Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở Phú Yên (Năm 1900)

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
Bài nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở  
Phú Yên (năm 1900)  
Nguyễn Văn Giác*  
TÓM TẮT  
Trong bối cảnh gia tăng chính sách khai thác thuộc địa của chế độ thực dân, tiếp sau thời kỳ đấu  
tranh chống Pháp rầm rộ bởi sự quy tụ các trung tâm kháng chiến trên phạm vi cả nước, một số  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
địa phương cũng quật khởi vùng lên, trong đó có cuộc nổi binh do Võ Trứ và Trần Cao Vân lãnh  
đạo ở Phú Yên.  
Do nguồn tài liệu tại chỗ hiếm hoi, lại chịu sự chi phối của những nhận thức dân gian một cách  
đậm nét, các nghiên cứu trước nay về sự kiện phần nhiều thiếu chân xác, tùy tiện suy diễn hoặc  
mang tính sao chép, rập khuôn, ví như về ngọn cờ mang tên ``Minh Trai chủ tể'', về hình thức dung  
hợp tôn giáo hoặc thậm chí lý tưởng đạo Phật, về lực lượng tham gia, về thân thế các lãnh tụ…  
Trên cơ sở nguồn sử liệu mới vừa được cập nhật, bài viết tiến hành phê phán các tài liệu trước nay,  
đồng thời đưa ra các kiến giải hợp lý với sự xác lập một vài nhận thức mới về vấn đề: Võ Trứ không  
phải xuất thân từ sư tăng cũng như ông và phần đông nghĩa đảng không phải ``giặc thầy chùa'';  
chùa Từ Quang/Đá Trắng không phải là đại bản doanh hay cơ sở chính để chiêu tập lực lượng của  
cuộc nổi dậy; Võ Trứ và Trần Cao Vân chính là hai thủ lĩnh nhà Nho nhiệt huyết đứng ra vận động  
cuộc kháng Pháp, từ đó cuộc khởi nghĩa mang tên hai ông là sự tiếp nối phong trào Cần vương ở  
Phú Yên và cả nước nói chung.  
Đây cũng chính là hoạt động sử học thiết thực góp phần phục dựng sự kiện quan trọng này một  
cách tiệm cận hơn với sự chân xác của lịch sử.  
Từ khoá: Võ Trứ, Trần Cao Vân, Phú Yên, Tòa sứ Sông Cầu  
Trần Cao Vân ở Phú Yên 1898 (2004) của Nguyễn Văn  
ưởng, Võ Trứ và cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú  
Yên (2009) của Đào Nhật Kim, Lịch sử Phú Yên thế  
kỷ XIX (2009) của Đỗ Bang - Lê ế Vịnh (chủ biên),  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Khởi đầu thế kỷ XX trên vùng đất Phú Yên được đánh  
dấu bằng sự bùng phát một cuộc bạo động đặt dưới  
quyền tổ chức và chỉ huy của hai vị thủ lĩnh Võ Trứ -  
Trần Cao Vân, mà do cái chết có phần nổi tiếng của  
nhân vật thứ nhất nên lịch sử thường gọi tên một cách  
không đầy đủ là khởi nghĩa Võ Trứ.  
Đã 120 năm trôi qua với khá nhiều truyện chép cùng  
các công trình biên khảo xung quanh sự kiện quan  
trọng này, không tính một vài trang tài liệu lưu trữ  
của Chính quyền thực dân đương thời, trong số đó  
theo trình tự thời gian có La province de Phu-yen  
(1929) của Albert Laborde, Cụ Trần Cao Vân (1952)  
của Hành Sơn, Giặc ầy Chùa hay là cuộc khởi nghĩa  
năm 1898 ở Phú Yên (1959) của Nguyễn Tử Quang,  
Nhân vật Bình Định (1971) của Đặng Quý Địch; và  
khoảng từ hai mươi năm trở lại đây với Võ nhân Bình  
Định (2001) của Quách Tấn - Quách Giao, Võ Trứ và  
cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên (2001) của Trần Đình ân,  
Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo qua các triều  
đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo  
Đại 1945 (2003) của Lý Kim Hoa, Huyền thoại về Võ  
Trứ và Trần Cao Vân trên đất Phú Yên (2003) của Trần  
Lịch sử Phú Yên từ năm 1900 đến năm 1930 (2010)  
của Nguyễn Văn Nhật (chủ biên), Cuộc khởi binh nâu  
sồng và Võ Trứ (2010) của Trần Xuân An, Dung hợp  
dân tộc, tôn giáo trong cuộc khởi nghĩa Võ Trứ và Trần  
Cao Vân những năm cuối thế kỷ XIX (2013) của Ngô  
Minh Sang.  
Đáng chú ý là sau một thời gian có hơn mươi năm  
chuẩn bị tương đối kỹ lưỡng, năm 2014 Viện Sử học  
tiến hành công bố trọn bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập  
và gần như tức thì được tái bản vào năm 2017. Tuy  
nhiên, riêng phần lịch sử có liên quan đến cuộc khởi  
nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân vẫn chưa cập nhật các  
tư liệu hoặc nghiên cứu mới. Tính chất và ý nghĩa của  
sự kiện chỉ được xác định giản lược trong một dòng  
duy nhất rằng “Cuộc khởi nghĩa thất bại ghi một dấu  
son trong lịch sử kháng Pháp của đồng bào các tỉnh  
Nam Trung Kỳ nói riêng, của nhân dân Việt Nam nói  
chung giai đoạn đầu thế kỷ XX” [1, tr. 437]. Bởi vậy,  
nhận thức về sự kiện lịch sử này càng tỏ ra mặc định  
Trường Đại học ủ Dầu Một  
Liên hệ  
Nguyễn Văn Giác, Trường Đại học Thủ Dầu  
Một  
Email: vanjack.nguyen@gmail.com  
Lịch sử  
Ngày nhận: 7/07/2020  
Ngày chấp nhận: 17/3/2021  
Ngày đăng: 30/4/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.649  
Bản quyền  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
Trúc Lâm, Góp phần tìm hiểu cuộc khởi nghĩa Võ Trứ, thêm hơn.  
Trích dẫn bài báo này: Giác N V. Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở  
Phú Yên (năm 1900). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):966-974.  
966  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
Cũng cần kể thêm rằng, liên quan đến nhân vật lịch Điều tra của lý dịch thôn Nhơn Ân, huyện Tuy Phước,  
sử Võ Trứ còn có tập khảo lục Văn thơ trên đất Tây tỉnh Bình Định trong một cáo bẩm lên quan tỉnh đầu  
Sơn quật khởi (2005, Nxb. Văn học) của Nguyễn Hồng năm 1899 cho biết “Võ Trứ nguyên là dân thôn này,  
Sinh trình bày cả một phả hệ anh tài, xuất chúng của ngụ ở thôn Quảng Vân, năm trước [khoảng 1891-  
dòng họ Nguyễn miền Trung, tuy nhiên quá nhiều sự 1892] từng làm lý trưởng, kế làm thủ chỉ nhũng lạm.  
kiện lồng ghép khác xa sự thật lịch sử đã tự nó phế bỏ Năm ành ái thứ 5 [1893] thôn này đệ đơn thưa  
tính cách cứ liệu của mình, dù rằng trong số các công lên huyện, tên này trốn đi nơi khác, thôn này có xin  
trình nghiên cứu kể trên, vẫn có những lượm lặt từ giấy chứng để chấp chiếu. Năm ngoái [1898] nghe nói  
đây để phục trang cho sự bóng bẩy, truyền kỳ.  
