Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở Phú Yên (Năm 1900)
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
Bài nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở
Phú Yên (năm 1900)
Nguyễn Văn Giác*
TÓM TẮT
Trong bối cảnh gia tăng chính sách khai thác thuộc địa của chế độ thực dân, tiếp sau thời kỳ đấu
tranh chống Pháp rầm rộ bởi sự quy tụ các trung tâm kháng chiến trên phạm vi cả nước, một số
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
địa phương cũng quật khởi vùng lên, trong đó có cuộc nổi binh do Võ Trứ và Trần Cao Vân lãnh
đạo ở Phú Yên.
Do nguồn tài liệu tại chỗ hiếm hoi, lại chịu sự chi phối của những nhận thức dân gian một cách
đậm nét, các nghiên cứu trước nay về sự kiện phần nhiều thiếu chân xác, tùy tiện suy diễn hoặc
mang tính sao chép, rập khuôn, ví như về ngọn cờ mang tên ``Minh Trai chủ tể'', về hình thức dung
hợp tôn giáo hoặc thậm chí lý tưởng đạo Phật, về lực lượng tham gia, về thân thế các lãnh tụ…
Trên cơ sở nguồn sử liệu mới vừa được cập nhật, bài viết tiến hành phê phán các tài liệu trước nay,
đồng thời đưa ra các kiến giải hợp lý với sự xác lập một vài nhận thức mới về vấn đề: Võ Trứ không
phải xuất thân từ sư tăng cũng như ông và phần đông nghĩa đảng không phải ``giặc thầy chùa'';
chùa Từ Quang/Đá Trắng không phải là đại bản doanh hay cơ sở chính để chiêu tập lực lượng của
cuộc nổi dậy; Võ Trứ và Trần Cao Vân chính là hai thủ lĩnh nhà Nho nhiệt huyết đứng ra vận động
cuộc kháng Pháp, từ đó cuộc khởi nghĩa mang tên hai ông là sự tiếp nối phong trào Cần vương ở
Phú Yên và cả nước nói chung.
Đây cũng chính là hoạt động sử học thiết thực góp phần phục dựng sự kiện quan trọng này một
cách tiệm cận hơn với sự chân xác của lịch sử.
Từ khoá: Võ Trứ, Trần Cao Vân, Phú Yên, Tòa sứ Sông Cầu
Trần Cao Vân ở Phú Yên 1898 (2004) của Nguyễn Văn
ưởng, Võ Trứ và cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú
Yên (2009) của Đào Nhật Kim, Lịch sử Phú Yên thế
kỷ XIX (2009) của Đỗ Bang - Lê ế Vịnh (chủ biên),
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khởi đầu thế kỷ XX trên vùng đất Phú Yên được đánh
dấu bằng sự bùng phát một cuộc bạo động đặt dưới
quyền tổ chức và chỉ huy của hai vị thủ lĩnh Võ Trứ -
Trần Cao Vân, mà do cái chết có phần nổi tiếng của
nhân vật thứ nhất nên lịch sử thường gọi tên một cách
không đầy đủ là khởi nghĩa Võ Trứ.
Đã 120 năm trôi qua với khá nhiều truyện chép cùng
các công trình biên khảo xung quanh sự kiện quan
trọng này, không tính một vài trang tài liệu lưu trữ
của Chính quyền thực dân đương thời, trong số đó
theo trình tự thời gian có La province de Phu-yen
(1929) của Albert Laborde, Cụ Trần Cao Vân (1952)
của Hành Sơn, Giặc ầy Chùa hay là cuộc khởi nghĩa
năm 1898 ở Phú Yên (1959) của Nguyễn Tử Quang,
Nhân vật Bình Định (1971) của Đặng Quý Địch; và
khoảng từ hai mươi năm trở lại đây với Võ nhân Bình
Định (2001) của Quách Tấn - Quách Giao, Võ Trứ và
cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên (2001) của Trần Đình ân,
Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo qua các triều
đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo
Đại 1945 (2003) của Lý Kim Hoa, Huyền thoại về Võ
Trứ và Trần Cao Vân trên đất Phú Yên (2003) của Trần
Lịch sử Phú Yên từ năm 1900 đến năm 1930 (2010)
của Nguyễn Văn Nhật (chủ biên), Cuộc khởi binh nâu
sồng và Võ Trứ (2010) của Trần Xuân An, Dung hợp
dân tộc, tôn giáo trong cuộc khởi nghĩa Võ Trứ và Trần
Cao Vân những năm cuối thế kỷ XIX (2013) của Ngô
Minh Sang.
Đáng chú ý là sau một thời gian có hơn mươi năm
chuẩn bị tương đối kỹ lưỡng, năm 2014 Viện Sử học
tiến hành công bố trọn bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập
và gần như tức thì được tái bản vào năm 2017. Tuy
nhiên, riêng phần lịch sử có liên quan đến cuộc khởi
nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân vẫn chưa cập nhật các
tư liệu hoặc nghiên cứu mới. Tính chất và ý nghĩa của
sự kiện chỉ được xác định giản lược trong một dòng
duy nhất rằng “Cuộc khởi nghĩa thất bại ghi một dấu
son trong lịch sử kháng Pháp của đồng bào các tỉnh
Nam Trung Kỳ nói riêng, của nhân dân Việt Nam nói
nhận thức về sự kiện lịch sử này càng tỏ ra mặc định
Trường Đại học ủ Dầu Một
Liên hệ
Nguyễn Văn Giác, Trường Đại học Thủ Dầu
Một
Email: vanjack.nguyen@gmail.com
Lịch sử
• Ngày nhận: 7/07/2020
• Ngày chấp nhận: 17/3/2021
• Ngày đăng: 30/4/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.649
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Trúc Lâm, Góp phần tìm hiểu cuộc khởi nghĩa Võ Trứ, thêm hơn.
Trích dẫn bài báo này: Giác N V. Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở
Phú Yên (năm 1900). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):966-974.
