với quan niệm người chết còn đóng quan tài làm từ thiện nữa) hay quan tài được
03 vướng bận: bận vợ/chồng; bận con cái; bận tài đóng tại nhà, tại chùa.
sản. Hiện nay, người Khmer huyện Châu Thành
Điều lưu ý rằng, ở mỗi chùa đều đóng quan
tỉnhAn Giang còn giữ tục lệ này, còn người Khmer tài chuẩn bị sẵn cho các vị sư sãi có tuổi khá cao;
huyện Tri Tôn, Tịnh Biên tỉnh An Giang không đối với gia đình khá giả, người ta thường đóng
thực hiện tục lệ này nữa, do họ nghĩ rằng chết là quan tài chuẩn bị sẵn cho ông bà, cha mẹ khi tuổi
bỏ hết mọi ràng buộc ở trần gian.
đã cao; ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn,
Theo quan niệm của người Khmer, trước khi nào có người mất, người ta mới tiến hành đóng
lúc nhập quan để đi thổ táng hoặc hỏa táng, Acha quan tài hay đi xin quan tài từ thiện.
Duky là người xem giờ “Giờ tốt là giờ chẳn như:
09 giờ đúng, 10 giờ đúng, 11 giờ đúng. Nguyên
Quàn, viếng:
Sau khi thi thể đã để vào quan tài và đóng nắp
tắc để định giờ tốt là coi tuổi con để chọn giờ. Tuy lại, phía trên đầu quan tài người ta đặt cờ phướn
nhiên, không nhất thiết là con cả mà con thứ hay (Tong Prolung) còn gọi cờ cá sấu được làm bằng
con út cũng được. Bởi vì, nhiều khi con cả đi làm vải trắng có chiều dài khoảng 01 m.
ăn và không phân biệt là trai hay gái” [6, tr. 72].
Ngoài ra, hai đầu và chính giữa quan tài người
Đối với gia đình khá giả, trong lúc quấn thi ta thắp 03 cây nến tượng trưng cho Phật/Đức Phật
thể đưa vào quan tài người ta thường để thêm các (Pras Puth), Pháp/kinh sách nhà Phật ((Pras tho) và
thứ như: bông hoa, trà hay bông gòn (để tránh mùi Tăng/tu sĩ Phật giáo (Pras son). Các cây nến này
hôi phát ra từ thi thể) và các vật dụng, quần, áo khi cứ thay nhau đốt cho đến khi quan tài đem thiêu
người quá cố sử dụng lúc còn sống. Ở những gia hay chôn. Tùy theo gia cảnh, điều kiện mỗi gia
đình có hoàn cảnh khó khăn, người ta dùng chiếu đình mà quan tài lưu lại ở nhà từ 01 hoặc 03 đêm.
để quấn xác tử thi và mang theo một số vật dụng
Kế tiếp, người thân dọn cúng cho người chết
sinh hoạt mà lúc còn sống người quá cố đã sử dụng. gồm: 01 chén cơm trắng, 01 chén nước, 01 chén
Khi đi an táng người Khmer An Giang cũng bánh và 01 chén thịt, tượng trưng cho "tứ đại" (gió,
coi ngày giờ. “Việc tang mỗi tháng có 4 ngày kỵ: nước, lửa, đất). Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và
Thứ ba, chủ nhật, ngày 02 và ngày 16 Âm lịch (theo sự thống nhất giữa gia đình và Acha hay người đã
lịch Khmer). Nếu ngày đưa người chết đi hỏa thiêu/ mất có tâm nguyện lúc còn sống là chôn hay thiêu.