viên tri nguồn Hà anh có bắt giải nạp [Võ Trứ],  
Nhìn chung, mức độ kế thừa của các công trình huyện Tuy Phước gọi thôn ấy khai kết. áng 10  
nghiên cứu hoặc biên soạn về sau đối với các tập tài không biết huyện viên xét xử làm sao lại phóng thích  
liệu hay ghi chép có trước là rất lớn. Trong khi đó, đi, thôn y không được rõ, còn em hắn là Võ Cạnh hiện  
bản thân nguồn tài liệu ban đầu lại không mấy thuyết ở thôn ấy” [2, tr. 804]. Báo cáo của thôn Quảng Vân  
phục bởi thiếu các chỉ dẫn lịch sử đương thời, ngoại thì khai rằng “Võ Trứ trước ngụ ở thôn này, có một sở  
trừ La province de Phu-yen Châu bản triều Nguyễn nhà vườn, năm ành ái nguyên niên [1889], trích  
- Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 một nửa đất vườn bán cho người cùng thôn tên Nhạn,  
năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945. Song, cả còn một nửa năm ành ái thứ 4 [1892] bán cho  
hai tài liệu này vẫn có những khiếm khuyết đáng tiếc, tên Sửu, năm thứ 5 [1893] thì y trốn đi biệt. áng 10  
hoặc sơ lược đối với trường hợp thứ nhất hoặc gián năm ngoái [tức 1898] không biết vì sao vợ con y cũng  
cách đối với trường hợp thứ hai. Do vậy, các kết quả trốn đi” [2, tr. 804]. Tổng đốc Bình Phú (Bình Định -  
nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân Phú Yên) đối chứng hai tờ trình trên trước người em  
cho đến nay là hết sức khiêm tốn và phần lớn mang trai Võ Cạnh và cũng nhận được lời khai tương tự.  
tính chất rập khuôn.  
Như vậy, trước năm 1889 Võ Trứ vẫn ngụ tại quê,  
không có chuyện lợi dụng sự tụ nghĩa Cần vương  
nhằm mưu đồ phục hưng nhà Tây Sơn trong phong  
trào kháng chiến đặt dưới cờ Mai Xuân ưởng, để  
rồi sau khi bị thất bại thì che dấu danh phận bằng cách  
“bỏ vào tu trong một ngôi chùa ở Phú Yên” [3, tr. 133,  
139] hay không chịu khuất phục và “Ông trốn lên núi  
cao, rồi băng ngàn vào Phú Yên, quyết gây lực lượng  
để tiếp tục cuộc đánh Pháp cứu nước… Ông vào tu  
trong một ngôi chùa nhỏ miền sơn cước huyện Đồng  
Xuân” [4, tr. 492-493].  
Việc tầm sư hành đạo của Võ Trứ chỉ có thể diễn ra  
từ năm 1893 trở đi, song không phải đạo Phật thuần  
thành mà là đạo giáo phù thủy mang đậm tính ma  
thuật. Tuy nhiên, ông cũng sẵn sàng mạo nhận mình  
là tín đồ Phật gia. Trong lần bị bắt vào lúc tháng 5 năm  
ành ái thứ 10 (1898), Võ Trứ khai trước huyện  
viên Tuy Phước là “vì nghèo theo đạo thiền lấy bùa  
thuốc bán” hay như tờ trình lên Cơ mật viện của Bố  
chánh Phú Yên Nguyễn Chất dẫn lời huyện viên này  
rằng “nghe hắn bệnh đi tìm nơi uống thuốc theo đạo  
thiền dùng thuốc rồi đem bán để nuôi sống” [2, tr.  
805, 809]. Mặt khác, Võ Trứ và nghĩa đảng không ngớt  
tung ra những lời đồn thổi huyền hoặc về mình, ví  
ật may mắn, lần đầu năm 2011 và lần tiếp theo năm  
2012 nhà nghiên cứu Cao Tự anh cho công bố bản  
dịch Việt ngữ của bộ chính sử nguyên tác Hán văn  
Đại Nam thực lục Chính biên đệ lục kỷ Phụ biên chỉ  
còn lại độc bản tại ư viện Viện Viễn Đông Bác cổ  
Pháp quốc (EFEO), ghi chép lịch sử Đại Nam trong  
quãng 28 năm, tính từ năm ành ái thứ 1 (1889)  
đến năm Duy Tân thứ 10 (1916). Như vậy, bộ chính  
sử này hiển nhiên chứa đựng sự kiện cuộc khởi nghĩa  
Võ Trứ - Trần Cao Vân ở niên điểm Canh Tý (1900),  
nếu tầm vóc của sự kiện đáng được Quốc sử quán chú  
ý. Quả thực nó đã được tái hiện trên nguyên một trang  
chép tay của bộ quốc sử Nguyễn triều. Nội dung ghi  
chép tuy vắn tắt, song đây là trang duy nhất lưu lại  
những thông tin chính thống hiếm hoi về cuộc bạo  
động xảy ra vào năm mở đầu thế kỷ XX này ở Phú  
Yên.  
Trên cơ sở đó, phối kiểm các chứng liệu tin cậy, chúng  
tôi tiến hành minh định một số vấn đề tồn nghi xung  
quanh cuộc khởi nghĩa được phát động bởi hai thủ  
lĩnh Võ Trứ - Trần Cao Vân như sau.  
VÕ TRỨ KHÔNG PHẢI LÀ SƯ TĂNG  
Ngược lại lai lịch nho sĩ - cư sĩ của một Trần Cao Vân như “sư tăng ấy [Võ Trứ] là tiên cưỡi chim bay đi ban  
tương đối rõ ràng qua các cứ liệu đương thời, xuất đêm hai cánh đập nhẹ nhàng, hay quảng bá về những  
thân của Võ Trứ có khá nhiều điểm chưa được sáng tấm bùa gắn với sức mạnh siêu nhiên bởi đó là “bùa  
tỏ, dù rằng Võ Trứ là thủ lĩnh vận động tiên phong, tiên, gặp cọp không sợ, đạn bắn không trúng, có trúng  
trong khi Trần Cao Vân bí ẩn với vai trò quân sư nơi cũng không bị thương” để bán dưới hình thức dâng  
hậu trướng. Vậy trước tiên, Võ Trứ có phải xuất thân nộp lễ vật gồm “3 gói trà và nhang cùng giấy vàng bạc”  
từ tăng sĩ?  
[2, tr. 798].  
967  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
Trong khi đó, Võ Trứ còn mang theo cả hàng hóa ít khoác áo nhà chùaa [6, tr. 35], do đó không có cơ  
sở để gọi tên cuộc khởi nghĩa này là “Cuộc khởi binh  
nâu sồng” theo Trần Xuân An7 hay cường điệu hóa  
rằng “Một hiện tượng hy hữu trong lịch sử lao tù: đệ  
tử ích Ca nằm chật các nhà lao hai tỉnh Bình Phú!,  
theo Đặng Quý Địch [3, tr. 135, 139].  