966
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
Cũng cần kể thêm rằng, liên quan đến nhân vật lịch Điều tra của lý dịch thôn Nhơn Ân, huyện Tuy Phước,
sử Võ Trứ còn có tập khảo lục Văn thơ trên đất Tây tỉnh Bình Định trong một cáo bẩm lên quan tỉnh đầu
Sơn quật khởi (2005, Nxb. Văn học) của Nguyễn Hồng năm 1899 cho biết “Võ Trứ nguyên là dân thôn này,
Sinh trình bày cả một phả hệ anh tài, xuất chúng của ngụ ở thôn Quảng Vân, năm trước [khoảng 1891-
dòng họ Nguyễn miền Trung, tuy nhiên quá nhiều sự 1892] từng làm lý trưởng, kế làm thủ chỉ nhũng lạm.
kiện lồng ghép khác xa sự thật lịch sử đã tự nó phế bỏ Năm ành ái thứ 5 [1893] thôn này đệ đơn thưa
tính cách cứ liệu của mình, dù rằng trong số các công lên huyện, tên này trốn đi nơi khác, thôn này có xin
trình nghiên cứu kể trên, vẫn có những lượm lặt từ giấy chứng để chấp chiếu. Năm ngoái [1898] nghe nói
đây để phục trang cho sự bóng bẩy, truyền kỳ.
viên tri nguồn Hà anh có bắt giải nạp [Võ Trứ],
Nhìn chung, mức độ kế thừa của các công trình huyện Tuy Phước gọi thôn ấy khai kết. áng 10
nghiên cứu hoặc biên soạn về sau đối với các tập tài không biết huyện viên xét xử làm sao lại phóng thích
liệu hay ghi chép có trước là rất lớn. Trong khi đó, đi, thôn y không được rõ, còn em hắn là Võ Cạnh hiện
bản thân nguồn tài liệu ban đầu lại không mấy thuyết ở thôn ấy” [2, tr. 804]. Báo cáo của thôn Quảng Vân
phục bởi thiếu các chỉ dẫn lịch sử đương thời, ngoại thì khai rằng “Võ Trứ trước ngụ ở thôn này, có một sở
trừ La province de Phu-yen và Châu bản triều Nguyễn nhà vườn, năm ành ái nguyên niên [1889], trích
- Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 một nửa đất vườn bán cho người cùng thôn tên Nhạn,
năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945. Song, cả còn một nửa năm ành ái thứ 4 [1892] bán cho
hai tài liệu này vẫn có những khiếm khuyết đáng tiếc, tên Sửu, năm thứ 5 [1893] thì y trốn đi biệt. áng 10
hoặc sơ lược đối với trường hợp thứ nhất hoặc gián năm ngoái [tức 1898] không biết vì sao vợ con y cũng
cách đối với trường hợp thứ hai. Do vậy, các kết quả trốn đi” [2, tr. 804]. Tổng đốc Bình Phú (Bình Định -
nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân Phú Yên) đối chứng hai tờ trình trên trước người em
cho đến nay là hết sức khiêm tốn và phần lớn mang trai Võ Cạnh và cũng nhận được lời khai tương tự.
tính chất rập khuôn.
Như vậy, trước năm 1889 Võ Trứ vẫn ngụ tại quê,
không có chuyện lợi dụng sự tụ nghĩa Cần vương
nhằm mưu đồ phục hưng nhà Tây Sơn trong phong
trào kháng chiến đặt dưới cờ Mai Xuân ưởng, để
rồi sau khi bị thất bại thì che dấu danh phận bằng cách
139] hay không chịu khuất phục và “Ông trốn lên núi
cao, rồi băng ngàn vào Phú Yên, quyết gây lực lượng
để tiếp tục cuộc đánh Pháp cứu nước… Ông vào tu
trong một ngôi chùa nhỏ miền sơn cước huyện Đồng
Việc tầm sư hành đạo của Võ Trứ chỉ có thể diễn ra
từ năm 1893 trở đi, song không phải đạo Phật thuần
thành mà là đạo giáo phù thủy mang đậm tính ma
thuật. Tuy nhiên, ông cũng sẵn sàng mạo nhận mình
là tín đồ Phật gia. Trong lần bị bắt vào lúc tháng 5 năm
ành ái thứ 10 (1898), Võ Trứ khai trước huyện
viên Tuy Phước là “vì nghèo theo đạo thiền lấy bùa
thuốc bán” hay như tờ trình lên Cơ mật viện của Bố
chánh Phú Yên Nguyễn Chất dẫn lời huyện viên này
rằng “nghe hắn bệnh đi tìm nơi uống thuốc theo đạo
805, 809]. Mặt khác, Võ Trứ và nghĩa đảng không ngớt
tung ra những lời đồn thổi huyền hoặc về mình, ví
ật may mắn, lần đầu năm 2011 và lần tiếp theo năm
2012 nhà nghiên cứu Cao Tự anh cho công bố bản
dịch Việt ngữ của bộ chính sử nguyên tác Hán văn
Đại Nam thực lục Chính biên đệ lục kỷ Phụ biên chỉ
còn lại độc bản tại ư viện Viện Viễn Đông Bác cổ
Pháp quốc (EFEO), ghi chép lịch sử Đại Nam trong
quãng 28 năm, tính từ năm ành ái thứ 1 (1889)
đến năm Duy Tân thứ 10 (1916). Như vậy, bộ chính
sử này hiển nhiên chứa đựng sự kiện cuộc khởi nghĩa
Võ Trứ - Trần Cao Vân ở niên điểm Canh Tý (1900),
nếu tầm vóc của sự kiện đáng được Quốc sử quán chú
ý. Quả thực nó đã được tái hiện trên nguyên một trang
chép tay của bộ quốc sử Nguyễn triều. Nội dung ghi
chép tuy vắn tắt, song đây là trang duy nhất lưu lại
những thông tin chính thống hiếm hoi về cuộc bạo
động xảy ra vào năm mở đầu thế kỷ XX này ở Phú
Yên.
Trên cơ sở đó, phối kiểm các chứng liệu tin cậy, chúng
tôi tiến hành minh định một số vấn đề tồn nghi xung
quanh cuộc khởi nghĩa được phát động bởi hai thủ
lĩnh Võ Trứ - Trần Cao Vân như sau.
VÕ TRỨ KHÔNG PHẢI LÀ SƯ TĂNG
Ngược lại lai lịch nho sĩ - cư sĩ của một Trần Cao Vân như “sư tăng ấy [Võ Trứ] là tiên cưỡi chim bay đi ban
tương đối rõ ràng qua các cứ liệu đương thời, xuất đêm hai cánh đập nhẹ nhàng”, hay quảng bá về những
thân của Võ Trứ có khá nhiều điểm chưa được sáng tấm bùa gắn với sức mạnh siêu nhiên bởi đó là “bùa
tỏ, dù rằng Võ Trứ là thủ lĩnh vận động tiên phong, tiên, gặp cọp không sợ, đạn bắn không trúng, có trúng
trong khi Trần Cao Vân bí ẩn với vai trò quân sư nơi cũng không bị thương” để bán dưới hình thức dâng
hậu trướng. Vậy trước tiên, Võ Trứ có phải xuất thân nộp lễ vật gồm “3 gói trà và nhang cùng giấy vàng bạc”
từ tăng sĩ?