chôn mà trùng ngày kiêng kỵ nêu trên thì cũng có Cho dù chôn hay thiêu thì người Khmer đều đem
cách xử lý. Đó là người ta chọn giờ để di quan, chỉ người thân (người chết) của mình vào chùa. Nếu
có 02 giờ trong ngày đó là: 06 giờ sáng và 13 giờ thiêu, gia đình cử người đến chùa để thống nhất
chiều” [6, tr. 78]. Tuy nhiên, việc coi ngày giờ tiến với bộ phận thực hiện công việc hỏa thiêu về giờ
hành chôn/ thiêu người chết cũng có quan niệm hỏa táng cũng như các vật dụng dùng khi thiêu;
khác nhau. Theo Hòa thượng Chau Sơn Hy (Trụ còn chôn thì gia đình đến gặp Sư cả của chùa ở
trì chùa Sà Lôn theo hệ chi phái Thommazut) cho nơi đang sinh hoạt để xin được chôn tại chùa. Ở
biết: “Việc coi ngày, giờ chôn/ thiêu doAcha Duky An Giang phần nhiều gia đình không chôn người
ở chi phái Mahanikay quyết định; đối với chi phái chết dưới đất của chùa mà để quan tài trong hộc
Thommazut thì việc xem ngày, giờ để thiêu/ chôn phía dưới tháp cốt (Chet day) rồi dùng ximăng bịt
rất ít diễn ra. Thông thường việc thiêu/chôn xem kín lại. Việc làm này với quan niệm để người chết
hay không xem giờ thì khoảng 08 giờ sáng bắt đầu thường xuyên được nghe kinh Phật. Ngoài ra, việc
51
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
chôn hoặc xây tháp cốt người chết trong chùa mà sợi dây Sbau phleang từ người con gái trưởng
không chôn hay xây tháp cốt gần nhà là sợ người hay cháu gái trưởng mà không phải là con trai là
chết về dọa người sống, chủ yếu là con cháu và trẻ do người Khmer có quan niệm con gái là con của
con (quan niệm chiếm số ít trong đồng bào Khmer mình, con trai là con của người ta. Vì khi lập gia
An Giang).
Động quan, di quan, hỏa/thổ táng:
đình, thông thường người nam sang nhà người nữ
ở; còn người con gái đi lấy chồng vẫn ở bên nhà
Trước khi di quan, người ta làm lễ di quan. cha mẹ ruột của mình.
Sư sãi tụng kinh Tri Điệu (Thom son vêk) người
Trong quá trình di quan, bốn sư sãi đứng 4
chết trong khúc nhạc Ngũ âm buồn và Acha Duky góc quan tài tụng 7 bài kinh cầu siêu. Khi kiệu bắt
làm lễ Otarapa (5 điều quán tưởng). Trong khi thực đầu di chuyển tiến về phía trước, trẻ con thay nhau
hiện lễ tụng, Acha Duky và các Acha Ph’luk tay ngồi xếp hàng thành một hàng dài để kiệu khiêng
cầm hương hoặc nến đang cháy đi ba vòng quanh ngang qua đầu (Đối với kiệu quan tài, việc làm này
quan tài theo chiều ngược chiều kim đồng hồ và tượng trưng cho chiếc cầu đưa linh hồn về cõi Niết
miệng đọc kinh Otarapa. Sau khi các Acha dứt lời bàn hay là sự đền đáp hiếu hạnh của con, cháu đối
thì những người nam giới (bộ phận khiêng quan với người quá cố; đối với kiệu nhà sư, việc làm này
tài) nâng quan tài lên và khiêng ra đặt trên xe bò mang đến phước lành, bình an cho những đứa trẻ).
hay xe cải tiến hoặc khiêng đi bộ đến nơi an táng
Trường hợp người ta dùng xe cải tiến để di
(hiện nay còn có một số nơi, khi di quan người ta chuyển kiệu sư, kiệu quan tài, thì việc xếp hàng
khiêng quan tài và kiệu nhà sư đi bộ đến chùa như: ngồi để kiệu quan tài, kiệu sư đi ngang qua được
chùa Phnômpi Lơ, Phnômpi Conh Dal, Phnômpi diễn ra ngay trong chánh điện ở chùa. Khi tới
Krom thuộc Tri Tôn).
chùa, không chỉ những trẻ nhỏ mà những người
Khi tiễn đưa linh cửu đến nơi hỏa táng hay thổ lớn tuổi không phân biệt họ hàng hay không họ
táng, dẫn đầu đoàn đám ma là người đánh trống và hàng với người quá cố xếp hàng ngồi phía trước
dàn nhạc Ngũ âm hay dàn nhạc đám ma; kế tiếp chánh điện để chờ kiệu của sư và kiệu quan tài
Acha Duky (cầm cờ hồn, hương đèn và chiếc nồi (khi đến chùa người ta khiêng phần chân quan tài
đất buộc dây trên đầu cây gậy, ngụ ý đời người vào trước) khiêng ngang qua và lúc bấy giờ kiệu
mong manh như chiếc nồi đất vỡ lúc nào cũng sư và kiệu quan tài được khiêng đi 03 vòng chánh
không biết); tiếp kế là kiệu nhà sư; theo sau là con/ điện. Dưới sự hướng dẫn của Acha Duky, người
cháu gái trưởng (người này đầu đội thúng Tean’bôn ta khiêng quan tài đặt ở nhà quàn và Phật tử lúc
cầm di ảnh người chết và mang theo thúng lúa này tập trung lại, giữ trật tự rồi thỉnh các sư tụng
rang hoặc bắp nổ. Đối với gia đình khá giả ngoài kinh cầu siêu cho người quá cố. Mục đích của việc
lúa rang hay bắp nổ người ta còn để thêm những tụng kinh này nhằm để dẫn dắt linh hồn người quá
tờ bạc từ 1.000 đến 2.000 đồng rải trên đường di cố về Niết bàn.