để tiến hành trao đổi, mua bán với đồng bào vùng  
cao, thông dụng nhất là hàng khí cụ như dao, cuốc,  
rựa. Đây là một lợi thế cho công cuộc vận động lực  
lượng của Võ Trứ bởi việc buôn bán mà ông đang tiến  
hành phù hợp với chủ trương đẩy mạnh giao lưu kinh  
tế Kinh - ượng theo phương thức cửa biển - đầu  
nguồn của chính quyền Nam triều, nhờ đó đã thoát  
khỏi án giam cầm với tội tàng trữ vũ khí, khi quan  
binh “xét nhà có 20 lưỡi dao bảy, 4 lưỡi dao hạng 7...  
Khi ấy huyện viên này xét nghị rằng hiện tại phủ dụ  
dân Mọi về buôn bán, qua lại trao đổi với người Việt,  
các thứ dao mà Võ Văn Trứ [tức Võ Trứ] tàng trữ là  
vật dùng để mua bán với người Mọi, chẳng có gì lạ  
mà bọn Văn Cử [tức Trần Cử] bắt giải chẳng qua là  
mưu lợi cạnh tranh thương mại mà thôi, đã gọi tấn  
thủ nguồn Hà anh là Nguyễn Văn Cẩn kết tờ khai  
nhận lãnh[2, tr. 809-810]. Tuy vậy, dù chỉ nhằm che  
mắt đối phương, việc hành nghề buôn của Võ Trứ, từ  
bán thuốc - phát bùa đến trao đổi các loại hóa vật,  
CHÙA TỪ QUANG KHÔNG PHẢI LÀ  
CƠ SỞ CỦA NGHĨA ĐẢNG  
Chùa Từ Quang/Đá Trắng tọa lạc trên sườn núi Xuân  
Đài, cách thành Long Uyên (An ổ), mà từ năm Kỷ  
Hợi (1899) trở thành phủ lỵ Tuy An, khoảng 2km về  
hướng Bắc, cách tỉnh lỵ Sông Cầu khoảng 20km về  
hướng Tây Nam, nằm kề sát trục đường thiên lý và  
gần thương cảng Vũng Lấm tấp nập tàu thuyền với sự  
kiểm soát chặt chẽ của hệ thống an ninh và thu thuế  
thuộc Chính phủ thuộc địa.  
Vi bề dày hàng trăm năm tuổi và nổi tiếng với các bậc  
danh tăng mà người khai sơn là đại hòa thượng Pháp  
Chuyên Diệu Nghiêm, chùa là nơi đào luyện nhiều  
hoàn toàn không tương hợp với hành trạng của một thế hệ sư tăng trụ trì cho các chùa quanh vùng và từ  
bậc sư tăng nhà Phật vốn lấy điều bố thí làm tiêu chí Phú Yên trở vào Nam. Ngôi chùa cũng nổi tiếng linh  
thiêng với những lần cầu tự nghiệm ứng và được nhà  
Nguyễn tưởng thưởng chiếc hồng chung năm 1804 lúc  
vừa mới khởi triều, vinh danh bằng một văn bia tụng  
ca cảnh sắc ngoạn mục của địa phương năm 1842,  
được trao tặng bức hoành quý phái từ tay hoàng thái  
hậu Từ Dũ năm 1888 [8, tr. 411] và được chính vua  
Nguyễn ban ngạch sắc tứ đạo hạnh vào năm ành  
ái nguyên niên (1889) [9, tr. 89]. Đặc biệt, chùa Đá  
Trắng còn cung hiến cho hoàng triều hàng năm một  
loại lễ vật không nơi nào khác sánh kịp và được xếp  
vào hàng đệ nhất cống quả của vương quốc Đại Nam  
là trái xoài voi, hay còn gọi “xoài tiến” với ý nghĩa cung  
tiến triều đìnhb 10. Để thực thi sứ mệnh tiến vua của  
xoài voi hay xoài Đá Trắng, mà đôi khi triều đình Huế  
trực tiếp cắt cử các vị đại quan về tận địa phương thu  
mua, quan binh tỉnh Phú Yên phải thường xuyên đến  
chùa để trông nom, bảo vệ vườn xoài từ lúc đơm hoa  
cho đến khi thu hái, cả việc chuyển vận về Kinh.  
Hơn nữa, tương truyền trong phong trào Cần vương  
kháng Pháp dưới quyền lãnh đạo của Lê ành  
Phương vào những năm 1885-1887, chùa Đá Trắng  
từng là nơi hội họp của các vị thủ lĩnh nghĩa quân;  
đồng thời tại một vị trí liền kề ngôi chùa thuộc dãy  
Xuân Đài, viên tướng Bùi Giảng chỉ huy cuộc phòng  
độ trì.  
Chẳng những thế, Võ Trứ còn đem theo vợ con sống  
chung hay gửi gắm ở các sách (buôn) người ượng.  
Trong sinh hoạt ăn uống, ông cùng các đồng sự dùng  
cả thịt động vật nuôi hoặc thú rừng, như tường trình  
của quan binh tỉnh Phú Yên khi xâm nhập doanh trại  
của Võ Trứ tại xứ Lang Phá mà từ đó đi ra có bóng  
dáng tăng nhân: “thấy có 3 trại xá (mới lập), trong đó  
1 trại có một bức đan tre làm bàn thờ, chung quanh có  
nhiều lò bếp bằng đá và xương bò, 2 chỗ dây thừng”  
[2, tr. 796]. Những biểu hiện nêu ra chứng tỏ đạo giáo  
Võ Trứ muốn khuếch trương không phải iền  
tông đích thực mà thiên về pháp thuật với sự dung  
hợp phương tục trong một mức độ nào đó.  
Bởi vậy, các sử liệu đương thời đều gọi Võ Trứ là “gian  
tăng” theo nghĩa giả làm sư/thầy chùa, như Đại Nam  
thực lục chép “Gian tăng Võ Trứ dấy loạn… Quan hai  
tỉnh Bình Định, Phú Yên gửi phi chương tâu lên, sai  
hết lòng tìm bắt để dứt rễ ác, làm yên địa phương” [5,  
tr. 374], hay Châu bản triều Nguyễn với bản tấu trình  
của Bố chánh Nguyễn Chất lên Cơ mật viện: “nghe  
đồn có gian tăng dụ Mọi gạt người cho bùa, sau nhận  
được 2 phong mật phi tư của quan tỉnh Bình Định mà  
trong đó một phong “báo cáo rằng có tên Võ ản [tên  
khác của Võ Trứ] giả làm sư mưu ngụy” [2, tr. 795],  
hoặc La province de Phu-yen chỉ ra “Đó [Võ Trứ] là  
một nhà sư hay nhà sư giả danh, ông ta được coi như  
là một pháp sư có chút danh tiếng” [6, tr. 395]. Rõ  
ràng, Võ Trứ không phải là sư tăng, cũng như nghĩa  
đảng được ông và Trần Cao Vân chiêu tập chỉ một số  
aHành Sơn giải thích rằng: “Sau khi đám dân binh thất bại, nhà  
cầm quyền Bảo hộ khám phá được rất nhiều võ khí giấu cất, phần  
nhiều là thứ rựa đốn củi, và lùng bắt được một số dân binh, trong đó  
phần đông là thầy chùa [người viết nhấn mạnh], nên người ta gọi giặc  
năm ấy là giặc Võ Trứ hay là giặc ầy Chùa, lại có người gọi là giặc  
Rựa.  
bHoàng đế iệu Trị nhận xét rằng hai loại danh quả nhất nhì xứ  
Bắc là vải và nhãn cũng không thể sánh kịp xoài voi của Phú Yên.  