967
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
sở để gọi tên cuộc khởi nghĩa này là “Cuộc khởi binh
rằng “Một hiện tượng hy hữu trong lịch sử lao tù: đệ
tử ích Ca nằm chật các nhà lao hai tỉnh Bình Phú!”,
để tiến hành trao đổi, mua bán với đồng bào vùng
cao, thông dụng nhất là hàng khí cụ như dao, cuốc,
rựa. Đây là một lợi thế cho công cuộc vận động lực
lượng của Võ Trứ bởi việc buôn bán mà ông đang tiến
hành phù hợp với chủ trương đẩy mạnh giao lưu kinh
tế Kinh - ượng theo phương thức cửa biển - đầu
nguồn của chính quyền Nam triều, nhờ đó đã thoát
khỏi án giam cầm với tội tàng trữ vũ khí, khi quan
binh “xét nhà có 20 lưỡi dao bảy, 4 lưỡi dao hạng 7...
Khi ấy huyện viên này xét nghị rằng hiện tại phủ dụ
dân Mọi về buôn bán, qua lại trao đổi với người Việt,
các thứ dao mà Võ Văn Trứ [tức Võ Trứ] tàng trữ là
vật dùng để mua bán với người Mọi, chẳng có gì lạ
mà bọn Văn Cử [tức Trần Cử] bắt giải chẳng qua là
mưu lợi cạnh tranh thương mại mà thôi, đã gọi tấn
thủ nguồn Hà anh là Nguyễn Văn Cẩn kết tờ khai
mắt đối phương, việc hành nghề buôn của Võ Trứ, từ
bán thuốc - phát bùa đến trao đổi các loại hóa vật,
CHÙA TỪ QUANG KHÔNG PHẢI LÀ
CƠ SỞ CỦA NGHĨA ĐẢNG
Chùa Từ Quang/Đá Trắng tọa lạc trên sườn núi Xuân
Đài, cách thành Long Uyên (An ổ), mà từ năm Kỷ
Hợi (1899) trở thành phủ lỵ Tuy An, khoảng 2km về
hướng Bắc, cách tỉnh lỵ Sông Cầu khoảng 20km về
hướng Tây Nam, nằm kề sát trục đường thiên lý và
gần thương cảng Vũng Lấm tấp nập tàu thuyền với sự
kiểm soát chặt chẽ của hệ thống an ninh và thu thuế
thuộc Chính phủ thuộc địa.
Với bề dày hàng trăm năm tuổi và nổi tiếng với các bậc
danh tăng mà người khai sơn là đại hòa thượng Pháp
Chuyên Diệu Nghiêm, chùa là nơi đào luyện nhiều
hoàn toàn không tương hợp với hành trạng của một thế hệ sư tăng trụ trì cho các chùa quanh vùng và từ
bậc sư tăng nhà Phật vốn lấy điều bố thí làm tiêu chí Phú Yên trở vào Nam. Ngôi chùa cũng nổi tiếng linh
thiêng với những lần cầu tự nghiệm ứng và được nhà
Nguyễn tưởng thưởng chiếc hồng chung năm 1804 lúc
vừa mới khởi triều, vinh danh bằng một văn bia tụng
ca cảnh sắc ngoạn mục của địa phương năm 1842,
được trao tặng bức hoành quý phái từ tay hoàng thái
Nguyễn ban ngạch sắc tứ đạo hạnh vào năm ành
Trắng còn cung hiến cho hoàng triều hàng năm một
loại lễ vật không nơi nào khác sánh kịp và được xếp
vào hàng đệ nhất cống quả của vương quốc Đại Nam
là trái xoài voi, hay còn gọi “xoài tiến” với ý nghĩa cung
xoài voi hay xoài Đá Trắng, mà đôi khi triều đình Huế
trực tiếp cắt cử các vị đại quan về tận địa phương thu
mua, quan binh tỉnh Phú Yên phải thường xuyên đến
chùa để trông nom, bảo vệ vườn xoài từ lúc đơm hoa
cho đến khi thu hái, cả việc chuyển vận về Kinh.
Hơn nữa, tương truyền trong phong trào Cần vương
kháng Pháp dưới quyền lãnh đạo của Lê ành
Phương vào những năm 1885-1887, chùa Đá Trắng
từng là nơi hội họp của các vị thủ lĩnh nghĩa quân;
đồng thời tại một vị trí liền kề ngôi chùa thuộc dãy
Xuân Đài, viên tướng Bùi Giảng chỉ huy cuộc phòng
độ trì.
Chẳng những thế, Võ Trứ còn đem theo vợ con sống
chung hay gửi gắm ở các sách (buôn) người ượng.
Trong sinh hoạt ăn uống, ông cùng các đồng sự dùng
cả thịt động vật nuôi hoặc thú rừng, như tường trình
của quan binh tỉnh Phú Yên khi xâm nhập doanh trại
của Võ Trứ tại xứ Lang Phá mà từ đó đi ra có bóng
dáng tăng nhân: “thấy có 3 trại xá (mới lập), trong đó
1 trại có một bức đan tre làm bàn thờ, chung quanh có
nhiều lò bếp bằng đá và xương bò, 2 chỗ dây thừng”
mà Võ Trứ muốn khuếch trương không phải iền
tông đích thực mà thiên về pháp thuật với sự dung
hợp phương tục trong một mức độ nào đó.
Bởi vậy, các sử liệu đương thời đều gọi Võ Trứ là “gian
tăng” theo nghĩa giả làm sư/thầy chùa, như Đại Nam
thực lục chép “Gian tăng Võ Trứ dấy loạn… Quan hai
tỉnh Bình Định, Phú Yên gửi phi chương tâu lên, sai
tr. 374], hay Châu bản triều Nguyễn với bản tấu trình
của Bố chánh Nguyễn Chất lên Cơ mật viện: “nghe
đồn có gian tăng dụ Mọi gạt người cho bùa”, sau nhận
được 2 phong mật phi tư của quan tỉnh Bình Định mà
trong đó một phong “báo cáo rằng có tên Võ ản [tên
hoặc La province de Phu-yen chỉ ra “Đó [Võ Trứ] là
một nhà sư hay nhà sư giả danh, ông ta được coi như
là một pháp sư có chút danh tiếng” [6, tr. 395]. Rõ
ràng, Võ Trứ không phải là sư tăng, cũng như nghĩa
đảng được ông và Trần Cao Vân chiêu tập chỉ một số
aHành Sơn giải thích rằng: “Sau khi đám dân binh thất bại, nhà
cầm quyền Bảo hộ khám phá được rất nhiều võ khí giấu cất, phần
nhiều là thứ rựa đốn củi, và lùng bắt được một số dân binh, trong đó
phần đông là thầy chùa [người viết nhấn mạnh], nên người ta gọi giặc
năm ấy là giặc Võ Trứ hay là giặc ầy Chùa, lại có người gọi là giặc
Rựa”.
bHoàng đế iệu Trị nhận xét rằng hai loại danh quả nhất nhì xứ
Bắc là vải và nhãn cũng không thể sánh kịp xoài voi của Phú Yên.
