Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái trong Iếu và Cắm Nôm

84  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
01(44) (2021) 84-89  
Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái  
trong Iếu Cắm Nôm  
The intersection of Tay and Thai people’s daily lyrical folk songs in Ieu and Cam Nom  
Hà Xuân Hương*  
Ha Xuan Huong*  
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam  
Faculty of Language and Culture, University of Sciences - Thai Nguyen University, Thai Nguyen, Viet Nam  
(Ngày nhận bài: 13/01/2021, ngày phản biện xong: 25/01/2021, ngày chấp nhận đăng: 10/02/2021)  
Tóm tắt  
Là di sản văn hóa tinh thần của hai tộc người vốn có nhiều đặc điểm gần gũi với nhau, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,  
Thái cũng chứa đựng nhiều nét tương đồng. Sự tương đồng đó thể hiện trên nhiều phương diện nội dung, thi pháp lời  
thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xướng. Đặc biệt, ở Iếu Cắm Nôm, sự giao thoa giữa dân ca trữ tình sinh hoạt của  
người Tày và người Thái bộc lộ rõ ràng hơn cả. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy Iếu Cắm Nôm tuy là các bộ phận  
dân ca của người Tày song lại mang nhiều đặc điểm của dân ca trữ tình sinh hoạt Thái như: Các nội dung liên quan đến  
việc phản ánh chế độ xã hội và vùng đất của người Thái, tên gọi, ngôn ngữ, công thức nghệ thuật, thể thơ. Sự giao thoa  
như vậy có nguyên nhân từ địa bàn lưu truyền của Iếu Cắm Nôm, từ nguồn gốc tộc người và từ đặc điểm sinh thái  
văn hóa thung lũng của hai tộc người Tày, Thái.  
Từ khóa: Sự giao thoa; văn hóa; dân ca trữ tình sinh hoạt; người Tày; người Thái; Iếu; Cắm Nôm.  
Abstract  
As a culture and spiritual heritage of two ethnic groups which have many close characteristics, daily lyric folk of Tay  
and Thai activities also contain many similarities. That similarity shows in many aspects of content, poetic art of poetry,  
performance characteristics. In particular, in Ieu and Cam Nom, the interference between the daily lyrical folk songs of  
the Tay and the Thai is more evident. Through the survey, we found that Ieu and Cam Nom, although part of the daily  
lyrical folk songs of the Tay have many characteristics of the daily lyrical folk songs of the Thai such as: Contents  
related to the reflection of the social and land regime of the Thai people, names, languages, artistic formulas, poems.  
Such interference is caused by the inheritance area of Ieu and Cam Nom, from the ethnic origin and from the cultural  
ecological characteristics of the valley of the Tay and Thai peoples.  
Keywords: Intersection; culture; daily lyrical folk songs; Tay ethnic; Thai ethnic; Ieu; Cam Nom.  
1. Đặt vấn đề  
chung, gần gũi, đồng thời lại có những nét đặc  
Tày, Thái là hai dân tộc chủ thể của vùng  
thù, phản ánh nhiều đặc điểm tự nhiên và văn  
văn hóa Đông Bắc và Tây Bắc. Dân ca trữ tình  
hóa, lịch sử, xã hội của tộc người.  
sinh hoạt của hai dân tộc vừa có những nét  
* Corresponding Author: Ha Xuan Huong; Faculty of Language and Culture, University of Sciences - Thai Nguyen  
University, Thai Nguyen, Viet Nam.  
Email: huonghx@tnus.edu.vn  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
85  
Iếu Cắm Nôm đều là những điệu hát đối  
đáp giao duyên của người Tày. Thực hiện  
nghiên cứu này, người viết dựa trên nguồn tư  
liệu là các bài Iếu được công bố trong công  
trình Iếu - dân ca dân tộc Tày (Hoàng Văn  
Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng (sưu tầm,  
biên dịch), 2012, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà  
Nội) và 64 bài Cắm Nôm dưới hình thức song  
ngữ Tày - Việt mà nghệ nhân Hà Đình Tỵ ở  
Thượng Bằng La - Văn Chấn - Yên Bái cung  
cấp cho người viết trong một chuyến đi điền dã.  
