Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái trong Iếu và Cắm Nôm
84
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
01(44) (2021) 84-89
Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái
trong Iếu và Cắm Nôm
The intersection of Tay and Thai people’s daily lyrical folk songs in Ieu and Cam Nom
Hà Xuân Hương*
Ha Xuan Huong*
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam
Faculty of Language and Culture, University of Sciences - Thai Nguyen University, Thai Nguyen, Viet Nam
(Ngày nhận bài: 13/01/2021, ngày phản biện xong: 25/01/2021, ngày chấp nhận đăng: 10/02/2021)
Tóm tắt
Là di sản văn hóa tinh thần của hai tộc người vốn có nhiều đặc điểm gần gũi với nhau, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,
Thái cũng chứa đựng nhiều nét tương đồng. Sự tương đồng đó thể hiện trên nhiều phương diện nội dung, thi pháp lời
thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xướng. Đặc biệt, ở Iếu và Cắm Nôm, sự giao thoa giữa dân ca trữ tình sinh hoạt của
người Tày và người Thái bộc lộ rõ ràng hơn cả. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy Iếu và Cắm Nôm tuy là các bộ phận
dân ca của người Tày song lại mang nhiều đặc điểm của dân ca trữ tình sinh hoạt Thái như: Các nội dung liên quan đến
việc phản ánh chế độ xã hội và vùng đất của người Thái, tên gọi, ngôn ngữ, công thức nghệ thuật, thể thơ. Sự giao thoa
như vậy có nguyên nhân từ địa bàn lưu truyền của Iếu và Cắm Nôm, từ nguồn gốc tộc người và từ đặc điểm sinh thái
văn hóa thung lũng của hai tộc người Tày, Thái.
Từ khóa: Sự giao thoa; văn hóa; dân ca trữ tình sinh hoạt; người Tày; người Thái; Iếu; Cắm Nôm.
Abstract
As a culture and spiritual heritage of two ethnic groups which have many close characteristics, daily lyric folk of Tay
and Thai activities also contain many similarities. That similarity shows in many aspects of content, poetic art of poetry,
performance characteristics. In particular, in Ieu and Cam Nom, the interference between the daily lyrical folk songs of
the Tay and the Thai is more evident. Through the survey, we found that Ieu and Cam Nom, although part of the daily
lyrical folk songs of the Tay have many characteristics of the daily lyrical folk songs of the Thai such as: Contents
related to the reflection of the social and land regime of the Thai people, names, languages, artistic formulas, poems.
Such interference is caused by the inheritance area of Ieu and Cam Nom, from the ethnic origin and from the cultural
ecological characteristics of the valley of the Tay and Thai peoples.
Keywords: Intersection; culture; daily lyrical folk songs; Tay ethnic; Thai ethnic; Ieu; Cam Nom.
1. Đặt vấn đề
chung, gần gũi, đồng thời lại có những nét đặc
Tày, Thái là hai dân tộc chủ thể của vùng
thù, phản ánh nhiều đặc điểm tự nhiên và văn
văn hóa Đông Bắc và Tây Bắc. Dân ca trữ tình
hóa, lịch sử, xã hội của tộc người.
sinh hoạt của hai dân tộc vừa có những nét
* Corresponding Author: Ha Xuan Huong; Faculty of Language and Culture, University of Sciences - Thai Nguyen
University, Thai Nguyen, Viet Nam.
Email: huonghx@tnus.edu.vn
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
85
Iếu và Cắm Nôm đều là những điệu hát đối
đáp giao duyên của người Tày. Thực hiện
nghiên cứu này, người viết dựa trên nguồn tư
liệu là các bài Iếu được công bố trong công
trình Iếu - dân ca dân tộc Tày (Hoàng Văn
Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng (sưu tầm,
biên dịch), 2012, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội) và 64 bài Cắm Nôm dưới hình thức song
ngữ Tày - Việt mà nghệ nhân Hà Đình Tỵ ở
Thượng Bằng La - Văn Chấn - Yên Bái cung
cấp cho người viết trong một chuyến đi điền dã.