968
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
thủ đã thiết lập một pháo đài chống trả sự phản công đó nã bắt Võ ản cùng đồng bọn và do tòa lên đường
của đối phương do Cheuvreux cùng Trần Bá Lộc cầm
đầu đến từ phía hải cảng Vũng Lấm, mà cũng chính
viên mãnh tướng này ngay sau đó đã bất ngờ phản
giáo và dốc sức phụng sự trong hàng ngũ Pháp - Nam
(Nam triều). Nếu vậy, công cuộc bình định Phú Yên
của chính quyền thực dân về sau sẽ không thể không
để mắt đến “địa chỉ đỏ” chùa Đá Trắng, khi mà tiếng
súng Cần vương lùi vào dĩ vãng chưa xa.
chận ngay các nẻo đường xung yếu, thiểm chức liền
qua đó họp cùng phủ viên tìm nhiều cách lập kế bắt
Được biết Tri phủ Tuy An Nguyễn Khải là một cộng
sự đắc lực của cơ quan mật thám Pháp, bởi thế, mọi
dấu hiệu cho thấy hoạt động của nghĩa quân Võ Trứ
diễn ra trên địa bàn Tuy An đều không dễ gì qua mặt
được y mà chùa Đá Trắng là một trong số đó.
Chính vì những lẽ trên, chùa Từ Quang luôn tập trung
sự cảnh giác và giám sát của chính quyền địa phương
đóng tại thành Long Uyên kề bên. Chắc chắn các sư
tăng chùa Đá Trắng vẫn dành những sự ủng hộ tương
thích nào đó đối với cuộc vận động kháng Pháp của
Võ Trứ - Trần Cao Vân trên tinh thần ái quốc và nghĩa
cử cao đẹp đạo - đời, song ngược lại, việc các vị thủ
lĩnh mạo muội đứng ra tổ chức những lần mật đàm
can hệ đến đại cuộc tại một nơi luôn bị rình rập bởi
tai mắt của chính quyền đối nghịch là điều tuyệt nhiên
không thể xảy ra, nhất là khi dấu vết của những mưu
toan nổi dậy đã bị phơi bày.
ật vậy, 5 Châu bản còn sót lại về sự vụ Võ Trứ có
xuất xứ từ Bố chánh - Án sát tỉnh Phú Yên và Tổng
đốc Bình Phú đều thuộc vào quãng thời gian tháng 2
và tháng 3 năm ành ái thứ 11 (1899). Đây là thời
điểm chính quyền Phú Yên bắt đầu phát hiện âm mưu
khởi loạn của nghĩa đảng Võ Trứ và ráo riết truy lùng
các thủ lĩnh cầm đầu.
Tờ trình sớm nhất lên Cơ mật viện đề ngày 15 tháng
2 cho biết: “eo Trần Kỳ Phong tri huyện huyện Sơn
Hòa bẩm nói nghe dân trong tổng Xuân Sơn ượng
hạt ấy đồn rằng có một sư tăng ở trên Mọi dùng bùa
chữa bệnh, dân Mọi nhiều người tin theo… Ngày 14
tri huyện Sơn Hòa bẩm nói ngày 13 lý trưởng thôn
Phú Giang (tổng Xuân Sơn ượng) trình nói ngày
11 có người trong làng báo biết rằng vào khoảng canh
2, đêm mùng 10 nhân đi canh tuần bắp có trông thấy
bọn Mọi đi đêm, ước chừng trên dưới 50 đứa, trong đó
có nghe 3, 4 người kẻ chợ. Chúng đi đường núi đi qua
làng rồi đi về phía Nam. Lý trưởng ấy hỏi các làng Mọi
chung quanh thì nói rằng chúng đi thăm một người
788]. Đó chính là Võ Trứ và người cộng sự miền núi
của ông mà đến tờ trình tiếp theo đề ngày 20 tháng
2 thì danh tính và âm mưu đã bị phát hiện từ trước
bởi mật vụ Pháp: “Vào giờ Dần ngày 16 tháng này ty
Phiên tôi tiếp được (…) 2 phong mật phi tư, trong đó
nói (một phong báo cáo rằng có tên Võ ản [cũng là
Võ Trứ] giả làm sư mưu ngụy, Khâm sứ sai đánh dẹp
đảng ấy và giao cho thiểm chức ra sức nã bắt cùng phái
lính tập giúp sức. Một phong nói rằng theo thám báo
thì gian tăng họp nhau ở A Túi, giao Phủ viên Tuy An
đem 20 lính tập cùng với người dẫn đường qua ngay
Rõ ràng, không có khả năng chứng tỏ hai vị thủ lĩnh
Võ Trứ - Trần Cao Vân đứng ra tổ chức một cuộc
Trắng vào đêm rằm tháng giêng (14.2.1900) theo Võ
năm Kỷ Hợi (1899) theo Cuộc khởi nghĩa Võ Trứ năm
của nghĩa đảng ngay tại những vùng rừng núi trắc trở
Sơn Hòa và Đồng Xuân đang bị quân đội liên chính
quyền Pháp - Nam xâm nhập và triệt phá, các cơ sở
796, 816-818], để rồi cuối cùng buộc phải dốc toàn bộ
thực lực còn lại tấn công trực diện đối phương, chấp
nhận kết cục tất định ngoài ý hướng và mục đích tiên
khởi.
Đây là một trong những trích đoạn hào sảng và hùng
hồn nhất nhưng cũng phiêu lưu và giả tưởng nhất
về cuộc khởi binh năm Canh Tý (1900): “Đêm rằm
tháng Giêng (14.2.1900), tại chùa Đá Trắng (Tuy An),
bên ngoài thì làm chay, múa lục cúng… bên trong thì
nghĩa đảng mở hội nghị. Chỉ huy các cấp ượng và
Kinh đều có mặt. Ngoài Võ Trứ và Trần Cao Vân là
hai vị lãnh đạo tối cao, còn có Nguyễn Khỏe, tức Đội
Khỏe, một kiện tướng sống sót của nghĩa quân Cần
vương Phú Yên do Lê ành Phương, Nguyễn Hào
Sự, tức Bá Sự lãnh đạo, Huỳnh Cụ, tức Cai Năm, một
người iên Chúa giáo ngoan đạo, đã gia nhập đảng
từ lúc sơ khai. Lại có các ông Trần Ký, Lê Trợ, Trần
Châu, ba Phật tử thuần thành, đã cúng hết tài sản
cho nghĩa quân và nguyện xả thân vì Nước vì Đạo.