968  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
thủ đã thiết lập một pháo đài chống trả sự phản công đó nã bắt Võ ản cùng đồng bọn và do tòa lên đường  
của đối phương do Cheuvreux cùng Trần Bá Lộc cầm  
đầu đến từ phía hải cảng Vũng Lấm, mà cũng chính  
viên mãnh tướng này ngay sau đó đã bất ngờ phản  
giáo và dốc sức phụng sự trong hàng ngũ Pháp - Nam  
(Nam triều). Nếu vậy, công cuộc bình định Phú Yên  
của chính quyền thực dân về sau sẽ không thể không  
để mắt đến “địa chỉ đỏ” chùa Đá Trắng, khi mà tiếng  
súng Cần vương lùi vào dĩ vãng chưa xa.  
chận ngay các nẻo đường xung yếu, thiểm chức liền  
qua đó họp cùng phủ viên tìm nhiều cách lập kế bắt  
bọn chúng để tuyệt gốc ác)” [2, tr. 795].  
Được biết Tri phủ Tuy An Nguyễn Khải là một cộng  
sự đắc lực của cơ quan mật thám Pháp, bởi thế, mọi  
dấu hiệu cho thấy hoạt động của nghĩa quân Võ Trứ  
diễn ra trên địa bàn Tuy An đều không dễ gì qua mặt  
được y mà chùa Đá Trắng là một trong số đó.  
Chính vì những lẽ trên, chùa Từ Quang luôn tập trung  
sự cảnh giác và giám sát của chính quyền địa phương  
đóng tại thành Long Uyên kề bên. Chắc chắn các sư  
tăng chùa Đá Trắng vẫn dành những sự ủng hộ tương  
thích nào đó đối với cuộc vận động kháng Pháp của  
Võ Trứ - Trần Cao Vân trên tinh thần ái quốc và nghĩa  
cử cao đẹp đạo - đời, song ngược lại, việc các vị thủ  
lĩnh mạo muội đứng ra tổ chức những lần mật đàm  
can hệ đến đại cuộc tại một nơi luôn bị rình rập bởi  
tai mắt của chính quyền đối nghịch là điều tuyệt nhiên  
không thể xảy ra, nhất là khi dấu vết của những mưu  
toan nổi dậy đã bị phơi bày.  
ật vậy, 5 Châu bản còn sót lại về sự vụ Võ Trứ có  
xuất xứ từ Bố chánh - Án sát tỉnh Phú Yên và Tổng  
đốc Bình Phú đều thuộc vào quãng thời gian tháng 2  
và tháng 3 năm ành ái thứ 11 (1899). Đây là thời  
điểm chính quyền Phú Yên bắt đầu phát hiện âm mưu  
khởi loạn của nghĩa đảng Võ Trứ và ráo riết truy lùng  
các thủ lĩnh cầm đầu.  
Tờ trình sớm nhất lên Cơ mật viện đề ngày 15 tháng  
2 cho biết: “eo Trần Kỳ Phong tri huyện huyện Sơn  
Hòa bẩm nói nghe dân trong tổng Xuân Sơn ượng  
hạt ấy đồn rằng có một sư tăng ở trên Mọi dùng bùa  
chữa bệnh, dân Mọi nhiều người tin theo… Ngày 14  
tri huyện Sơn Hòa bẩm nói ngày 13 lý trưởng thôn  
Phú Giang (tổng Xuân Sơn ượng) trình nói ngày  
11 có người trong làng báo biết rằng vào khoảng canh  
2, đêm mùng 10 nhân đi canh tuần bắp có trông thấy  
bọn Mọi đi đêm, ước chừng trên dưới 50 đứa, trong đó  
có nghe 3, 4 người kẻ chợ. Chúng đi đường núi đi qua  
làng rồi đi về phía Nam. Lý trưởng ấy hỏi các làng Mọi  
chung quanh thì nói rằng chúng đi thăm một người  
Cao Man (tục danh là Trứu Lô) và người kẻ chợ” [2, tr.  
788]. Đó chính là Võ Trứ và người cộng sự miền núi  
của ông mà đến tờ trình tiếp theo đề ngày 20 tháng  
2 thì danh tính và âm mưu đã bị phát hiện từ trước  
bởi mật vụ Pháp: “Vào giờ Dần ngày 16 tháng này ty  
Phiên tôi tiếp được (…) 2 phong mật phi tư, trong đó  
nói (một phong báo cáo rằng có tên Võ ản [cũng là  
Võ Trứ] giả làm sư mưu ngụy, Khâm sứ sai đánh dẹp  
đảng ấy và giao cho thiểm chức ra sức nã bắt cùng phái  
lính tập giúp sức. Một phong nói rằng theo thám báo  
thì gian tăng họp nhau ở A Túi, giao Phủ viên Tuy An  
đem 20 lính tập cùng với người dẫn đường qua ngay  
Rõ ràng, không có khả năng chứng tỏ hai vị thủ lĩnh  
Võ Trứ - Trần Cao Vân đứng ra tổ chức một cuộc  
nghị đàm “khoáng đại”c [3, tr. 37] ngay tại chùa Đá  
Trắng vào đêm rằm tháng giêng (14.2.1900) theo Võ  
nhân Bình Định [4, tr. 507] hay vào ngày rằm tháng 7  
năm Kỷ Hợi (1899) theo Cuộc khởi nghĩa Võ Trứ năm  
Canh Tý (1900) ở Phú Yên11, lúc mà nhiều mật khu  
của nghĩa đảng ngay tại những vùng rừng núi trắc trở  
Sơn Hòa và Đồng Xuân đang bị quân đội liên chính  
quyền Pháp - Nam xâm nhập và triệt phá, các cơ sở  
trong quần chúng bị bại lộ và chịu nạn bắt bớd [2, tr.  
796, 816-818], để rồi cuối cùng buộc phải dốc toàn bộ  
thực lực còn lại tấn công trực diện đối phương, chấp  
nhận kết cục tất định ngoài ý hướng và mục đích tiên  
khởi.  
Đây là một trong những trích đoạn hào sảng và hùng  
hồn nhất nhưng cũng phiêu lưu và giả tưởng nhất  
về cuộc khởi binh năm Canh Tý (1900): “Đêm rằm  
tháng Giêng (14.2.1900), tại chùa Đá Trắng (Tuy An),  
bên ngoài thì làm chay, múa lục cúng… bên trong thì  
nghĩa đảng mở hội nghị. Chỉ huy các cấp ượng và  
Kinh đều có mặt. Ngoài Võ Trứ và Trần Cao Vân là  
hai vị lãnh đạo tối cao, còn có Nguyễn Khỏe, tức Đội  
Khỏe, một kiện tướng sống sót của nghĩa quân Cần  
vương Phú Yên do Lê ành Phương, Nguyễn Hào  
Sự, tức Bá Sự lãnh đạo, Huỳnh Cụ, tức Cai Năm, một  
người iên Chúa giáo ngoan đạo, đã gia nhập đảng  
từ lúc sơ khai. Lại có các ông Trần Ký, Lê Trợ, Trần  
Châu, ba Phật tử thuần thành, đã cúng hết tài sản  
cho nghĩa quân và nguyện xả thân vì Nước vì Đạo.  