Kết quả khảo sát cho thấy có sự gần gũi, giao  
thoa của những đặc điểm, phẩm chất của dân ca  
trữ tình sinh hoạt của cả hai dân tộc Tày, Thái  
trong Iếu Cắm Nôm. Sự giao thoa đó là khá  
rõ ràng, bộc lộ ở nhiều đặc điểm nội dung cũng  
như thi pháp lời thơ nghệ thuật.  
Về thi pháp lời thơ nghệ thuật: Dân ca trữ  
tình sinh hoạt của hai dân tộc Tày, Thái phân  
biệt bởi nhiều điểm: ngôn ngữ, các công thức  
truyền thống, thể thơ.  
Ở dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, ngôn ngữ có  
sự đan xen của các yếu tố Hán, Việt. Đây là kết  
quả của sự hỗn hợp về mặt nhân chủng và quá  
trình giao lưu ngôn ngữ giữa người Tày với  
người Kinh, Hán. Người Tày cũng hay dùng  
điển tích trong việc phô diễn tâm tư, tình cảm  
do ảnh hưởng tính trí tuệ, bác học của văn  
chương trung đại của người Kinh.  
Về hệ thống hình ảnh, biểu tượng, nếu như  
việc dân ca trữ tình sinh hoạt Tày sử dụng phổ  
biến nhóm các hình ảnh, biểu tượng là con  
người liên quan đến đặc điểm ưa dùng lối ứng  
xử tinh tế, ý nhị, lối “tập cổ”; thì sự xuất hiện  
nhiều của các hình ảnh, biểu tượng có nguồn  
gốc tự nhiên lại phản ánh đặc điểm thiên nhiên  
và cảm thức của người Tày trước thiên nhiên.  
Dân ca trữ tình sinh hoạt Thái sử dụng hình  
ảnh, biểu tượng nước với mức độ dày đặc do sự  
có mặt và vai trò quan trọng của nước trong đời  
sống của cư dân Thái. Bên cạnh đó, việc sử  
dụng nhóm các hình ảnh, biểu tượng là vật thể  
nhân tạo lại liên quan đến phong tục, tập quán,  
tín ngưỡng của họ.  
2. Kết quả nghiên cứu  
2.1. Sự khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt  
Tày, Thái  
Từ những đặc điểm có tính chất nổi trội của  
dân ca trữ tình sinh hoạt của hai dân tộc Tày,  
Thái, có thể nhận thấy sự khác biệt của hai hệ  
thống dân ca này là khá rõ ràng như sau:  
Về nhân vật trữ tình: Sự khác biệt về nhân  
vật trữ tình trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,  
Thái chủ yếu nằm ở cách ứng xử dưới ảnh  
hưởng của tính cách con người trong thực tế và  
của văn hóa. Ở dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,  
nhân vật có cách ứng xử nhẹ nhàng, chừng mực  
và văn hóa, phản ánh đặc điểm tính cách coi  
trọng tôn ti trật tự, lễ giáo và tính cách thích an  
nhàn của người Tày trong thực tế, đồng thời  
cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Kinh thông  
qua lối ứng xử tinh tế, ý nhị. Ứng xử của nhân  
vật trữ tình trong dân ca trữ tình sinh hoạt của  
người Thái lại nổi bật ở đặc điểm chủ động,  
mạnh mẽ, quyết liệt. Lối ứng xử này ngoài việc  
được tạo nền tảng từ sự dân chủ mà tộc người  
dành cho còn thể hiện mẫu hình con người mơ  
ước của nhân dân.  
Về sự trùng lặp của các hiện tượng ngôn  
ngữ, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày phổ biến kiểu  
lặp nhóm khung kết cấu và câu mở đầu trong  
phạm vi các bài hát cùng chủ đề, xuất phát từ  
đặc điểm sáng tác theo những lối mòn để thuận  
tiện cho việc tổ chức các bài hát cùng chủ đề  
vào một cung lượn, dễ dàng cho việc học thuộc  
và ứng tác; dân ca trữ tình sinh hoạt Thái phổ  
biến kiểu lặp cụm từ và cấu trúc câu trong  
phạm vi một đơn vị tác phẩm, liên quan đến  
đặc điểm ngôn ngữ Thái.  