Toàn thể hội nghị đồng thanh tôn Võ Trứ làm Minh
Trai chủ tể, Trần Cao Vân làm Quân sư, Nguyễn Khỏe
làm Đại tướng, Huỳnh Cụ làm Phó tướng… Còn các
người khác thì tùy khả năng mà phân công. Hội nghị
tr. 507-508].
cChữ của Đặng Quý Địch, nghĩa là “cả đời không có”.
dTờ Châu bản đề ngày 20 tháng 2 năm ành ái thứ 11 cho biết
chính quyền tỉnh Phú Yên sai phủ huyện Tuy An và Sơn Hòa phối
hợp với các đơn vị lính tập mở cuộc hành quân vào xứ Lang Phá đốt
sạch 3 trại xá của nghĩa quân. Tờ Châu bản đề ngày 19 tháng 3 năm
ành ái thứ 11 cho biết lý dịch thôn Phước Hòa (thuộc huyện Sơn
Hòa) căn cứ vào bản danh sách bị đánh rơi của nghĩa đảng Võ Trứ
mà bắt giam 9 người. Ngoài ra còn có 12 người khác đang giam giữ
tại Sông Cầu.
969
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
Albert Laborde đảm chức công sứ tỉnh Phú Yên trong Trai chủ tể thì có nghĩa một vị vua với đức tính nhà
quãng thời gian 3 năm (1926 - 1928) đã có những Phật. Nên cụm từ này vừa biểu lộ danh hiệu của Võ
trang ghi chép qua thiên tiểu luận La province de
Phu-yen dựa trên nhiều tư liệu mà một số ngày nay
không còn tìm thấy. Chùa Từ Quang và Võ Trứ được
Laborde đề cập trên nhiều giác độ nhưng tuyệt nhiên
không có mối liên hệ nào giữa cuộc dấy binh với ngôi
chùa nổi tiếng này. Tập khảo luận được hoàn thành
trước thời điểm xảy ra trận hỏa hoạn đối với chùa
Đá Trắng vào năm 1929 nên không cần đặt vấn đề đã
từng có những trang tư liệu chứa nội dung cùng loại
bị thiêu hủy trong ngọn lửa vô tình. Từ đây có thể đi
đến kết luận theo cách thông thường, rằng chính sự
nổi tiếng của ngôi chùa trong bối cảnh đặc biệt của
thời cuộc đã không cho phép các vị thủ lĩnh Võ Trứ
- Trần Cao Vân tiếp cận với tính cách một cơ sở vận
động của nghĩa đảng, cho tới trước lúc bắt buộc phải
động binh với một đội quân chỉ khoảng 300 tay cung
- kiếm - giáo - rựa.
Trứ đứng đầu cuộc khởi nghĩa [chữ Trai có thể từ chữ
Trứ đọc trại ra - NMS], vừa nói lên một vị vua có đức
của người Pháp với cách gọi ví von “giặc thầy chùa”
cùng một lối phô diễn cường điệu thường thấy trong
văn phong báo cáo, lúc này thì “Phật vương”, lúc khác
lại là “một giáo chủ đạo Hồi hay một vị thượng quan
nhận thức lịch sử trở nên rắm rối.
ực tế, cuộc vận động kháng Pháp của Võ - Trần
không có ngọn cờ “Minh Trai chủ tể” mà chỉ có “Minh
Tề chủ tể”. Bởi thủ lĩnh không phải là sư tăng nên
chẳng có nhân danh một vị Phật vương nào phất
phưởng trên cơ đồ mà họ đang dốc sức kiến tạo. Họ
công khai tuyên bố mục đích đánh đuổi thực dân
Pháp, phô bày lòng căm hận đối với bè lũ xâm lăng
bằng cách thách thức một cuộc quyết đấu mất còn. Họ
lấy danh nghĩa một triều đại từng độc lập, tự chủ trong
quá khứ huy hoàng để kiến thiết một tân triều đại độc
lập, tự chủ cho tương lai đất nước. Họ là trung thần
của họ Nguyễn quyết chí trung hưng triều Nguyễn.
Đó là ý niệm về một nhà nước Việt Nam thống nhất
thời Gia Long, một nhà nước Đại Nam hùng mạnh
thời Minh Mệnh - iệu Trị và trong tương lai sẽ là
một nhà nước Đại Hóa phôi thai từ ý tưởng của hoàng
đế Tự Đức với khát vọng chấn hưng chủ nghĩa quân
quyền. Cuộc khởi binh của Võ Trứ - Trần Cao Vân thể
249-250].
MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA
LÀ PHỤC HƯNG NỀN QUÂN CHỦ
NGUYỄN TRIỀU
Trước nay các tài liệu chỉ cho biết lời hiệu triệu của
cuộc vận động Võ Trứ - Trần Cao Vân quy tụ xung
quanh một vị “Minh Trai chủ tể” mà không lý giải
khúc chiết ẩn ý của chiêu bài này. Trong khi giới
quan binh người Pháp phải cảnh giác về một vị “thánh
quân” trong tương lai chính trị giả định của những
lãnh tụ khởi nghĩa thì hậu thế người Việt Nam chỉ ra
đích danh vị Minh Trai đó chính là Võ Trứ. Trích đoạn
từ bản tường trình của công sứ Phú Yên Céleron de
Blainville: “Hỏi về mục đích cuộc hưng binh, Võ Trứ
khẳng khái đáp rằng để lật đổ chế độ hiện tại, thay
triều vua đương kim bằng một triều khác mà nhà vua
là một thánh quân đủ Bi, Trí, Dũng của đạo Phật”e
Trước thời điểm dấy binh vào giữa tháng 4 năm Canh
Tý (1900), thủ lĩnh Võ Trứ đã tung ra các lá cờ vải đỏ
vừa thách thức kẻ thù, vừa tuyên cáo trước chúng dân
danh nghĩa của việc mà ông và nghĩa đảng đang làm,
rằng “Nam triều ta có một danh tướng xuất hiện ở xứ
Bàn ạch [tức ượng du Phú Yên], Tây Dương các
Như vậy, Võ Trứ nêu cao danh nghĩa triều đình nhằm
chiêu tập lực lượng, phân rã liên chính quyền Pháp -
Nam, tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ hay chí ít trung
lập hóa hàng ngũ quan lại và hương lý địa phương,
[
12, tr. 4k]; còn đây là lập luận của một số nhà nghiên
cứu ngày nay: “Võ Trứ đề ra chủ trương tự tôn xưng
hay: “cụm từ Minh Trai chủ tể dùng để chỉ Võ Trứ
với hiệu Minh Trai đứng đầu trong cuộc khởi nghĩa
năm 1900. Nếu gộp tất cả các nghĩa của cụm từ Minh
eTác giả Đào Nhật Kim trong bài viết cũng dẫn ra trích đoạn rằng
“Ta muốn đánh người Pháp để giành độc lập cho đất nước và thay
đổi triều đại đương kim đã phản bội lại dân chúng để lập lên triều
vua khác, mà người cai trị là một thánh quân” [11]. Tuy nhiên, trên
cơ sở văn cảnh và logic chuỗi sự kiện, thuật từ ”triều đại đương kim”
cần đánh đổ được hiểu như là các ngôi vua kế cận và hiện thời, liên
tục 6 đời đổi ngôi chỉ trong vòng chưa tới hai thập kỷ (1883 - 1900, từ
Dục Đức đến ành ái), tạo nên dồn dập biến cố về mọi mặt đời
sống mà người Pháp là tác nhân. Đánh đuổi Pháp đế quốc là mục
tiêu trước nhất của cuộc khởi binh này. Việc tôn phò các bậc “thánh
vương” triều Nguyễn của cuộc khởi nghĩa, như sẽ được diễn giải sau
đây, dù chính thống hay chỉ là danh nghĩa, cũng đều không dẫn đến
mâu thuẫn trong hệ thống lập luận của bài viết này.