Kết quả khảo sát cho thấy có sự gần gũi, giao
thoa của những đặc điểm, phẩm chất của dân ca
trữ tình sinh hoạt của cả hai dân tộc Tày, Thái
trong Iếu và Cắm Nôm. Sự giao thoa đó là khá
rõ ràng, bộc lộ ở nhiều đặc điểm nội dung cũng
như thi pháp lời thơ nghệ thuật.
Về thi pháp lời thơ nghệ thuật: Dân ca trữ
tình sinh hoạt của hai dân tộc Tày, Thái phân
biệt bởi nhiều điểm: ngôn ngữ, các công thức
truyền thống, thể thơ.
Ở dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, ngôn ngữ có
sự đan xen của các yếu tố Hán, Việt. Đây là kết
quả của sự hỗn hợp về mặt nhân chủng và quá
trình giao lưu ngôn ngữ giữa người Tày với
người Kinh, Hán. Người Tày cũng hay dùng
điển tích trong việc phô diễn tâm tư, tình cảm
do ảnh hưởng tính trí tuệ, bác học của văn
chương trung đại của người Kinh.
Về hệ thống hình ảnh, biểu tượng, nếu như
việc dân ca trữ tình sinh hoạt Tày sử dụng phổ
biến nhóm các hình ảnh, biểu tượng là con
người liên quan đến đặc điểm ưa dùng lối ứng
xử tinh tế, ý nhị, lối “tập cổ”; thì sự xuất hiện
nhiều của các hình ảnh, biểu tượng có nguồn
gốc tự nhiên lại phản ánh đặc điểm thiên nhiên
và cảm thức của người Tày trước thiên nhiên.
Dân ca trữ tình sinh hoạt Thái sử dụng hình
ảnh, biểu tượng nước với mức độ dày đặc do sự
có mặt và vai trò quan trọng của nước trong đời
sống của cư dân Thái. Bên cạnh đó, việc sử
dụng nhóm các hình ảnh, biểu tượng là vật thể
nhân tạo lại liên quan đến phong tục, tập quán,
tín ngưỡng của họ.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Sự khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt
Tày, Thái
Từ những đặc điểm có tính chất nổi trội của
dân ca trữ tình sinh hoạt của hai dân tộc Tày,
Thái, có thể nhận thấy sự khác biệt của hai hệ
thống dân ca này là khá rõ ràng như sau:
Về nhân vật trữ tình: Sự khác biệt về nhân
vật trữ tình trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,
Thái chủ yếu nằm ở cách ứng xử dưới ảnh
hưởng của tính cách con người trong thực tế và
của văn hóa. Ở dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,
nhân vật có cách ứng xử nhẹ nhàng, chừng mực
và văn hóa, phản ánh đặc điểm tính cách coi
trọng tôn ti trật tự, lễ giáo và tính cách thích an
nhàn của người Tày trong thực tế, đồng thời
cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Kinh thông
qua lối ứng xử tinh tế, ý nhị. Ứng xử của nhân
vật trữ tình trong dân ca trữ tình sinh hoạt của
người Thái lại nổi bật ở đặc điểm chủ động,
mạnh mẽ, quyết liệt. Lối ứng xử này ngoài việc
được tạo nền tảng từ sự dân chủ mà tộc người
dành cho còn thể hiện mẫu hình con người mơ
ước của nhân dân.
Về sự trùng lặp của các hiện tượng ngôn
ngữ, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày phổ biến kiểu
lặp nhóm khung kết cấu và câu mở đầu trong
phạm vi các bài hát cùng chủ đề, xuất phát từ
đặc điểm sáng tác theo những lối mòn để thuận
tiện cho việc tổ chức các bài hát cùng chủ đề
vào một cung lượn, dễ dàng cho việc học thuộc
và ứng tác; dân ca trữ tình sinh hoạt Thái phổ
biến kiểu lặp cụm từ và cấu trúc câu trong
phạm vi một đơn vị tác phẩm, liên quan đến
đặc điểm ngôn ngữ Thái.