Toàn thể hội nghị đồng thanh tôn Võ Trứ làm Minh  
Trai chủ tể, Trần Cao Vân làm Quân sư, Nguyễn Khỏe  
làm Đại tướng, Huỳnh Cụ làm Phó tướng… Còn các  
người khác thì tùy khả năng mà phân công. Hội nghị  
quyết định hưng binh trong vòng tháng Giêng[4,  
tr. 507-508].  
cChữ của Đặng Quý Địch, nghĩa là “cả đời không có.  
dTChâu bản đề ngày 20 tháng 2 năm ành ái thứ 11 cho biết  
chính quyền tỉnh Phú Yên sai phủ huyện Tuy An và Sơn Hòa phối  
hợp với các đơn vị lính tập mở cuộc hành quân vào xứ Lang Phá đốt  
sạch 3 trại xá của nghĩa quân. TChâu bản đề ngày 19 tháng 3 năm  
ành ái thứ 11 cho biết lý dịch thôn Phước Hòa (thuộc huyện Sơn  
Hòa) căn cứ vào bản danh sách bị đánh rơi của nghĩa đảng Võ Trứ  
mà bắt giam 9 người. Ngoài ra còn có 12 người khác đang giam giữ  
tại Sông Cầu.  
969  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
Albert Laborde đảm chức công sứ tỉnh Phú Yên trong Trai chủ tể thì có nghĩa một vị vua với đức tính nhà  
quãng thời gian 3 năm (1926 - 1928) đã có những Phật. Nên cụm từ này vừa biểu lộ danh hiệu của Võ  
trang ghi chép qua thiên tiểu luận La province de  
Phu-yen dựa trên nhiều tư liệu mà một số ngày nay  
không còn tìm thấy. Chùa Từ Quang và Võ Trứ được  
Laborde đề cập trên nhiều giác độ nhưng tuyệt nhiên  
không có mối liên hệ nào giữa cuộc dấy binh với ngôi  
chùa nổi tiếng này. Tập khảo luận được hoàn thành  
trước thời điểm xảy ra trận hỏa hoạn đối với chùa  
Đá Trắng vào năm 1929 nên không cần đặt vấn đề đã  
từng có những trang tư liệu chứa nội dung cùng loại  
bị thiêu hủy trong ngọn lửa vô tình. Từ đây có thể đi  
đến kết luận theo cách thông thường, rằng chính sự  
nổi tiếng của ngôi chùa trong bối cảnh đặc biệt của  
thời cuộc đã không cho phép các vị thủ lĩnh Võ Trứ  
- Trần Cao Vân tiếp cận với tính cách một cơ sở vận  
động của nghĩa đảng, cho tới trước lúc bắt buộc phải  
động binh với một đội quân chỉ khoảng 300 tay cung  
- kiếm - giáo - rựa.  
Trứ đứng đầu cuộc khởi nghĩa [chữ Trai có thể từ chữ  
Trứ đọc trại ra - NMS], vừa nói lên một vị vua có đức  
tính nhà Phật13. Như vậy, có thể chính từ sự hiếu kỳ  
của người Pháp với cách gọi ví von “giặc thầy chùa”  
cùng một lối phô diễn cường điệu thường thấy trong  
văn phong báo cáo, lúc này thì “Phật vương, lúc khác  
lại là “một giáo chủ đạo Hồi hay một vị thượng quan  
đi kinh lý” đối với vị thủ lĩnh Võ Tr12 đã khiến cho  
nhận thức lịch sử trở nên rắm rối.  
ực tế, cuộc vận động kháng Pháp của Võ - Trần  
không có ngọn cờ “Minh Trai chủ tể” mà chỉ có “Minh  
Tề chủ tể. Bởi thủ lĩnh không phải là sư tăng nên  
chẳng có nhân danh một vị Phật vương nào phất  
phưởng trên cơ đồ mà họ đang dốc sức kiến tạo. Họ  
công khai tuyên bố mục đích đánh đuổi thực dân  
Pháp, phô bày lòng căm hận đối với bè lũ xâm lăng  
bằng cách thách thức một cuộc quyết đấu mất còn. Họ  
lấy danh nghĩa một triều đại từng độc lập, tự chủ trong  
quá khứ huy hoàng để kiến thiết một tân triều đại độc  
lập, tự chủ cho tương lai đất nước. Họ là trung thần  
của họ Nguyễn quyết chí trung hưng triều Nguyễn.  
Đó là ý niệm về một nhà nước Việt Nam thống nhất  
thời Gia Long, một nhà nước Đại Nam hùng mạnh  
thời Minh Mệnh - iệu Trị và trong tương lai sẽ là  
một nhà nước Đại Hóa phôi thai từ ý tưởng của hoàng  
đế Tự Đức với khát vọng chấn hưng chủ nghĩa quân  
quyền. Cuộc khởi binh của Võ Trứ - Trần Cao Vân thể  
hiện tập trung lý tưởng minh quân nàyf [14, tr. 202,  
249-250].  
MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA  
LÀ PHỤC HƯNG NỀN QUÂN CHỦ  
NGUYỄN TRIỀU  
Trước nay các tài liệu chỉ cho biết lời hiệu triệu của  
cuộc vận động Võ Trứ - Trần Cao Vân quy tụ xung  
quanh một vị “Minh Trai chủ tể” mà không lý giải  
khúc chiết ẩn ý của chiêu bài này. Trong khi giới  
quan binh người Pháp phải cảnh giác về một vị “thánh  
quân” trong tương lai chính trị giả định của những  
lãnh tụ khởi nghĩa thì hậu thế người Việt Nam chỉ ra  
đích danh vị Minh Trai đó chính là Võ Trứ. Trích đoạn  
từ bản tường trình của công sứ Phú Yên Céleron de  
Blainville: “Hỏi về mục đích cuộc hưng binh, Võ Trứ  
khẳng khái đáp rằng để lật đổ chế độ hiện tại, thay  
triều vua đương kim bằng một triều khác mà nhà vua  
là một thánh quân đủ Bi, Trí, Dũng của đạo Phật”e  
Trước thời điểm dấy binh vào giữa tháng 4 năm Canh  
Tý (1900), thủ lĩnh Võ Trứ đã tung ra các lá cờ vải đỏ  
vừa thách thức kẻ thù, vừa tuyên cáo trước chúng dân  
danh nghĩa của việc mà ông và nghĩa đảng đang làm,  
rằng “Nam triều ta có một danh tướng xuất hiện ở xứ  
Bàn ạch [tức ượng du Phú Yên], Tây Dương các  
ngươi cứ dốc cả nước kéo tới mà tấn công” [5, tr. 374].  