fSử quan triều Nguyễn thống nhất đánh giá hoàng đế Tự Đức
xứng danh một vị thánh vương. Điếu văn trong lễ truy tôn thụy hiệu
Tự Đức có đoạn: “ba mươi sáu năm nối ngôi trời, làm rạng rỡ mưu tốt
của thánh thần truyền nối; kế ức nghìn năm để tiếng tốt, nên chính trị
giáo hóa như ngọc báu vàng mười. To như trời không hình dung nổi,
chẳng phải thánh sao được thế ư?”. Miếu hiệu lúc đầu của Tự Đức là
ành Tổ, sau chiếu theo Di chúc đổi là Dực Tông, bởi Di chúc truyền
rằng: “Trẫm có tội với tổ tiên, không dám thờ vào ế miếu, trước đã
nói rồi, chỉ có quan và dân lượng thứ cho. Miếu hiệu đều xưng tông,
như phép nhà Hán, không đặt nhiều tên thụy. Trẫm không có công
to, không được xưng là tổ, cũng nên theo thế mà làm”. Như vậy, chính
đức khiêm nhường, ngay thẳng của hoàng đế đã khiến cho quần thần
và chúng dân càng thêm nể phục.
970
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
đồng thời đánh lạc hướng đối phương về mục tiêu và lực lượng tấn công. Ghi chép của Quốc sử quán cho
biết: “Ngày 16 tháng này [tháng 4 năm ành ái
thứ 12] đảng ấy khoảng 300 người đều cầm gậy gộc
ngầm tới thôn Triều Sơn huyện Đồng Xuân gần Tòa
sứ tỉnh ấy, lính tập đuổi bắn đảng ấy chạy tan, lấy được
một lá cờ vải đỏ trong viết Chủ tể Minh Tề nước Đại
Hóa / Dấy nhung binh phù tá thánh vương. Ngày 16
tr. 395] mà giờ đây ông còn là người đại diện cho cả
một vương quốc Đại Hóa đứng ra sửa trị chế độ minh
quân, phục hưng triều đại vua trước quang minh lỗi
lạc.
Song, trước khi mọi chuyện trở nên rõ ràng, hẳn
thông tin này vẫn còn là một phát hiện bất ngờ:
“áng trước [tức tháng 4 năm Canh Tý (1900)] tỉnh
Phú Yên phái quân tìm kiếm được một quả ấn đồng
374]. Đó chính là quốc hiệu mà trong lúc vận nước
suy vi bởi các trở lực nội loạn và ngoại xâm, đương
thời hoàng đế Tự Đức đem ra bàn luận với quần thần
có nên thay đổi. Châu bản đề ngày 7 tháng 12 Tự
Đức tam thập niên (năm Tự Đức thứ 30/1877) chép
lại sự việc vắn tắt: “Viện cơ mật góp ý kiến về vấn
đề đổi quốc hiệu, lấy quốc hiệu là Đại Hóa (dựa theo
tên hai tỉnh anh Hóa và uận Hóa) cũng được,
nhưng trước khi cải quốc hiệu phải thông báo cho
các nước Pháp, Y [Y Pha Nho, tức Tây Ban Nha] và
sau, vấn đề quốc hiệu được tái thảo luận và chung cục
như sau: “Vua bàn lấy hai chữ Đại Hưng hoặc Đại
Hóa để đổi đặt quốc hiệu. Cơ mật viện đại thần tâu
nói: chữ Hưng tuy tốt nhưng xét đến sự thực thì chưa
đủ, chữ Hóa đã gồm cả gốc trước, lại hợp với tiếng
Nam, tưởng làm thỏa đáng duy có hiện nay nhiều việc
lòng người dễ dao động, nếu một khi trái đi, thói đời
thấy nói sai, sợ không ngăn được, xin đợi khi nào ít
việc sẽ thi hành. Vua cho là phải, rồi không quả quyết
hạnh này trong những năm ở ngôi cuối đời vẫn canh
cánh bên lòng ước vọng về một vương quốc Đại Hóa
cường thịnh mà sinh thời không được thỏa nguyện
bởi những đại họa chẳng thể nào chống đỡ nổi bủa
vây từ nhiều phía.
Vậy là, trong tình thế liên tiếp bị vây ráp bởi quân lực
và mật thám của đối phương kể từ đầu năm 1898, hai
thủ lĩnh Võ - Trần đã quyết định khởi binh mà mục
tiêu thu gọn là hệ thống cơ quan đầu não của liên
chính quyền Pháp - Nam tại tỉnh lỵ Sông Cầu. Với một
thực lực khiêm tốn thu gom từ các căn cứ rải rác thuộc
miền núi hai huyện Đồng Xuân và Sơn Hòa cùng một
số tân binh mới gia nhập trên đường đi qua các thôn
làng, vị “Chủ tể Minh Tề” hay “Danh tướng xứ Bàn
ạch” đã bí mật chiếm huyện lỵ Đồng Xuân đóng tại
nhằm thẳng đích Tòa sứ Sông Cầu. Tuy nhiên, ưu thế
về vũ khí và chiến thuật của quân Pháp đã đẩy lùi được
Niên hiệu Minh Tề khởi đầu cho cơ đồ lẫy lừng đó, nếu
lịch sử hào phóng dành cho cuộc dấy binh của Võ Trứ
- Trần Cao Vân thắng lợi bắt đầu từ tỉnh thành Phú
Yên.