Về thể thơ, dân ca trữ tình sinh hoạt  
(DCTTSH) Tày chủ yếu sử dụng thể thất ngôn  
(gồm thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn trường thiên  
86  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
và song thất) do học tập từ văn học viết của  
người Kinh. Trong khi đó, DCTTSH Thái lại  
chỉ sử dụng thể tự do. Đặc biệt, thể tự do của  
DCTTSH Thái được biểu hiện thông qua các  
kiểu đặc trưng là xứ bắc (câu dài 5 - 15 chữ,  
phải là số lẻ, ăn vần ở tiếng lẻ) và khống khái  
(câu gồm 5 - 7 chữ, có vần giống như vè ở  
người Việt, vần đặt ở cuối câu trước, bắt vần  
với tiếng đầu câu sau). Hai kiểu này được dùng  
đan xen trong các bài hát, tạo ra sự chuyển  
đoạn và hiệp vần linh hoạt, khiến người ta dễ  
nhớ, dễ thuộc hơn trong điều kiện ngôn ngữ  
Thái cổ không có dấu câu.  
người Thái. Do điều kiện xen cư nên nhiều địa  
danh của xứ Thái như Mường So, Mường Là,  
Mường Púa... đã xuất hiện trong dân ca Tày với  
tư cách là không gian cho những mối tình trai  
gái nảy nở:  
- Píu di au đú kẻ chợ au má/ Mác láng au  
Mướng Tho, Mướng Lá au lại (Trầu tốt mua ở  
kẻ chợ mang về/ Quả cau lấy ở Mường So,  
Mường Là mang lại?) (Giải trầu) [1; tr.19].  
- Cắm tốn nặn Lò - Da mí chán/ … Tôi pia  
đú táng tại Mướng Púa nhá ni (Tiếng đồn nước  
Lò - Da có chón... Gửi lời đến đôi cá ở Mường  
Púa đừng chạy) (Trai xin) [1; tr. 10].  
Về sự diễn xướng, diễn xướng dân ca trữ tình  
sinh hoạt Tày, Thái có những khác biệt nhất định  
về tính tổ chức của diễn xướng, không gian, thời  
gian, dạng diễn xướng theo sách và sự tham gia  
của vũ đạo vào diễn xướng. Từ đó, có thể thấy  
diễn xướng của người Thái nổi bật ở tính tự do  
và sinh động: tự do về không gian, thời gian tổ  
chức, phổ biến cả hai dạng thức tổ chức là  
nguyên sơ và có thể thức; sinh động bởi có sự  
tham gia của vũ đạo; diễn xướng của người Tày  
nổi bật ở tính ổn định và tổ chức cao bởi cách  
thức diễn xướng nguyên sơ ít, phổ biến lối diễn  
xướng có lề lối, sự quy định rõ ràng về không  
gian, thời gian diễn xướng.  
- Chạy oóc liệp Té (Cây chạy mọc ven bờ  
sông Đà) (Đừng quên) [1].  
Thiên nhiên và đời sống sinh hoạt phong  
phú, sinh động, mang đậm tính chất nông thôn  
miền núi của người Tày đã được tác giả dân  
gian phản ánh vào dân ca Iếu Cắm Nôm  
bằng tất cả tình yêu, lòng tự hào và sự gắn bó  
sâu đậm với quê hương, làng bản. Nội dung  
phản ánh ấy có nhiều nét giống với đời sống  
sinh hoạt của người Thái trong cả hiện thực và  
trong dân ca.  
2.2.2. Sự tương đồng về mặt thi pháp  
* Về tên gọi  
Với những đặc điểm khác nhau như thế, dân  
ca trữ tình sinh hoạt Tày thiên về tính trí tuệ,  
bác học, trong khi dân ca trữ tình sinh hoạt Thái  
thiên về tính trữ tình.  