quan); kế đến là họ hàng thân thuộc; tiếp đến quan
tài và cuối cùng là đoàn người đưa tiễn.
Sau khi rước linh cửu đi vòng quanh chánh
điện 03 lần, quan tài được đưa vào nhà thiêu hoặc
Từ kiệu nhà sư đến quan tài được nối bằng đem đi chôn.
01 sợi dây Sbau phleang (xưa làm bằng cỏ tranh
Trường hợp hỏa táng: Khi quan tài được đưa
hay rơm, nay làm bằng nylon). Việc nối sợi dây vào lò thiêu, lửa bắt đầu cháy, nghi thức tu báo hiếu
nói trên với quan niệm nhờ sư dẫn đường đưa linh được tiến hành. Các nhà sư tiến hành làm lễ xuống
hồn người chết lên Niết bàn. Tuy nhiên, cũng có tóc, phát cà sa cho người con trai hoặc cháu trai ai
nơi (chùa Sài So thuộc Núi Tô huyện Tri Tôn) sợi muốn tu báo hiếu (người này có thể tu luôn hoặc
dây Sbau phleang được nối từ người con gái hoặc chỉ tu nửa ngày). Tuy nhiên, việc làm lễ xuống tóc
cháu gái trưởng (người đội thúng Teant’ bôn và hay phát áo cà sa có địa phương làm ngay lúc khi
cầm di ảnh) đến quan tài. Ý nghĩa của việc làm hỏa táng, có địa phương làm trước khi hỏa táng
này với quan niệm: cha mẹ chết rồi, mọi chuyện nhưng phải cùng trong ngày hỏa táng. Khi xác cháy
còn lại để cho con cái lo liệu. Nguyên nhân cột được phân nửa, người chịu lễ xuống tóc được đưa
52
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
lên chùa lạy tượng Phật Thích ca, đến khi thiêu người chết. Nếu người chết là cha, mẹ thì trang thờ
hoàn tất, người ta làm lễ hoàn tục, cậu con trai đó để giữa nhà; nếu là anh chị, em thì để bên hông
trở về cuộc sống bình thường. Nếu người con trai nhà. Tùy theo kinh tế của gia đình mà lễ cúng được
đã đi tu trước khi gia đình có người thân qua đời long trọng hay đơn giản.
thì sẽ không có nghi thức này.
Sau khi chôn vài năm, gia đình làm lễ giã cốt
Khi lửa tàn, xác đã cháy hếtAcha Duky đánh cho người đã quá cố. Người Khmer quan niệm nếu
03 tiếng còng cho con cháu người quá cố đến nhặt chết mà không được hỏa táng thì linh hồn người
xương. Những mảnh xương chưa được cháy hết chết không được đầu thai, cứ lẩn quẩn quanh xóm
còn sót lại trong đám tro than, sau đó người ta làng, chỉ khi nào được làm lễ giã cốt thì mới đầu
đem rửa bằng nước dừa. Người Khmer tin rằng, thai kiếp khác. Chính vì vậy, dù cho gia đình có
nước dừa là loại nước tinh khiết, rửa xương cốt khó khăn đến mấy, sau khi chôn cũng phải dành
bằng nước dừa khi đầu thai người đó được sạch dụm tiền để làm lễ giã cốt cho người đã quá cố.
sẽ và tinh khiết. Họ để xương tro vào hủ (kott) Lễ giã cốt được tiến hành sau khi chôn từ 02 đến
và mang gửi ở trong Tháp cốt ở chùa. Mục đích 05 năm nhưng phần nhiều khoảng 03 năm người
người Khmer An Giang thường xây dựng tháp để ta làm lễ giã cốt (bonlesop).
gửi hài cốt người thân ở chùa là họ mong người
Theo Hòa thượng Chau Sơn Hy: “Trước đây
thân đã qua đời ngày ngày được nghe kinh Phật. người Khmer An Giang phần đông do kinh tế khó
Tuy nhiên, cũng có một số gia đình hiện nay xây khăn hay vì nhiều lý do khác, nên khi chết người
tháp cốt ở đất nhà.