Nhìn lại cuộc vận động kháng Pháp cứu quốc của Võ
Trứ - Trần Cao Vân với các sử liệu nêu trên, tính chất
Cần vương cần được xác định lại trong trường hợp
này. Trước nay, khi đề cập đến phong trào đấu tranh
của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh bình định
của thực dân Pháp, các nhà phân kỳ lịch sử khi biên
soạn các giáo trình bậc Đại học đã phân biệt thành hai
mảng phong trào, gồm có phong trào Cần vương và
phong trào đấu tranh tự vệ, trong đó cuộc khởi nghĩa
Võ Trứ - Trần Cao Vân được xếp vào mảng phong trào
chế về công tác tổng quan tài liệu.
ực tế, Võ Trứ cũng như Trần Cao Vân đều tỏ ra
trung thành với triều Nguyễn, thậm chí tự nhận mình
là đại quan hoặc danh tướng của Nam triều, chiến
đấu vì lý tưởng một nhà nước Đại Hóa thịnh trị từng
được ấp ủ bởi tiền triều Tự Đức, hay nói rộng ra là
các vị thánh vương Nguyễn triều. Cuộc ứng nghĩa
dưới ngọn cờ Võ Trứ - Trần Cao Vân, bởi thế, là sự
kế tục Cần vương của Lê ành Phương, Nguyễn Hào
Sự trước đó ở Phú Yên. Hai vị thủ lĩnh Võ - Trần cần
được tôn xưng như những lãnh tụ Cần vương đích
thực trong phong trào yêu nước nói chung ở Việt Nam
vào những năm chuyển giao thế kỷ từ XIX sang XX.
Như vậy cũng có nghĩa là, trong khi phong trào Cần
vương trên bình diện cả nước kết thúc từ năm 1896
thì riêng ở địa phương Phú Yên, phong trào này vẫn
tiếp tục kéo dài thêm 4 năm.
Vài năm trở lại đây, những nhà viết sử địa phương
bám theo các giáo trình Đại học nói trên tiếp tục đưa
ra những nhận định mang tính lập lờ và phiến diện,
mà một trong số đó là công trình Lịch sử Phú Yên thế
kỷ XIX, cho rằng “Là một trung tâm kháng chiến ở
Nam Trung Kỳ, phong trào Cần vương Phú Yên tồn
gCông sứ Laborde cho biết đúng vào ngày 14.5.1900 (16 tháng 4
năm Canh Tý) khi phần lớn binh lực Pháp dưới sự chỉ huy của viên
thanh tra hành quân về hướng Củng Sơn (huyện Sơn Hòa) nhằm tìm
diệt nghĩa quân, Võ Trứ lập tức tấn công Tòa sứ Sông Cầu.
hNăm ành ái thứ 11 (1899), cùng với việc dời tỉnh lỵ Phú Yên
tới thôn Long Bình cạnh Tòa sứ Sông Cầu, dời phủ lỵ Tuy An tới tỉnh
thành cũ, dời huyện lỵ Sơn Hòa tới thôn Lạc ịnh, huyện lỵ Đồng
Xuân cũng được cắt đặt ở thôn Triều Sơn.
iNgoài ra, tài liệu này cũng như các giáo trình cùng loại trình bày
cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân với rất nhiều sai sót.
971
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
tại trong thời gian 1885-1892 và sau đó chuyển tiếp hoặc địa phương diễn tiến. Bởi vậy, cần gọi đúng và
sang hình thức đấu tranh mang màu sắc tôn giáo do đầy đủ tên cuộc khởi nghĩa là khởi nghĩa Võ Trứ - Trần
388-389]. Trước đó, sử gia Trần Văn Giàu cũng có
một kết luận tương tự: “Võ Trứ đã tìm ra con đường
đấu tranh mới trong hoàn cảnh đen tối của đất nước,
thực dân Pháp đã đặt xong nền cai trị ở nước ta, phong
trừ tính chất Cần vương của cuộc khởi nghĩa.
Trong tình hình hạn chế nguồn tài liệu, có tác giả
còn nhận thức sai lệch thân thế thủ lĩnh cũng như
thành phần tham gia, từ đó suy diễn và so sánh một
cách khiên cưỡng:“Chính sắc phục sặc sỡ của người
ượng du (sách cũ gọi là người Mọi) và danh xưng
mà quần chúng đương thời dành tôn vinh Võ Trứ -
Cao Vân hay khởi nghĩa Phú Yên.
Những minh định logic cho thấy một diện mạo lịch
sử chân thực hơn về cả sự kiện lẫn nhân vật. Cuộc
khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân tự nó đã là một sự
kiện quan trọng cấu thành bề dày truyền thống chống
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nó sống mãi cùng
với thời gian mà không cần phải huyền thoại hóa hoặc
phải vịn vào bất kỳ sự nổi tiếng nào khác.
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Vị vua của người Mọi - khiến chúng ta nghĩ Võ Trứ Tác giả đã thực hiện:
đã biết giới hạn mục tiêu chiến đấu của mình: Phải
chăng Võ Trứ muốn thành lập một xứ Phật giáo Việt
Nam tự trị, Kinh - ượng đoàn kết, với cương thổ là
vùng đất thuộc huyện Đồng Xuân và cao nguyên Gia
Lai kề đó, như Hoàng Hoa ám (1858-1913) được
Pháp cho tự trị từ năm 1894 đến 1905, ở ngoài Bắc?”,
để rồi kết thúc bằng một hệ luận lạ lẫm và cực kỳ mâu
thuẫn: “Như thế, trên những cơ sở khá vững chắc, có
thể yên tâm khẳng quyết, Võ Trứ không phải như Mai
Xuân ưởng trước đó, không phải như Vương Quốc
Chính cùng thời, và cũng không phải như Trần Cao
Vân, quân sư và đồng sự, Võ Trứ không phải là nhân
vật lịch sử minh họa cho quan niệm, định kiến dòng
1. Cập nhật và phổ biến tư liệu mới về cuộc khởi nghĩa
trong tác phẩm sử học Đại Nam thực lục chính biên đệ
lục kỷ phụ biên.
2. Xác định những vấn đề cơ bản của cuộc khởi nghĩa,
bao gồm:
- ời gian: năm Canh Tý/1900.
- Lãnh tụ: Võ Trứ và Trần Cao Vân.
- Lực lượng: được một số giai tầng hưởng ứng, trực
tiếp tham gia chủ yếu là đồng bào miền núi.
- Mục đích: tiếp tục ngọn cờ ái quốc Cần vương với
biểu trưng “Minh Tề chủ tể”, chủ trương đánh đuổi
thực dân Pháp nhằm phục hưng nền quân chủ triều
Nguyễn dưới quốc xưng Đại Hóa, lý tưởng do hoàng
đế Tự Đức xướng xuất lúc sinh thời.