Ở nội bộ dân tộc Tày, trong khi các mảng  
của dân ca trữ tình sinh hoạt thường được gọi  
tên theo giai điệu, như lượn Nàng ới có câu bắt  
đầu là nàng ới, kết thúc là nàng nỏ; lượn Cọi  
bắt đầu và kết thúc bằng câu gọi bạn tình: ứ  
hợi, hừ – – ơ – a – ơi – hư – ha – ơi…; lượn  
Slương bắt đầu và kết thúc bằng giai điệu ngọt  
ngào như đường mật (thương), thì tên gọi Iếu  
Cắm Nôm lại không được gọi theo giai điệu  
như vậy. Iếu, Cắm Nôm đều là tên tự gọi của  
đồng bào địa phương, là một danh từ riêng.  
Trong tiếng Tày, không có một sự giải thích  
nào có thể liên tưởng đến đặc điểm hai mảng  
dân ca này. Cắm Nôm nghĩa là lời Nôm. Riêng  
về Iếu, Iếu là tên gọi phổ biến nhất để chỉ mảng  
2.2. Iếu và Cắm Nôm - sự giao thoa của dân  
ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái  
2.2.1. Sự tương đồng về mặt nội dung  
Xét về mặt nội dung phản ánh, trong khi thể  
hiện tình yêu, lòng tự hào về sự giàu có, quyền  
uy và phồn thịnh của gia tộc, Cắm Nôm còn  
nhắc đến chế độ tổ chức xã hội mà nhiều đặc  
điểm như sự tồn tại của các tầng lớp quý tộc  
mường phìa, lộng, tạo và đặc quyền, đặc lợi của  
tầng lớp ấy là tương tự với tổ chức xã hội của  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
87  
dân ca này nhưng không có nghĩa. Ở một vài  
địa phương, đồng bào Tày còn gọi các bài hát  
này với những tên khác như Hiếu, Cằm khắp  
(lời hát), khắp Cọi (hát gọi). Tên gọi khắp Cọi  
là từ ghép giữa tiếng Tày và tiếng Thái. Trong  
tiếng Thái, khắp nghĩa là hát, tương đương với  
lượn trong tiếng Tày. Cọi là tên gọi của một  
mảng dân ca Tày. Như thế, ngay từ tên gọi, từ  
Cắm Nôm đã thể hiện một sự không liên quan  
tới truyền thống đặt tên dân ca của người Tày,  
tên gọi Iếu lại cho thấy một sự giao thoa của  
văn hóa Tày, Thái.  
phiến mạ vàng), Rọng chứ (Kêu nhớ), Ước rứ  
đảy (Ước), Đét lương (Nắng vàng), Mẻn đao  
(Chòi trăng), Phan bấu thiếng (Mơ không  
thiêng), Piặc nghín tuộng (Chào hỏi), Vô duyên,  
Láng ước (Ước), Nhá lứm (Đừng quên) [1]. Ở  
những bài này, người ta dễ nhận ra những đoạn  
thơ, dòng thơ mang tính chất công thức truyền  
thống, được sử dụng trong nhiều bài dân ca  
Thái. Chẳng hạn như những lời mời nhau hát với  
sự so sánh ngầm đối phương với các loài chim  
rừng như dưới đây:  
Tày: Khay thiêng má dơ tôi nộc đăm/ Khay  
cắm má dơ tôi nộc yểng (Mở lời đi đôi chim  
đen/ Mở tiếng đi đôi chim yểng) (Trai xin)  
[1; tr.10].  
* Về ngôn ngữ  
Ngôn ngữ được sử dụng trong Iếu Cắm  
Nôm đều mang tính tự nhiên, trong sáng, dễ  
hiểu. Nó là ngôn ngữ của đời sống thường ngày  
bước vào lời hát trữ tình, thông qua sự sáng tạo,  
tái tạo nhiều đời mà trở nên ngôn ngữ nghệ  
thuật, tuy thế vẫn giữ được vẻ chân chất, hồn  
nhiên và linh hoạt. Đặc điểm này gần giống với  
ngôn ngữ trong dân ca trữ tình sinh hoạt Thái  
hơn là lượn Cọi, lượn Slương, lượn Nàng ới của  
dân ca trữ tình sinh hoạt Tày với hệ thống từ  
Hán Việt, điển tích dày đặc và cách nói văn  
hoa, ước lệ.  