Về thể thơ, dân ca trữ tình sinh hoạt
(DCTTSH) Tày chủ yếu sử dụng thể thất ngôn
(gồm thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn trường thiên
86
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
và song thất) do học tập từ văn học viết của
người Kinh. Trong khi đó, DCTTSH Thái lại
chỉ sử dụng thể tự do. Đặc biệt, thể tự do của
DCTTSH Thái được biểu hiện thông qua các
kiểu đặc trưng là xứ bắc (câu dài 5 - 15 chữ,
phải là số lẻ, ăn vần ở tiếng lẻ) và khống khái
(câu gồm 5 - 7 chữ, có vần giống như vè ở
người Việt, vần đặt ở cuối câu trước, bắt vần
với tiếng đầu câu sau). Hai kiểu này được dùng
đan xen trong các bài hát, tạo ra sự chuyển
đoạn và hiệp vần linh hoạt, khiến người ta dễ
nhớ, dễ thuộc hơn trong điều kiện ngôn ngữ
Thái cổ không có dấu câu.
người Thái. Do điều kiện xen cư nên nhiều địa
danh của xứ Thái như Mường So, Mường Là,
Mường Púa... đã xuất hiện trong dân ca Tày với
tư cách là không gian cho những mối tình trai
gái nảy nở:
- Píu di au đú kẻ chợ au má/ Mác láng au
Mướng Tho, Mướng Lá au lại (Trầu tốt mua ở
kẻ chợ mang về/ Quả cau lấy ở Mường So,
Mường Là mang lại?) (Giải trầu) [1; tr.19].
- Cắm tốn nặn Lò - Da mí chán/ … Tôi pia
đú táng tại Mướng Púa nhá ni (Tiếng đồn nước
Lò - Da có chón... Gửi lời đến đôi cá ở Mường
Púa đừng chạy) (Trai xin) [1; tr. 10].
Về sự diễn xướng, diễn xướng dân ca trữ tình
sinh hoạt Tày, Thái có những khác biệt nhất định
về tính tổ chức của diễn xướng, không gian, thời
gian, dạng diễn xướng theo sách và sự tham gia
của vũ đạo vào diễn xướng. Từ đó, có thể thấy
diễn xướng của người Thái nổi bật ở tính tự do
và sinh động: tự do về không gian, thời gian tổ
chức, phổ biến cả hai dạng thức tổ chức là
nguyên sơ và có thể thức; sinh động bởi có sự
tham gia của vũ đạo; diễn xướng của người Tày
nổi bật ở tính ổn định và tổ chức cao bởi cách
thức diễn xướng nguyên sơ ít, phổ biến lối diễn
xướng có lề lối, sự quy định rõ ràng về không
gian, thời gian diễn xướng.
- Chạy oóc liệp Té (Cây chạy mọc ven bờ
sông Đà) (Đừng quên) [1].
Thiên nhiên và đời sống sinh hoạt phong
phú, sinh động, mang đậm tính chất nông thôn
miền núi của người Tày đã được tác giả dân
gian phản ánh vào dân ca Iếu và Cắm Nôm
bằng tất cả tình yêu, lòng tự hào và sự gắn bó
sâu đậm với quê hương, làng bản. Nội dung
phản ánh ấy có nhiều nét giống với đời sống
sinh hoạt của người Thái trong cả hiện thực và
trong dân ca.
2.2.2. Sự tương đồng về mặt thi pháp
* Về tên gọi
Với những đặc điểm khác nhau như thế, dân
ca trữ tình sinh hoạt Tày thiên về tính trí tuệ,
bác học, trong khi dân ca trữ tình sinh hoạt Thái
thiên về tính trữ tình.