Như vậy, Võ Trứ nêu cao danh nghĩa triều đình nhằm  
chiêu tập lực lượng, phân rã liên chính quyền Pháp -  
Nam, tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ hay chí ít trung  
lập hóa hàng ngũ quan lại và hương lý địa phương,  
[
12, tr. 4k]; còn đây là lập luận của một số nhà nghiên  
cứu ngày nay: “Võ Trứ đề ra chủ trương tự tôn xưng  
Minh Trai chủ tể (vị chúa tể chay tịnh, sáng suốt)7,  
hay: “cụm từ Minh Trai chủ tể dùng để chỉ Võ Trứ  
với hiệu Minh Trai đứng đầu trong cuộc khởi nghĩa  
năm 1900. Nếu gộp tất cả các nghĩa của cụm từ Minh  
eTác giả Đào Nhật Kim trong bài viết cũng dẫn ra trích đoạn rằng  
Ta muốn đánh người Pháp để giành độc lập cho đất nước và thay  
đổi triều đại đương kim đã phản bội lại dân chúng để lập lên triều  
vua khác, mà người cai trị là một thánh quân” [11]. Tuy nhiên, trên  
cơ sở văn cảnh và logic chuỗi sự kiện, thuật từ ”triều đại đương kim”  
cần đánh đổ được hiểu như là các ngôi vua kế cận và hiện thời, liên  
tục 6 đời đổi ngôi chỉ trong vòng chưa tới hai thập kỷ (1883 - 1900, từ  
Dục Đức đến ành ái), tạo nên dồn dập biến cố về mọi mặt đời  
sống mà người Pháp là tác nhân. Đánh đuổi Pháp đế quốc là mục  
tiêu trước nhất của cuộc khởi binh này. Việc tôn phò các bậc “thánh  
vương” triều Nguyễn của cuộc khởi nghĩa, như sẽ được diễn giải sau  
đây, dù chính thống hay chỉ là danh nghĩa, cũng đều không dẫn đến  
mâu thuẫn trong hệ thống lập luận của bài viết này.  
fSử quan triều Nguyễn thống nhất đánh giá hoàng đế Tự Đức  
xứng danh một vị thánh vương. Điếu văn trong lễ truy tôn thụy hiệu  
Tự Đức có đoạn: “ba mươi sáu năm nối ngôi trời, làm rạng rỡ mưu tốt  
của thánh thần truyền nối; kế ức nghìn năm để tiếng tốt, nên chính trị  
giáo hóa như ngọc báu vàng mười. To như trời không hình dung nổi,  
chẳng phải thánh sao được thế ư?. Miếu hiệu lúc đầu của Tự Đức là  
ành Tổ, sau chiếu theo Di chúc đổi là Dực Tông, bởi Di chúc truyền  
rằng: “Trẫm có tội với tổ tiên, không dám thờ vào ế miếu, trước đã  
nói rồi, chỉ có quan và dân lượng thứ cho. Miếu hiệu đều xưng tông,  
như phép nhà Hán, không đặt nhiều tên thụy. Trẫm không có công  
to, không được xưng là tổ, cũng nên theo thế mà làm. Như vậy, chính  
đức khiêm nhường, ngay thẳng của hoàng đế đã khiến cho quần thần  
và chúng dân càng thêm nể phục.  
970  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
đồng thời đánh lạc hướng đối phương về mục tiêu và lực lượng tấn công. Ghi chép của Quốc sử quán cho  
địa bàn xuất kíchg [8, tr. 396].  
biết: “Ngày 16 tháng này [tháng 4 năm ành ái  
thứ 12] đảng ấy khoảng 300 người đều cầm gậy gộc  
ngầm tới thôn Triều Sơn huyện Đồng Xuân gần Tòa  
sứ tỉnh ấy, lính tập đuổi bắn đảng ấy chạy tan, lấy được  
một lá cờ vải đỏ trong viết Chủ tể Minh Tề nước Đại  
Hóa / Dấy nhung binh phù tá thánh vương. Ngày 16  
tháng 4 năm Minh Tề thứ 1[5, tr. 374]. Như vậy, Võ  
Trứ không chỉ “vua của người Mọi” như đã biết [8,  
tr. 395] mà giờ đây ông còn là người đại diện cho cả  
một vương quốc Đại Hóa đứng ra sửa trị chế độ minh  
quân, phục hưng triều đại vua trước quang minh lỗi  
lạc.  
Song, trước khi mọi chuyện trở nên rõ ràng, hẳn  
thông tin này vẫn còn là một phát hiện bất ngờ:  
“áng trước [tức tháng 4 năm Canh Tý (1900)] tỉnh  
Phú Yên phái quân tìm kiếm được một quả ấn đồng  
trong khắc sáu chữ Đại Hóa quốc chủ tể ấn[5, tr.  
374]. Đó chính là quốc hiệu mà trong lúc vận nước  
suy vi bởi các trở lực nội loạn và ngoại xâm, đương  
thời hoàng đế Tự Đức đem ra bàn luận với quần thần  
có nên thay đổi. Châu bản đề ngày 7 tháng 12 Tự  
Đức tam thập niên (năm Tự Đức thứ 30/1877) chép  
lại sự việc vắn tắt: “Viện cơ mật góp ý kiến về vấn  
đề đổi quốc hiệu, lấy quốc hiệu là Đại Hóa (dựa theo  
tên hai tỉnh anh Hóa và uận Hóa) cũng được,  
nhưng trước khi cải quốc hiệu phải thông báo cho  
các nước Pháp, Y [Y Pha Nho, tức Tây Ban Nha] và  
Trung Quốc biết” [15, tr. 250]. Sang mùa xuân năm  
sau, vấn đề quốc hiệu được tái thảo luận và chung cục  
như sau: “Vua bàn lấy hai chữ Đại Hưng hoặc Đại  
Hóa để đổi đặt quốc hiệu. Cơ mật viện đại thần tâu  
nói: chữ Hưng tuy tốt nhưng xét đến sự thực thì chưa  
đủ, chữ Hóa đã gồm cả gốc trước, lại hợp với tiếng  
Nam, tưởng làm thỏa đáng duy có hiện nay nhiều việc  
lòng người dễ dao động, nếu một khi trái đi, thói đời  
thấy nói sai, sợ không ngăn được, xin đợi khi nào ít  
việc sẽ thi hành. Vua cho là phải, rồi không quả quyết  
đổi” [16, tr. 110]. Chắc hẳn vị hoàng đế nổi tiếng bất  
hạnh này trong những năm ở ngôi cuối đời vẫn canh  
cánh bên lòng ước vọng về một vương quốc Đại Hóa  
cường thịnh mà sinh thời không được thỏa nguyện  
bởi những đại họa chẳng thể nào chống đỡ nổi bủa  
vây từ nhiều phía.  
Vậy là, trong tình thế liên tiếp bị vây ráp bởi quân lực  
và mật thám của đối phương kể từ đầu năm 1898, hai  
thủ lĩnh Võ - Trần đã quyết định khởi binh mà mục  
tiêu thu gọn là hệ thống cơ quan đầu não của liên  
chính quyền Pháp - Nam tại tỉnh lỵ Sông Cầu. Vi một  
thực lực khiêm tốn thu gom từ các căn cứ rải rác thuộc  
miền núi hai huyện Đồng Xuân và Sơn Hòa cùng một  
số tân binh mới gia nhập trên đường đi qua các thôn  
làng, vị “Chủ tể Minh Tề” hay “Danh tướng xứ Bàn  
ạch” đã bí mật chiếm huyện lỵ Đồng Xuân đóng tại  
thôn Triều Sơnh [5, tr. 374], trước khi bất ngờ tập kích  
nhằm thẳng đích Tòa sứ Sông Cầu. Tuy nhiên, ưu thế  
về vũ khí và chiến thuật của quân Pháp đã đẩy lùi được  
Niên hiệu Minh Tkhởi đầu cho cơ đồ lẫy lừng đó, nếu  
lịch sử hào phóng dành cho cuộc dấy binh của Võ Trứ  
- Trần Cao Vân thắng lợi bắt đầu từ tỉnh thành Phú  
Yên.  