Thái: Khay xốp mạ nôộc ểng đăm/ Khay cặm  
mạ nôộc ểng bang (Mở miệng đi chim yểng  
đen/ Cất lời đi chim yểng khoang) [2; tr. 121].  
Hoặc, cách bày tỏ tình cảm yêu thương vô  
ngần theo sự dài rộng của không gian phía trên,  
phía dưới:  
Tày: Hó nưng pay ta tẳư dưm lừa/ Hó nưng  
mừa ta nưa dưm tảng (Một gói đi sông dưới  
mượn thuyền/ Một gói lên sông trên mượn  
mảng [3; tr. 37, 116].  
* Về công thức nghệ thuật  
Thái: Va lôm pay tăủ khuôn ha chí phák hó  
cưa/ Va lôm mưa nưa khuôn chai chí phak lót  
lải (Gió xuôi cho ta gửi theo gói muối/ Nếu gió  
ngược trai gửi theo cuộn tơ) [4; tr. 256].  
Trong Iếu Cắm Nôm, có nhiều bài có sự  
xuất hiện của các công thức truyền thống trong  
dân ca trữ tình sinh hoạt Thái. Chẳng hạn, trong  
số 64 bài Cắm Nôm, chúng tôi nhận thấy có đến  
25 bài mà hình thức biểu hiện khá giống với dân  
ca trữ tình sinh hoạt của người Thái. Cụ thể, đó  
là các bài: Khay thiêng (Mở lời), Thao khảu bản  
(Gái vào bản), Chấm áng lảu (Mừng chậu rượu),  
Mới lảu (Mời rượu), Chấm rướn (Mừng nhà),  
Chấm đẳm đáp (Mừng chuôi kiếm), Chúa lỉn  
(Rủ chơi), Hảy chụ nọi (Khóc người yêu non  
trẻ), Puồn pút (Buồn chán), Múa tong (Ngày  
mùa), Tả váng (Ruồng bỏ), Thông căn (Tiễn  
nhau), Khá khai (Gả bán), Chái so lìn (Trai xin),  
Bjoóc khắt (Hoa ké), Phặt phiến cản lương (Rau  
Hay, như lời dặn dò hãy ở nhé, lời hẹn ước  
đừng quên tha thiết của lứa đôi yêu nhau ở  
chặng cuối cùng của cuộc hát:  
Tày: - Còi dú nớ lả còi dú/ Còi dú nớ pù  
thung tham thảu/ Còi dú nớ thảu ké cuông  
mường/ Còi dú nớ tằng luông thao báo (Hãy ở  
nhé là hãy ở/ Hãy ở nhé núi cao ba ngọn/ Hãy ở  
nhé người già trong mường/ Hãy ở nhé cả bản  
trai gái) [3; tr. 60, 135].  
- Thíp pi nhá lứm cắm chảu/ Cạu phạ nhá  
lứm cắm cháo/ Pia bú đỏn kin đao koi lứm/  
88  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
Sính sao lống khạt rắng (Mười năm đừng quên  
lời ta/ Chín năm đừng quên lời tỏ tình đôi ta/  
Khi nào cá bống lượn ăn trăng thì hãy quên)  
(Đừng quên [1; tr. 22].  
nhân về đặc điểm phân bố những bộ phận dân  
cư Tày lưu truyền các làn điệu dân ca này. Iếu  
chủ yếu lưu truyền và phổ biến ở các huyện  
phía tây tỉnh Hà Giang như Bắc Quang, Quang  
Bình, Vị Xuyên và ở huyện Lục Yên thuộc phía  
đông tỉnh Yên Bái. Những bài dân ca Cắm  
Nôm mà chúng tôi sưu tầm được có địa bàn lưu  
truyền là huyện Văn Chấn - Yên Bái. Đây đều  
là những địa phận nằm ở khu vực giáp ranh  
giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc - là nơi cộng  
cư, cận cư của người Tày và người Thái. Đặc  
điểm cư trú trên cùng một phạm vi địa lí đã đưa  
đến cho hai tộc người Tày, Thái nhiều điều kiện  
thuận lợi cho việc giao lưu, tiếp biến văn hóa  
một cách tự nhiên.  