Khmer phần nhiều đem chôn hơn là thiêu, nhưng
Trường hợp thổ táng: Người KhmerAn Giang ngày nay thì thiêu nhiều hơn chôn”. Lễ giã cốt
chôn người chết đầu thường quay về hướng núi được xem là lễ lớn đặc trưng trong tang ma của
(hướng Tây), vì họ quan niệm đó là hướng Niết người Khmer An Giang. Từ năm 1975 đến năm
bàn (Thane sua). Trước đây người Khmer thường 2000, sau khi chôn người thân khoảng từ 2 đến
chôn ở gần nhà, họ chọn những gò đất cao ráo để 3 năm người Khmer An Giang thường làm lễ giã
chôn và thường cất mái che cho người chết nhưng cốt tập thể ở chùa.
ngày nay họ thường chôn trong chùa hoặc để trong
Trước đây, do đời sống của người Khmer phần
tầng rỗng phía dưới của các tháp cốt rồi dùng gạch, nhiều còn khó khăn nên hàng năm trụ trì ở chùa có
ximăng bịt kín lại.
2.2.2. Nghi thức sau hỏa/ thổ táng
thông báo giờ, ngày, tháng làm lễ giã cốt tập thể
tại chùa, vì vậy, gia đình nào muốn làm lễ giã cốt
Trường hợp hỏa táng: Sau khi hỏa thiêu, gia tập thể cho người thân của mình thì đem hài, cốt
đình tiến hành làm lễ đại Dâng phước (oppaset). Lễ của người thân đã quá vãng đến chùa để thực hiện.
này chỉ dành cho người hỏa táng (người thổ táng Trước đây, thông thường lễ giã cốt tập thể thường
không cử hành lễ này). Đám phước chỉ tổ chức được diễn ra tại chùa vào mùa khô; tuy nhiên, trong
một lần duy nhất sau khi thiêu. Vì vậy, tùy theo thời gian khoảng 05 năm gần đây phần nhiều các
điều kiện kinh tế gia đình mà người ta tổ chức long chùa ở An Giang không còn làm lễ giã cốt tập thể
trọng hay giản đơn. Thông thường người Khmer nữa, thay vào đó là làm lễ giã cốt riêng lẻ.
An Giang tổ chức lễ này kéo dài 02 ngày, 02 đêm.
Nguyên nhân là do đời sống kinh tế của người
Trong 02 buổi tối, gia đình tang chủ thỉnh mời các Khmer An Giang có phần khởi sắc hơn trước nên
sư đến cầu siêu, cầu an. Buổi sáng ngày đầu gia sau khi chết, họ hỏa táng nhiều hơn thổ táng. Bên
đình cúng cơm cho các sư, buổi sáng hôm sau gia cạnh đó, có một số chùa vẫn còn giữ tục lệ giã cốt
đình tiến hành làm lễ đem cốt người chết lên chùa. tập thể như trước đây, cụ thể là: Chùa Văn Râu ở
Khi lên chùa, họ mang theo mân cơm để cúng cho Văn Giáo (Tịnh Biên) hay một số chùa thuộc xã
sư và nhờ sư hướng dẫn để đưa hài cốt vào tháp.
Trường hợp thổ táng: Buổi tối sau khi chôn các chùa này thông thường 02 năm diễn ra một lần.
cất, gia đình mời sư đến cầu siêu, cầu an. Lúc này, Qui trình làm lễ giã cốt thường diễn ra 3 ngày
Acha Duky hướng dẫn gia đình làm nơi thờ phụng và 2 đêm.
Ô Lâm, huyện Tri Tôn nhưng lễ giã cốt tập thể ở
53
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
Ngày thứ nhất: Gia đình chuẩn bị mọi thứ có người chết và con cháu xin được cởi bỏ khăn tang
liên quan trong việc thực hiện lễ giã cốt. (xả tang). Sau đó, ông Acha đọc kinh, vẩy nước
Ngày thứ hai: Gia đình tiếp khách, cúng và cầu chúc phước cho họ được tự do làm theo
dường và mời sư làm lễ An vị Phật.