Ở nội bộ dân tộc Tày, trong khi các mảng
của dân ca trữ tình sinh hoạt thường được gọi
tên theo giai điệu, như lượn Nàng ới có câu bắt
đầu là nàng ới, kết thúc là nàng nỏ; lượn Cọi
bắt đầu và kết thúc bằng câu gọi bạn tình: ứ
hợi, hừ – là – ơ – a – ơi – hư – ha – ơi…; lượn
Slương bắt đầu và kết thúc bằng giai điệu ngọt
ngào như đường mật (thương), thì tên gọi Iếu
và Cắm Nôm lại không được gọi theo giai điệu
như vậy. Iếu, Cắm Nôm đều là tên tự gọi của
đồng bào địa phương, là một danh từ riêng.
Trong tiếng Tày, không có một sự giải thích
nào có thể liên tưởng đến đặc điểm hai mảng
dân ca này. Cắm Nôm nghĩa là lời Nôm. Riêng
về Iếu, Iếu là tên gọi phổ biến nhất để chỉ mảng
2.2. Iếu và Cắm Nôm - sự giao thoa của dân
ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái
2.2.1. Sự tương đồng về mặt nội dung
Xét về mặt nội dung phản ánh, trong khi thể
hiện tình yêu, lòng tự hào về sự giàu có, quyền
uy và phồn thịnh của gia tộc, Cắm Nôm còn
nhắc đến chế độ tổ chức xã hội mà nhiều đặc
điểm như sự tồn tại của các tầng lớp quý tộc
mường phìa, lộng, tạo và đặc quyền, đặc lợi của
tầng lớp ấy là tương tự với tổ chức xã hội của
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
87
dân ca này nhưng không có nghĩa. Ở một vài
địa phương, đồng bào Tày còn gọi các bài hát
này với những tên khác như Hiếu, Cằm khắp
(lời hát), khắp Cọi (hát gọi). Tên gọi khắp Cọi
là từ ghép giữa tiếng Tày và tiếng Thái. Trong
tiếng Thái, khắp nghĩa là hát, tương đương với
lượn trong tiếng Tày. Cọi là tên gọi của một
mảng dân ca Tày. Như thế, ngay từ tên gọi, từ
Cắm Nôm đã thể hiện một sự không liên quan
tới truyền thống đặt tên dân ca của người Tày,
tên gọi Iếu lại cho thấy một sự giao thoa của
văn hóa Tày, Thái.
phiến mạ vàng), Rọng chứ (Kêu nhớ), Ước rứ
đảy (Ước), Đét lương (Nắng vàng), Mẻn đao
(Chòi trăng), Phan bấu thiếng (Mơ không
thiêng), Piặc nghín tuộng (Chào hỏi), Vô duyên,
Láng ước (Ước), Nhá lứm (Đừng quên) [1]. Ở
những bài này, người ta dễ nhận ra những đoạn
thơ, dòng thơ mang tính chất công thức truyền
thống, được sử dụng trong nhiều bài dân ca
Thái. Chẳng hạn như những lời mời nhau hát với
sự so sánh ngầm đối phương với các loài chim
rừng như dưới đây:
Tày: Khay thiêng má dơ tôi nộc đăm/ Khay
cắm má dơ tôi nộc yểng (Mở lời đi đôi chim
đen/ Mở tiếng đi đôi chim yểng) (Trai xin)
[1; tr.10].
* Về ngôn ngữ
Ngôn ngữ được sử dụng trong Iếu và Cắm
Nôm đều mang tính tự nhiên, trong sáng, dễ
hiểu. Nó là ngôn ngữ của đời sống thường ngày
bước vào lời hát trữ tình, thông qua sự sáng tạo,
tái tạo nhiều đời mà trở nên ngôn ngữ nghệ
thuật, tuy thế vẫn giữ được vẻ chân chất, hồn
nhiên và linh hoạt. Đặc điểm này gần giống với
ngôn ngữ trong dân ca trữ tình sinh hoạt Thái
hơn là lượn Cọi, lượn Slương, lượn Nàng ới của
dân ca trữ tình sinh hoạt Tày với hệ thống từ
Hán Việt, điển tích dày đặc và cách nói văn
hoa, ước lệ.