Nhìn lại cuộc vận động kháng Pháp cứu quốc của Võ  
Trứ - Trần Cao Vân với các sử liệu nêu trên, tính chất  
Cần vương cần được xác định lại trong trường hợp  
này. Trước nay, khi đề cập đến phong trào đấu tranh  
của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh bình định  
của thực dân Pháp, các nhà phân kỳ lịch sử khi biên  
soạn các giáo trình bậc Đại học đã phân biệt thành hai  
mảng phong trào, gồm có phong trào Cần vương và  
phong trào đấu tranh tự vệ, trong đó cuộc khởi nghĩa  
Võ Trứ - Trần Cao Vân được xếp vào mảng phong trào  
thứ haii [17, tr. 535-563]. Đây là sự nhầm lẫn do hạn  
chế về công tác tổng quan tài liệu.  
ực tế, Võ Trứ cũng như Trần Cao Vân đều tỏ ra  
trung thành với triều Nguyễn, thậm chí tự nhận mình  
là đại quan hoặc danh tướng của Nam triều, chiến  
đấu vì lý tưởng một nhà nước Đại Hóa thịnh trị từng  
được ấp ủ bởi tiền triều Tự Đức, hay nói rộng ra là  
các vị thánh vương Nguyễn triều. Cuộc ứng nghĩa  
dưới ngọn cờ Võ Trứ - Trần Cao Vân, bởi thế, là sự  
kế tục Cần vương của Lê ành Phương, Nguyễn Hào  
Sự trước đó ở Phú Yên. Hai vị thủ lĩnh Võ - Trần cần  
được tôn xưng như những lãnh tụ Cần vương đích  
thực trong phong trào yêu nước nói chung ở Việt Nam  
vào những năm chuyển giao thế kỷ từ XIX sang XX.  
Như vậy cũng có nghĩa là, trong khi phong trào Cần  
vương trên bình diện cả nước kết thúc từ năm 1896  
thì riêng ở địa phương Phú Yên, phong trào này vẫn  
tiếp tục kéo dài thêm 4 năm.  
Vài năm trở lại đây, những nhà viết sử địa phương  
bám theo các giáo trình Đại học nói trên tiếp tục đưa  
ra những nhận định mang tính lập lờ và phiến diện,  
mà một trong số đó là công trình Lịch sử Phú Yên thế  
kỷ XIX, cho rằng “Là một trung tâm kháng chiến ở  
Nam Trung Kỳ, phong trào Cần vương Phú Yên tồn  
gCông sứ Laborde cho biết đúng vào ngày 14.5.1900 (16 tháng 4  
năm Canh Tý) khi phần lớn binh lực Pháp dưới sự chỉ huy của viên  
thanh tra hành quân về hướng Củng Sơn (huyện Sơn Hòa) nhằm tìm  
diệt nghĩa quân, Võ Trứ lập tức tấn công Tòa sứ Sông Cầu.  
hNăm ành ái thứ 11 (1899), cùng với việc dời tỉnh lỵ Phú Yên  
tới thôn Long Bình cạnh Tòa sứ Sông Cầu, dời phủ lỵ Tuy An tới tỉnh  
thành cũ, dời huyện lỵ Sơn Hòa tới thôn Lạc ịnh, huyện lỵ Đồng  
Xuân cũng được cắt đặt ở thôn Triều Sơn.  
iNgoài ra, tài liệu này cũng như các giáo trình cùng loại trình bày  
cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân với rất nhiều sai sót.  
971  
     
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
tại trong thời gian 1885-1892 và sau đó chuyển tiếp hoặc địa phương diễn tiến. Bởi vậy, cần gọi đúng và  
sang hình thức đấu tranh mang màu sắc tôn giáo do đầy đủ tên cuộc khởi nghĩa là khởi nghĩa Võ Trứ - Trần  
Võ Trứ và Trần Cao Vân tổ chức, lãnh đạo” [18, tr.  
388-389]. Trước đó, sử gia Trần Văn Giàu cũng có  
một kết luận tương tự: “Võ Trứ đã tìm ra con đường  
đấu tranh mới trong hoàn cảnh đen tối của đất nước,  
thực dân Pháp đã đặt xong nền cai trị ở nước ta, phong  
trào Cần vương đã thất bại hoàn toàn19, nghĩa là loại  
trừ tính chất Cần vương của cuộc khởi nghĩa.  
Trong tình hình hạn chế nguồn tài liệu, có tác giả  
còn nhận thức sai lệch thân thế thủ lĩnh cũng như  
thành phần tham gia, từ đó suy diễn và so sánh một  
cách khiên cưỡng:“Chính sắc phục sặc sỡ của người  
ượng du (sách cũ gọi là người Mọi) và danh xưng  
mà quần chúng đương thời dành tôn vinh Võ Trứ -  
Cao Vân hay khởi nghĩa Phú Yên.  
Những minh định logic cho thấy một diện mạo lịch  
sử chân thực hơn về cả sự kiện lẫn nhân vật. Cuộc  
khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân tự nó đã là một sự  
kiện quan trọng cấu thành bề dày truyền thống chống  
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nó sống mãi cùng  
với thời gian mà không cần phải huyền thoại hóa hoặc  
phải vịn vào bất kỳ sự nổi tiếng nào khác.  
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Bản thảo này không có xung đột lợi ích  
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
Vị vua của người Mọi - khiến chúng ta nghĩ Võ Trứ Tác giả đã thực hiện:  
đã biết giới hạn mục tiêu chiến đấu của mình: Phải  
chăng Võ Trứ muốn thành lập một xứ Phật giáo Việt  
Nam tự trị, Kinh - ượng đoàn kết, với cương thổ là  
vùng đất thuộc huyện Đồng Xuân và cao nguyên Gia  
Lai kề đó, như Hoàng Hoa ám (1858-1913) được  
Pháp cho tự trị từ năm 1894 đến 1905, ở ngoài Bắc?,  
để rồi kết thúc bằng một hệ luận lạ lẫm và cực kỳ mâu  
thuẫn: “Như thế, trên những cơ sở khá vững chắc, có  
thể yên tâm khẳng quyết, Võ Trứ không phải như Mai  
Xuân ưởng trước đó, không phải như Vương Quốc  
Chính cùng thời, và cũng không phải như Trần Cao  
Vân, quân sư và đồng sự, Võ Trứ không phải là nhân  
vật lịch sử minh họa cho quan niệm, định kiến dòng  
tộc chủ nghĩa phong kiến7.  
1. Cập nhật và phổ biến tư liệu mới về cuộc khởi nghĩa  
trong tác phẩm sử học Đại Nam thực lục chính biên đệ  
lục kỷ phụ biên.  
2. Xác định những vấn đề cơ bản của cuộc khởi nghĩa,  
bao gồm:  
- ời gian: năm Canh Tý/1900.  
- Lãnh tụ: Võ Trứ và Trần Cao Vân.  
- Lực lượng: được một số giai tầng hưởng ứng, trực  
tiếp tham gia chủ yếu là đồng bào miền núi.  