Ngày thứ ba: Gia đình tiếp khách, cúng dường
và mời sư thuyết pháp.
nguyện vọng của mình.
Lễ Giỗ (Banh Khnop): Sau khi người thân
mất đúng giáp năm, gia đình tiến hành làm lễ cầu
2.2.3. Các nghi thức thờ cúng sau đám tang phước cho người chết. Cũng giống như lễ 100
Theo phong tục truyền thống, người Khmer ngày, lễ giỗ được diễn ra lớn hay nhỏ tùy thuộc
không làm lễ giỗ cho người chết như người Việt, vào hoàn cảnh của mỗi gia đình. Đối với gia đình
người Hoa mà hàng năm họ làm lễ cúng người khá giả, thường tổ chức một ngày và một buổi
chết vào dịp tết Chol Chnam Thmay và lễ Senh sáng (ngày thứ 1, vào buổi trưa gia đình thỉnh
Dolta. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh của gia đình sư đi chay tăng và tiếp khách; tối lại mời sư đến
mà việc thờ cúng người chết được diễn ra cũng có tụng kinh, cầu siêu và tiếp khách; sáng ngày hôm
phần khác nhau.
sau lại dâng cơm cho sư và tiếp khách); gia đình
Theo Hòa thượng Chau Sơn Hy: “Ít nhất đời nghèo chỉ tổ chức một buổi sáng, họ mời sư đến
người khi chết rồi làm 03 lễ, đó là: Lễ Banh da (lễ tụng kinh, cầu siêu và một ít người thân trong
dâng phước sau khi chôn được 07 ngày); lễ Banh dòng họ đến tham dự.
Khuap (dâng phước sau khi chôn 100 ngày); lễ
Lễ Cầu siêu (Banh Skol): Lễ cầu siêu thường
giáp năm”. Vì vậy đối với gia đình khó khăn, khi được diễn ra không ấn định ngày đối với gia đình
làm xong 3 lễ trên thì hàng năm người ta thờ cúng khá giả, còn đối với gia đình khó khăn người ta
người chết vào dịp tết Chol Chnam Thmay và lễ thường tổ chức lễ cầu siêu vào dịp tết Chol Chnam
Senh Dolta; đối với gia đình khá giả, ngoài làm Thmay. Lễ này được tổ chức tại nhà mời sư sãi đến
xong 03 lễ trên, hàng năm gia đình cũng tổ chức tụng kinh hoặc gia đình tập trung lên chùa.
lễ giỗ như người Việt, Hoa”.
Lễ cầu siêu được tổ chức vào ngày thứ 3 trong
Lễ Dâng phước (Banh da): Sau khi người thân dịp tết Chol Chnam Thmay. Sáng sớm, tất cả mọi
hỏa táng hoặc thổ táng được 7 ngày, gia đình tổ người trong Phum, Sóc đều lên chùa và không
chức làm lễ Dâng phước cho người quá cố (Banh quên mang theo lễ vật, cơm canh. Sau khi họ tập
da). Lễ được tổ chức tại nhà, tùy theo khả năng trung cùng sư sãi tham dự lễ tụng kinh, cầu siêu tại
kinh tế gia đình mà được tổ chức lớn nhỏ, mời chánh điện xong, họ mời các vị sư sãi dùng cơm.
khách đông hay ít. Lễ thường tổ chức vào 1 đêm Một số gia đình còn mời sư sãi đến tháp đựng hài
và 1 buổi sáng.
cốt người thân hay người quá cố được chôn trong
Buổi tối họ làm lễ Tam bảo, thọ ngũ giới mời chùa để cầu siêu cho người quá vãng.
sư sãi đến tụng kinh rồi gia chủ dâng nước, trà cho
Lễ Cúng ông bà (Banh Senh Dolta): Lễ Senh
sư. Sáng hôm sau gia chủ mời các vị sư đến tụng Dolta được xem là lễ lớn thứ 2 trong năm, sau tết
kinh cầu siêu, cầu phước, sau đó gia chủ dâng lễ Chol Chnam Thmay của người Khmer ĐBSCL.
vật lên chùa.