Thái: Khay xốp mạ nôộc ểng đăm/ Khay cặm
mạ nôộc ểng bang (Mở miệng đi chim yểng
đen/ Cất lời đi chim yểng khoang) [2; tr. 121].
Hoặc, cách bày tỏ tình cảm yêu thương vô
ngần theo sự dài rộng của không gian phía trên,
phía dưới:
Tày: Hó nưng pay ta tẳư dưm lừa/ Hó nưng
mừa ta nưa dưm tảng (Một gói đi sông dưới
mượn thuyền/ Một gói lên sông trên mượn
mảng [3; tr. 37, 116].
* Về công thức nghệ thuật
Thái: Va lôm pay tăủ khuôn ha chí phák hó
cưa/ Va lôm mưa nưa khuôn chai chí phak lót
lải (Gió xuôi cho ta gửi theo gói muối/ Nếu gió
ngược trai gửi theo cuộn tơ) [4; tr. 256].
Trong Iếu và Cắm Nôm, có nhiều bài có sự
xuất hiện của các công thức truyền thống trong
dân ca trữ tình sinh hoạt Thái. Chẳng hạn, trong
số 64 bài Cắm Nôm, chúng tôi nhận thấy có đến
25 bài mà hình thức biểu hiện khá giống với dân
ca trữ tình sinh hoạt của người Thái. Cụ thể, đó
là các bài: Khay thiêng (Mở lời), Thao khảu bản
(Gái vào bản), Chấm áng lảu (Mừng chậu rượu),
Mới lảu (Mời rượu), Chấm rướn (Mừng nhà),
Chấm đẳm đáp (Mừng chuôi kiếm), Chúa lỉn
(Rủ chơi), Hảy chụ nọi (Khóc người yêu non
trẻ), Puồn pút (Buồn chán), Múa tong (Ngày
mùa), Tả váng (Ruồng bỏ), Thông căn (Tiễn
nhau), Khá khai (Gả bán), Chái so lìn (Trai xin),
Bjoóc khắt (Hoa ké), Phặt phiến cản lương (Rau
Hay, như lời dặn dò hãy ở nhé, lời hẹn ước
đừng quên tha thiết của lứa đôi yêu nhau ở
chặng cuối cùng của cuộc hát:
Tày: - Còi dú nớ lả còi dú/ Còi dú nớ pù
thung tham thảu/ Còi dú nớ thảu ké cuông
mường/ Còi dú nớ tằng luông thao báo (Hãy ở
nhé là hãy ở/ Hãy ở nhé núi cao ba ngọn/ Hãy ở
nhé người già trong mường/ Hãy ở nhé cả bản
trai gái) [3; tr. 60, 135].
- Thíp pi nhá lứm cắm chảu/ Cạu phạ nhá
lứm cắm cháo/ Pia bú đỏn kin đao koi lứm/
88
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
Sính sao lống khạt rắng (Mười năm đừng quên
lời ta/ Chín năm đừng quên lời tỏ tình đôi ta/
Khi nào cá bống lượn ăn trăng thì hãy quên)
(Đừng quên [1; tr. 22].
nhân về đặc điểm phân bố những bộ phận dân
cư Tày lưu truyền các làn điệu dân ca này. Iếu
chủ yếu lưu truyền và phổ biến ở các huyện
phía tây tỉnh Hà Giang như Bắc Quang, Quang
Bình, Vị Xuyên và ở huyện Lục Yên thuộc phía
đông tỉnh Yên Bái. Những bài dân ca Cắm
Nôm mà chúng tôi sưu tầm được có địa bàn lưu
truyền là huyện Văn Chấn - Yên Bái. Đây đều
là những địa phận nằm ở khu vực giáp ranh
giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc - là nơi cộng
cư, cận cư của người Tày và người Thái. Đặc
điểm cư trú trên cùng một phạm vi địa lí đã đưa
đến cho hai tộc người Tày, Thái nhiều điều kiện
thuận lợi cho việc giao lưu, tiếp biến văn hóa
một cách tự nhiên.