- Mục đích: tiếp tục ngọn cờ ái quốc Cần vương với  
biểu trưng “Minh Tchủ tể, chủ trương đánh đuổi  
thực dân Pháp nhằm phục hưng nền quân chủ triều  
Nguyễn dưới quốc xưng Đại Hóa, lý tưởng do hoàng  
đế Tự Đức xướng xuất lúc sinh thời.  
3. Đề xuất:  
KẾT LUẬN  
Cùng với những kiến giải theo trên, một số vấn đề cơ  
bản về cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú Yên cũng xin  
được thống nhất xác định như sau:  
1. Niên đại cho cuộc khởi nghĩa là năm Canh Tý hay  
ành ái thứ 12 (1900), không phải năm Mậu Tuất  
hay ành ái thứ 10 (1898).  
2. Lá cờ hay danh nghĩa “Minh Trai chủ tể” của cuộc  
khởi nghĩa mà tất cả các tài liệu biên khảo trước nay  
đề cập, chính xác là “Minh Tchủ tể. Minh T(theo  
nghĩa: cùng nhau làm việc sáng) vừa là ngọn cờ hiệu  
triệu khởi nghĩa Cần vương, vừa là niên hiệu của triều  
đại mới sáng lập bởi những người dẫn dắt phong trào  
trù liệu.  
3. Trong khi phong trào Cần vương theo quan điểm  
trước đây kết thúc ở cột mốc 1896 bởi sự thất bại của  
khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh  
đạo, với khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân, phong  
trào này kéo dài thêm 4 năm, tức nới rộng biên độ  
thời gian đến năm 1900.  
- Mở rộng biên độ thời gian của phong trào Cần  
vương đến năm 1900.  
- Đặt tên đầy đủ: khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Thúy TT (chủ biên). Lịch sử Việt Nam(Từ năm 1897 đến năm  
1918). Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. 2017;7.  
2. HoaLK. ChâubntriềuNguyễn-TưliệuPhậtgoquacáctriều  
đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945.  
Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 2003;.  
3. Địch LXĐQ. Nhân vật Bình Định. Sài Gòn: Hạnh Phúc ấn quán.  
1971;.  
4. Tấn Q, Giao Q. Võ nhân Bình Định. Ttr. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.  
2001;.  
5. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên đệ  
lục kỷ phụ biên. Ttr. Hồ Chí Minh: Nxb Văn hóa - Văn nghệ.  
2012;.  
6. Sơn H. Cụ Trần Cao Vân. Paris: Minh Tân ấn bản. 1952;.  
7. An TX. Cuộc khởi binh nâu sồng 1898-1900 và Võ Trứ (1855?-  
1900) qua các nguồn tư liệu khác nhau. [Online]. 2010 [cited  
2020 Jul 5];Available from: txawriter.wordpress.com/2010/10/  
8. Sà NC (dịch). Những người bạn cố đô Huế (Năm 1929; vol XVI).  
Huế: Nxb Thuận Hóa. 2003;.  
9. Chúc NĐ, Nguyễn H. Lược sử Phật giáo và các chùa Phú Yên.  
Huế: Nxb Thuận Hóa. 1999;.  
10. Gia NL. Xoài Đá Trắng. Đặc san Suối Nguồn. 2014;(14):158–  
171.  
4. ông thường trước nay tên gọi các cuộc khởi  
nghĩa được đặt theo tên những người khởi xướng  
972  
                   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):966-974  
11. Kim ĐN. Võ Trứ và cuộc khởi nghĩa năm 1900 ở Phú Yên. Tạp  
chí Lịch sử Quân sự. 2009;(11):29–33.  
1976;.  
15. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Châu bản triều Tự Đức  
(1848-1883). Hà Nội: Nxb Văn học. 2003;.  
16. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Hà Nội: Nxb  
Khoa học xã hội. (Chính biên đệ tứ kỷ VIII: 1877-1880; vol  
XXXIV). 1976;.  
17. Quýnh TH, Lâm ĐX, Hãn LM. (chủ biên). Đại cương Lịch sử Việt  
Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam. 2009;.  
18. Bang Đ, Vịnh LT (chủ biên). Lịch sử Phú Yên thế kỷ 19. Hà Nội:  
Nxb Khoa học xã hội. 2009;.  
12. Blạinville C. Rapport Politique - Song-Cau, le 29 juillet 1900.  
l’administrateur Résident de France au Phu-Yen à monsieur le  
Résident supérieur en An-Nam à Hué (Báo cáo Chính trị - Sông  
Cầu, Công sứ Pháp ở Phú Yên gửi Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.  
2971900;p. 4k–4e.  
13. Sang NM. Dung hợp dân tộc, tôn giáo trong cuôc khởi nghĩa  
Võ Trứ và Trần Cao Vân những năm cuối thế kỷ XIX. [Online].  
2013;Available from: http://www.sugia.vn.  
14. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Hà Nội: Nxb  
Khoa học xã hội (Chính biên đệ tứ kỷ IX: 1881-1883; vol XXXV).  
19. Giàu TV. Phú Yên - yên định trong phú cường. Tạp chí Xưa &  
Nay. 2002;(106):5–6.  
973  
                 
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):966-974  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
New insights around the Vo Tru and Tran Cao Van uprising in Phu  
Yen (1900)  
Nguyen Van Giac*  
ABSTRACT  
In the context of increasing colonial exploitation policy of the colonial regime, following the period  
of struggling against the French imperialist aggression by the gathering of resistance centers across  
the country, some localities also rose up, including the rebellion led by Vo Tru and Tran Cao Van in  
Phu Yen.  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
Due to the scarce local resources, moreover, it is heavily influenced by popular perceptions of folk-  
lore, the research topics so far about this event have been mostly inaccurate, arbitrarily inferred or  
copied, stereotyped; for example, the flag named ``Minh Trai Chu Te'', the fusion of religions or even  
of the idealization of Buddhism, the forces involved, the status of the leaders, etc.  
Based on the newly updated data source, this article conducts criticism of documents so far; at the  
same time, it provides reasonable explanations with the establishment of some new perceptions of  
the issue: Vo Tru was not from the circle of Buddhist monks, nor he and most of the party members  
were ``bandits of Buddhism''; Tu Quang/Da Trang Pagoda was not the headquarters or a main  
base for gathering forces of the insurgency; Vo Tru and Tran Cao Van were the two enthusiastic  
Confuciannist leaders who campaigned against the French colonialists. Since then, the uprising  
bearing the names of these two leaders was a continuation of the Can Vuong movement in Phu  
Yen and in the whole country in general.  
This is also a practical historical activity contributing to the restoration of this important event in a  
closer approach to the authenticity of history.  
Key words: Vo Tru, Tran Cao Vân, Phu Yen, Song Cau office  
u Dau Mot University  
Correspondence  
Nguyen Van Giac, Thu Dau Mot  
University  
Email: vanjack.nguyen@gmail.com  
History  
Received: 7/07/2020  
Accepted: 17/3/2021  
Published: 30/4/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.649  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article : Giac N V. New insights around the Vo Tru and Tran Cao Van uprising in Phu Yen  
(1900). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):966-974.  
974  
pdf 9 trang yennguyen 21/04/2022 1360
Bạn đang xem tài liệu "Những nhận thức mới về cuộc khởi nghĩa Võ Trứ - Trần Cao Vân ở Phú Yên (Năm 1900)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhung_nhan_thuc_moi_ve_cuoc_khoi_nghia_vo_tru_tran_cao_van_o.pdf