Tuy nhiên riêng người Khmer An Giang quan
Lễ 100 ngày (Banh Khuap): Sau khi người niệm rằng tết Chol Chnam Thmay chủ yếu dành
thân mất 100 ngày, người ta tổ chức làm lễ Banh cho thanh, thiếu niên, còn lễ Senh Dolta là ngày
Khuap cho người đã mất. Lễ này không khác so với lễ dành cho tất cả mọi người, từ già đến trẻ. Vì
lễ Banh da nhưng quy mô khách đến tham dự đông vậy, lễ Dolta ở người Khmer An Giang được tổ
hơn. Tùy theo gia cảnh của mỗi người mà làm lớn chức lớn hơn so với người Khmer các nơi khác
hay nhỏ. Đối với gia đình khá giả, thường tổ chức như: Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu,.. Hàng năm
một ngày và một buổi sáng; đối với gia đình khó lễ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 29/8 đến
khăn chỉ tổ chức một buổi sáng. Phần quan trọng ngày 1/9 âm lịch. Lễ mang ý cầu siêu, cầu phước
của lễ này là sau khi cúng xong ông Achar hướng cho linh hồn ông bà, cha mẹ và người thân đã
dẫn con cháu đốt nhang cầu nguyện cho linh hồn quá cố.
54
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
2.3. Một số thay đổi phong tục truyền thống
trong tang ma và thờ cúng người chết của người
Khmer An Giang hiện nay
loa và cho phát băng (dot) để trước cửa nhà điều
mà trước đây không có và sợi dây sbau phleang
trong lễ di quan trước đây làm bằng cỏ tranh nay
là sợi dây nylon.
Thay đổi trong tang ma: Do việc tổ chức
tang lễ cũng như việc thờ cúng tổ tiên theo kiểu
truyền thống rất tốn kém về thời gian, tiền của
nên người Khmer An Giang giảm lược và bớt đi
các nghi thức rườm rà như: nghi thức đâm thủng
quần áo người chết; nghi lễ giã cốt được giảm
bớt thời gian (qui trình làm lễ giã cốt trước đây là
03 ngày nhưng hiện nay chỉ còn 02 ngày. Ngày
trước: Gia đình chuẩn bị mọi thứ có liên quan
trong việc thực hiện lễ giã cốt; ngày sau: gia đình
tiếp khách; cúng dường và mời sư làm lễ An vị
Phật, lễ thuyết pháp).
Thay đổi trong cách quan niệm về cái chết:
Trước đây người Khmer quan niệm những cái chết
không bình thường (chết do tai nạn giao thông,
chết khi mang thai, chết trôi... ) thì không được an
táng như những người chết bình thường (thường
đem chôn cất ở bìa rừng hoặc có nhiều hình thức
dị đoan kiêng kỵ kèm theo). Theo ông Chau Kuôn
cho biết về trường hợp trừ tà, dị đoan đối với cái
chết không bình thường (trường hợp người phụ nữ
mang thai chết) như sau: “Khi quan tài mà người
chết là người phụ nữ mang thai đem đi an táng và
sắp đi ngang nhà có phụ nữ đang mang thai, thì lúc
này trong gia đình người phụ nữ đang mang thai
đem muối, gạo rải trước cửa nhà của mình. Mục
đích của việc làm này là mong linh hồn người chết
không vào nhà để quấy phá người phụ nữ mang
thai, làm động thai hay bắt người phụ nữ ấy chết
theo”. Tuy nhiên, hiện nay việc do tai nạn giao
thông mà chết, hoặc do mang thai mà chết người
Khmer cho là bình thường và ít làm những điều dị
đoan, trừ tà như trước đây.
Về cách thức thiêu/chôn cũng có thay đổi:
Trước đây người Khmer An Giang có tập tục hỏa
táng nhưng đối với người Khmer Tịnh Biên, Tri
Tôn vẫn duy trì tập quán chôn người chết và làm lễ
giã cốt sau ba năm chôn cất, nhưng hiện nay người
KhmerAn Giang ở Châu Thành, Châu Phú, Thoại
Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn phần nhiều đều hỏa táng.
Nguyên nhân là do đời sống kinh tế và công việc
hỏa thiêu tiện lợi hơn trước, cộng thêm tình trạng
dân cư đông đúc nên đất cư trú và đất mộ táng ngày
càng khan hiếm. Ngoài ra, trước đây thiêu ngoài
trời gây ô nhiễm nay mỗi chùa đều có lò thiêu, tuy
vẫn sử dụng củi là chính.