Thái: - Coi dú li dơ báo bua hôm kéng xao
bua ha cuông bản/ Coi hú li dơ hạn khuống nọi
xí pịch xan tăm (Ở yên nhé chàng trai, cô gái
sen làng của ta/ Ở yên nhé hạn khuống nhỏ bốn
bề nhẵn phên đan) [4; tr. 351 - 352].
- Cẳu chí lưm cắp xíp chí lưm/ … Pa bú dỏn
kin đao chắng lưm (Chín sẽ quên và mười sẽ
quên… Cá bống bò lượn ăn sao hẵng quên)
[4; tr. 353 - 354].
* Về thể thơ
Đa số các bài Iếu và Cắm Nôm được sáng
tác theo thể tự do như dân ca trữ tình sinh hoạt
Thái chứ không phải thể thất ngôn truyền thống
của người Tày. Nghiên cứu văn học dân gian
cho phép sử dụng vai trò đại diện, chỉ cần sử
dụng số lượng tác phẩm vừa đủ do tính lặp lại
và phổ biến trong văn học dân gian rất cao. Kế
thừa quan điểm nghiên cứu đó của V.IA. Propp
trong công trình Hình thái học truyện cổ tích
[5], chúng tôi đã lựa chọn ngẫu nhiên 50 bài Iếu
từ công trình Iếu- dân ca dân tộc Tày [4] và 64
bài Cắm Nôm sưu tầm được để khảo sát [1].
Kết quả khảo sát cho thấy, số bài làm theo thể
tự do là 38/50 (chiếm 76%) đối với Iếu và
64/64 (chiếm 100%) đối với Cắm Nôm. Sự
giống nhau về thể thơ như trên là khá cao bởi
thể thơ chiếm tỉ lệ cao trong dân ca trữ tình sinh
hoạt Tày là thể thất ngôn (gồm thất ngôn tứ
tuyệt và thất ngôn trường thiên) chứ không phải
là thể tự do.
Thứ hai, người Tày và người Thái vốn có sự
gần gũi về nguồn gốc tộc người. Trong đó,
người Tày gần gũi hơn với người Thái trắng.
Điều đó được chứng minh bởi hàng loạt các
dấu vết trong văn hóa, xã hội, lịch sử tộc người
như tên gọi, lịch pháp, lễ hội… Chẳng hạn,
người Thái tự xưng là côn Tay hay phủ Tay (có
nơi đọc chệch là Tày). Yếu tố Tày trong tên gọi
như thế còn là tên gọi chính thức của dân tộc
Tày, cho thấy một sự gần gũi giữa hai dân tộc
Tày, Thái. Về trang phục, người Tày tự nhận là
cần slửa khao (người áo trắng), trong khi slửa
ngoài nghĩa là áo để mặc còn có nội dung tâm
linh là vật chứa đựng linh hồn. Đây là cơ sở để
các tác giả Chu Thái Sơn, Cầm Trọng cho rằng
người Tày ở vùng Đông Bắc có cùng họ với
người Thái thuộc ngành trắng [6; tr. 17]. Về
cách tính lịch, người Thái trắng tính ngày tháng
theo âm lịch như người Tày, người Kinh chứ
không theo lịch Thái như người Thái đen. Một
sự gần gũi về nguồn gốc như thế là cơ sở cho
những đặc điểm tâm lí giống nhau, dẫn tới việc
cùng yêu thích một đặc điểm ngôn ngữ, thể
thơ… Iếu và Cắm Nôm là kết quả của những
quá trình tâm lí chung như vậy.