Thái: - Coi dú li dơ báo bua hôm kéng xao  
bua ha cuông bản/ Coi hú li dơ hạn khuống nọi  
xí pịch xan tăm (Ở yên nhé chàng trai, cô gái  
sen làng của ta/ Ở yên nhé hạn khuống nhỏ bốn  
bề nhẵn phên đan) [4; tr. 351 - 352].  
- Cẳu chí lưm cắp xíp chí lưm/ … Pa bú dỏn  
kin đao chắng lưm (Chín sẽ quên và mười sẽ  
quên… Cá bống bò lượn ăn sao hẵng quên)  
[4; tr. 353 - 354].  
* Về thể thơ  
Đa số các bài Iếu Cắm Nôm được sáng  
tác theo thể tự do như dân ca trữ tình sinh hoạt  
Thái chứ không phải thể thất ngôn truyền thống  
của người Tày. Nghiên cứu văn học dân gian  
cho phép sử dụng vai trò đại diện, chỉ cần sử  
dụng số lượng tác phẩm vừa đủ do tính lặp lại  
và phổ biến trong văn học dân gian rất cao. Kế  
thừa quan điểm nghiên cứu đó của V.IA. Propp  
trong công trình Hình thái học truyện cổ tích  
[5], chúng tôi đã lựa chọn ngẫu nhiên 50 bài Iếu  
từ công trình Iếu- dân ca dân tộc Tày [4] và 64  
bài Cắm Nôm sưu tầm được để khảo sát [1].  
Kết quả khảo sát cho thấy, số bài làm theo thể  
tự do là 38/50 (chiếm 76%) đối với Iếu và  
64/64 (chiếm 100%) đối với Cắm Nôm. Sự  
giống nhau về thể thơ như trên là khá cao bởi  
thể thơ chiếm tỉ lệ cao trong dân ca trữ tình sinh  
hoạt Tày là thể thất ngôn (gồm thất ngôn tứ  
tuyệt và thất ngôn trường thiên) chứ không phải  
là thể tự do.  
Thứ hai, người Tày và người Thái vốn có sự  
gần gũi về nguồn gốc tộc người. Trong đó,  
người Tày gần gũi hơn với người Thái trắng.  
Điều đó được chứng minh bởi hàng loạt các  
dấu vết trong văn hóa, xã hội, lịch sử tộc người  
như tên gọi, lịch pháp, lễ hội… Chẳng hạn,  
người Thái tự xưng là côn Tay hay phủ Tay (có  
nơi đọc chệch là Tày). Yếu tố Tày trong tên gọi  
như thế còn là tên gọi chính thức của dân tộc  
Tày, cho thấy một sự gần gũi giữa hai dân tộc  
Tày, Thái. Về trang phục, người Tày tự nhận là  
cần slửa khao (người áo trắng), trong khi slửa  
ngoài nghĩa là áo để mặc còn có nội dung tâm  
linh là vật chứa đựng linh hồn. Đây là cơ sở để  
các tác giả Chu Thái Sơn, Cầm Trọng cho rằng  
người Tày ở vùng Đông Bắc có cùng họ với  
người Thái thuộc ngành trắng [6; tr. 17]. Về  
cách tính lịch, người Thái trắng tính ngày tháng  
theo âm lịch như người Tày, người Kinh chứ  
không theo lịch Thái như người Thái đen. Một  
sự gần gũi về nguồn gốc như thế là cơ sở cho  
những đặc điểm tâm lí giống nhau, dẫn tới việc  
cùng yêu thích một đặc điểm ngôn ngữ, thể  
thơ… Iếu Cắm Nôm là kết quả của những  
quá trình tâm lí chung như vậy.  