Thay đổi trong việc thờ cúng cho người chết:
Trước đây người Khmer chỉ thờ cúng ông, bà, cha,
mẹ người thân ở trong chùa nhưng hiện nay có
nhiều gia đình làm bàn thờ ông bà, cha mẹ ở nhà.
Người Khmer ở Châu Thành, Thoại Sơn cúng
người đã mất hàng ngày từ khi thiêu/chôn đến
100 ngày, tùy khả năng kinh tế, có gì cúng đó.
Bên cạnh đó, có một số gia đình Khmer sống gần
người Kinh, Hoa cũng tổ chức làm tuần (thất), cứ
7 ngày/1 lần, cho đến 49 ngày (bảy thất), rồi đến
100 ngày làm lễ Banh khuap.
3. Kết luận
Lễ tang là một sự kiện trọng đại đánh dấu sự
chuyển đổi của con người từ thế giới vật chất sang
thế giới tinh thần. Lễ tang của người Khmer An
Giang thể hiện đậm đà bản sắc của một tộc người có
nền văn hóa lâu đời, hòa hợp cả Bà La Môn giáo và
Phật giáo Nam tông. Sự giao thoa giữa các nền văn
hóa của người Kinh, Hoa ở An Giang thể hiện qua
lễ tang và thờ cúng người chết của người KhmerAn
Giang đã tạo ra một bản sắc văn hóa truyền thống
độc đáo của họ, góp phần làm phong phú thêm cho
nền văn hóa truyền thống Việt Nam đó là một nền
văn hóa “thống nhất trong sự đa dạng”./.
Ngoài ra, trước đây người Khmer không có
tục để tang nhưng hiện nay họ vẫn có tục thọ tang
100 ngày và cũng mang tang trắng, mặc tang phục
như người Kinh, người Hoa. Bên cạnh đó, việc báo
tin gia đình có người qua đời, người Khmer dùng
Tài liệu tham khảo
[1]. Ban Dân tộc tỉnh An Giang (2018), Báo cáo “Kết quả thực hiện công tác dân tộc và các chính
sách dân tộc”, tháng 7/2018.
[2]. Ban Tôn giáo tỉnhAn Giang (2018), Báo cáo của “Quản lý nhà nước về tôn giáo", tháng 7/2018.
55
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
[3]. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ người Khmer Nam Bộ, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
[4]. Mai Ngọc Diệp (2008), Tang ma của người Khmer An Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer vùng ĐBSCL, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Văn Lữ (2007), Những nghi lễ vòng đời chủ yếu của người Khmer xã Châu Lăng,
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
[7]. Thiện Minh (2014), Giáo trình lược sử Phật giáo Nam tông Việt Nam, NXB Hồng Đức.
[8]. Nguyễn Thị Hoàng Phượng (2017), “Tìm hiểu sự giống và khác nhau giữa lễ hội dân gian
của người Khmer An Giang và người Khmer Sóc Trăng”, Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Số
28, 10-2017, tr. 55-58.
[9]. Nguyễn Ngọc Tùng, Hoàng Thị Lan (2004), “Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội
khu vực đồng bào Khmer Tây Nam Bộ”, Vấn đề tôn giáo ở khu vực đồng bào Khmer Tây Nam Bộ hiện
nay, Đề tài cấp Bộ - Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.1-14.
THE KHMERS’ OBSEQUISE IN CURRENT THERAVADA BELIEF
IN AN GIANG PROVINCE
Summary
The obsequie is one of the human lifecycle ceremonies practiced by a great number of nations in
the world. This article discusses The Khmers' obsequise in Theravada belief in An Giang province with
those ceremonies during and post-obsequise. The article also presents the changes in current obsequies
and ancestral worship among the Khmer in An Giang province.
Keywords: Obsequise, Theravada belief,An Giang Khmers, Thommazut school, Mahanikay school.
Ngày nhận bài: 19/11/2018; Ngày nhận lại: 10/01/2019; Ngày duyệt đăng: 15/2/2019.
56
Bạn đang xem tài liệu "Tang lễ của người Khmer theo Phật giáo Nam tông ở tỉnh An Giang hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tang_le_cua_nguoi_khmer_theo_phat_giao_nam_tong_o_tinh_an_gi.pdf