2.3. Nguyên nhân của sự giao thoa
Sự giao thoa về các đặc điểm như trên giữa
Iếu, Cắm Nôm với dân ca trữ tình sinh hoạt của
người Thái có thể được lí giải bởi những
nguyên nhân sau:
Thứ ba, hai dân tộc Tày, Thái cùng thuộc
dạng sinh thái nhân văn gọi là văn hóa thung
Thứ nhất, sự giao thoa phẩm chất Tày, Thái
trong Iếu và Cắm Nôm xuất phát từ nguyên
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89
89
lũng. Trong điều kiện môi trường cư trú ở
những đồng bằng thuộc thung lũng chân núi
thấp, hai tộc người có những sự tương tự về
dạng cảnh quan, tập quán cư trú, tổ chức hoạt
động sản xuất và các loại phong tục, tín ngưỡng
thể hiện sự phù hợp, thích nghi của con người
với môi trường. Sự tương đồng về đặc điểm
sinh thái văn hóa thung lũng như thế dẫn tới sự
gần gũi về lối tư duy của hai tộc người, sự
giống nhau khi phản ánh đời sống hiện thực của
con người, đặc biệt là cảnh quan, nếp sống nơi
bản làng.
là sự gần gũi về địa bàn phân bố dân cư của
người Tày, Thái - đồng thời cũng là địa bàn lưu
truyền của Iếu và Cắm Nôm; là sự gần gũi về
nguồn gốc tộc người; là sự giống nhau về đặc
điểm sinh thái văn hóa thung lũng của hai tộc
người Tày, Thái. Có thể nói, sự giao thoa của
dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái thể hiện
trong Iếu và Cắm Nôm ít nhiều đóng góp cơ sở
cho việc tích hợp các giá trị văn hóa tộc người
vào bức tranh văn hóa Việt Nam thống nhất.
Tài liệu tham khảo
[1] Hà Xuân Hương (sưu tầm) (2014), Cắm Nôm - dân
ca dân tộc Tày, tài tiệu đánh máy lưu tại khoa Ngôn
ngữ và Văn hóa, Trường Đại học Khoa học - Đại
học Thái Nguyên.
[2] Đỗ Thị Tấc, Hà Mạnh Phong (sưu tầm và dịch),
(2012), Dân ca Thái Lai Châu - Thơ và dân ca tình
yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc
Hà Nội.
[3] Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng
(sưu tầm và dịch) (2012), Iếu - dân ca dân tộc Tày,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[4] Nguyễn Văn Hòa (sưu tầm, biên dịch) (2001),
Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[5] V. IA. Propp (Chu Xuân Diên, Phạm Lan Hương,
Nguyễn Kim Loan, Phạm Bích Ngọc, Trần Minh
Tâm, Đỗ Đức Thịnh, Đỗ Lai Thúy, Phan Ngọc dịch).
(2003), Tuyển tập V. IA. Propp (tập 1), Nxb Văn hóa
dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
[6] Chu Thái Sơn, Cầm Trọng (2005), Người Thái, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Kết luận
Dân ca trữ tình sinh hoạt là bộ phận tiêu biểu
và phong phú của kho tàng dân ca Tày, Thái mà
sự so sánh tương đồng giữa chúng có vai trò
nhất định đối với việc làm rõ tính chung, tính
phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này. Sự
tương đồng đó thể hiện ở nhiều phương diện
nhưng được bộc lộ rõ ràng nhất trong Iếu và
Cắm Nôm - hai mảng dân ca trữ tình sinh hoạt
Tày. Các đặc điểm mang tính giao thoa, gần gũi
bao gồm nội dung phản ánh, tên gọi, ngôn ngữ,
các công thức nghệ thuật và thể thơ. Qua sự so
sánh như trên, chúng tôi nhận thấy sự giao thoa
đó có thể được lí giải từ những nguyên nhân về
vùng đất, nguồn gốc và văn hóa tộc người. Đó
Bạn đang xem tài liệu "Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái trong Iếu và Cắm Nôm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- su_giao_thoa_cua_dan_ca_tru_tinh_sinh_hoat_tay_thai_trong_ie.pdf