3. Đề xuất:
KẾT LUẬN
Cùng với những kiến giải theo trên, một số vấn đề cơ
bản về cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú Yên cũng xin
được thống nhất xác định như sau:
1. Niên đại cho cuộc khởi nghĩa là năm Canh Tý hay
ành ái thứ 12 (1900), không phải năm Mậu Tuất
hay ành ái thứ 10 (1898).
2. Lá cờ hay danh nghĩa “Minh Trai chủ tể” của cuộc
khởi nghĩa mà tất cả các tài liệu biên khảo trước nay
đề cập, chính xác là “Minh Tề chủ tể”. Minh Tề (theo
nghĩa: cùng nhau làm việc sáng) vừa là ngọn cờ hiệu
triệu khởi nghĩa Cần vương, vừa là niên hiệu của triều
đại mới sáng lập bởi những người dẫn dắt phong trào
trù liệu.
3. Trong khi phong trào Cần vương theo quan điểm
trước đây kết thúc ở cột mốc 1896 bởi sự thất bại của
khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh
đạo, với khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân, phong
trào này kéo dài thêm 4 năm, tức nới rộng biên độ
thời gian đến năm 1900.
- Mở rộng biên độ thời gian của phong trào Cần
vương đến năm 1900.
- Đặt tên đầy đủ: khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thúy TT (chủ biên). Lịch sử Việt Nam(Từ năm 1897 đến năm
1918). Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. 2017;7.
2. HoaLK. ChâubảntriềuNguyễn-TưliệuPhậtgiáoquacáctriều
đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945.
Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 2003;.
3. Địch LXĐQ. Nhân vật Bình Định. Sài Gòn: Hạnh Phúc ấn quán.
1971;.
4. Tấn Q, Giao Q. Võ nhân Bình Định. Ttr. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
2001;.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên đệ
lục kỷ phụ biên. Ttr. Hồ Chí Minh: Nxb Văn hóa - Văn nghệ.
2012;.
6. Sơn H. Cụ Trần Cao Vân. Paris: Minh Tân ấn bản. 1952;.
7. An TX. Cuộc khởi binh nâu sồng 1898-1900 và Võ Trứ (1855?-
1900) qua các nguồn tư liệu khác nhau. [Online]. 2010 [cited
2020 Jul 5];Available from: txawriter.wordpress.com/2010/10/
8. Sà NC (dịch). Những người bạn cố đô Huế (Năm 1929; vol XVI).
Huế: Nxb Thuận Hóa. 2003;.
9. Chúc NĐ, Nguyễn H. Lược sử Phật giáo và các chùa Phú Yên.
Huế: Nxb Thuận Hóa. 1999;.
10. Gia NL. Xoài Đá Trắng. Đặc san Suối Nguồn. 2014;(14):158–
171.
4. ông thường trước nay tên gọi các cuộc khởi
nghĩa được đặt theo tên những người khởi xướng
972
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974
11. Kim ĐN. Võ Trứ và cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú Yên. Tạp
chí Lịch sử Quân sự. 2009;(11):29–33.
1976;.
15. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Châu bản triều Tự Đức
(1848-1883). Hà Nội: Nxb Văn học. 2003;.
16. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Hà Nội: Nxb
Khoa học xã hội. (Chính biên đệ tứ kỷ VIII: 1877-1880; vol
XXXIV). 1976;.
17. Quýnh TH, Lâm ĐX, Hãn LM. (chủ biên). Đại cương Lịch sử Việt
Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam. 2009;.
18. Bang Đ, Vịnh LT (chủ biên). Lịch sử Phú Yên thế kỷ 19. Hà Nội:
Nxb Khoa học xã hội. 2009;.
12. Blạinville C. Rapport Politique - Song-Cau, le 29 juillet 1900.
l’administrateur Résident de France au Phu-Yen à monsieur le
Résident supérieur en An-Nam à Hué (Báo cáo Chính trị - Sông
Cầu, Công sứ Pháp ở Phú Yên gửi Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.
2971900;p. 4k–4e.
13. Sang NM. Dung hợp dân tộc, tôn giáo trong cuôc khởi nghĩa
Võ Trứ và Trần Cao Vân những năm cuối thế kỷ XIX. [Online].
14. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Hà Nội: Nxb
Khoa học xã hội (Chính biên đệ tứ kỷ IX: 1881-1883; vol XXXV).
19. Giàu TV. Phú Yên - yên định trong phú cường. Tạp chí Xưa &
Nay. 2002;(106):5–6.
973
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):966-974
Research Article
Open Access Full Text Article
New insights around the Vo Tru and Tran Cao Van uprising in Phu
Yen (1900)
Nguyen Van Giac*
ABSTRACT
In the context of increasing colonial exploitation policy of the colonial regime, following the period
of struggling against the French imperialist aggression by the gathering of resistance centers across
the country, some localities also rose up, including the rebellion led by Vo Tru and Tran Cao Van in
Phu Yen.
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
Due to the scarce local resources, moreover, it is heavily influenced by popular perceptions of folk-
lore, the research topics so far about this event have been mostly inaccurate, arbitrarily inferred or
copied, stereotyped; for example, the flag named ``Minh Trai Chu Te'', the fusion of religions or even
of the idealization of Buddhism, the forces involved, the status of the leaders, etc.
Based on the newly updated data source, this article conducts criticism of documents so far; at the
same time, it provides reasonable explanations with the establishment of some new perceptions of
the issue: Vo Tru was not from the circle of Buddhist monks, nor he and most of the party members
were ``bandits of Buddhism''; Tu Quang/Da Trang Pagoda was not the headquarters or a main
base for gathering forces of the insurgency; Vo Tru and Tran Cao Van were the two enthusiastic
Confuciannist leaders who campaigned against the French colonialists. Since then, the uprising
bearing the names of these two leaders was a continuation of the Can Vuong movement in Phu
Yen and in the whole country in general.
This is also a practical historical activity contributing to the restoration of this important event in a
closer approach to the authenticity of history.
Key words: Vo Tru, Tran Cao Vân, Phu Yen, Song Cau office
u Dau Mot University
Correspondence
Nguyen Van Giac, Thu Dau Mot
University
Email: vanjack.nguyen@gmail.com
History
• Received: 7/07/2020
• Accepted: 17/3/2021
• Published: 30/4/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.649
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article : Giac N V. New insights around the Vo Tru and Tran Cao Van uprising in Phu Yen
(1900). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):966-974.
974
Bạn đang xem tài liệu "Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở Phú Yên (Năm 1900)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nhung_nhan_thuc_moi_ve_cuoc_khoi_nghia_vo_tru_tran_cao_van_o.pdf