2.3. Nguyên nhân của sự giao thoa  
Sự giao thoa về các đặc điểm như trên giữa  
Iếu, Cắm Nôm với dân ca trữ tình sinh hoạt của  
người Thái có thể được lí giải bởi những  
nguyên nhân sau:  
Thứ ba, hai dân tộc Tày, Thái cùng thuộc  
dạng sinh thái nhân văn gọi là văn hóa thung  
Thứ nhất, sự giao thoa phẩm chất Tày, Thái  
trong Iếu Cắm Nôm xuất phát từ nguyên  
Hà Xuân Hương / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 84-89  
89  
lũng. Trong điều kiện môi trường cư trú ở  
những đồng bằng thuộc thung lũng chân núi  
thấp, hai tộc người có những sự tương tự về  
dạng cảnh quan, tập quán cư trú, tổ chức hoạt  
động sản xuất và các loại phong tục, tín ngưỡng  
thể hiện sự phù hợp, thích nghi của con người  
với môi trường. Sự tương đồng về đặc điểm  
sinh thái văn hóa thung lũng như thế dẫn tới sự  
gần gũi về lối tư duy của hai tộc người, sự  
giống nhau khi phản ánh đời sống hiện thực của  
con người, đặc biệt là cảnh quan, nếp sống nơi  
bản làng.  
là sự gần gũi về địa bàn phân bố dân cư của  
người Tày, Thái - đồng thời cũng là địa bàn lưu  
truyền của Iếu Cắm Nôm; là sự gần gũi về  
nguồn gốc tộc người; là sự giống nhau về đặc  
điểm sinh thái văn hóa thung lũng của hai tộc  
người Tày, Thái. Có thể nói, sự giao thoa của  
dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái thể hiện  
trong Iếu Cắm Nôm ít nhiều đóng góp cơ sở  
cho việc tích hợp các giá trị văn hóa tộc người  
vào bức tranh văn hóa Việt Nam thống nhất.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Hà Xuân Hương (sưu tầm) (2014), Cm Nôm - dân  
ca dân tc Tày, tài tiệu đánh máy lưu tại khoa Ngôn  
ngữ và Văn hóa, Trường Đại hc Khoa hc - Đại  
hc Thái Nguyên.  
[2] Đỗ ThTc, Hà Mạnh Phong (sưu tầm và dch),  
(2012), Dân ca Thái Lai Châu - Thơ và dân ca tình  
yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc  
Hà Ni.  
[3] Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nng  
(sưu tầm và dch) (2012), Iếu - dân ca dân tc Tày,  
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Ni.  
[4] Nguyễn Văn Hòa (sưu tầm, biên dch) (2001),  
Truyn cvà dân ca Thái vùng Tây Bc Vit Nam,  
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Ni.  
[5] V. IA. Propp (Chu Xuân Diên, Phạm Lan Hương,  
Nguyn Kim Loan, Phm Bích Ngc, Trn Minh  
Tâm, Đỗ Đức Thịnh, Đỗ Lai Thúy, Phan Ngc dch).  
(2003), Tuyn tp V. IA. Propp (tp 1), Nxb Văn hóa  
dân tc, Tạp chí Văn hóa nghệ thut, Hà Ni.  
[6] Chu Thái Sơn, Cầm Trng (2005), Ngưi Thái, Nxb  
Tr, Thành phHChí Minh.  
3. Kết luận  
Dân ca trữ tình sinh hoạt là bộ phận tiêu biểu  
và phong phú của kho tàng dân ca Tày, Thái mà  
sự so sánh tương đồng giữa chúng có vai trò  
nhất định đối với việc làm rõ tính chung, tính  
phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này. Sự  
tương đồng đó thể hiện ở nhiều phương diện  
nhưng được bộc lộ rõ ràng nhất trong Iếu và  
Cắm Nôm - hai mảng dân ca trữ tình sinh hoạt  
Tày. Các đặc điểm mang tính giao thoa, gần gũi  
bao gồm nội dung phản ánh, tên gọi, ngôn ngữ,  
các công thức nghệ thuật và thể thơ. Qua sự so  
sánh như trên, chúng tôi nhận thấy sự giao thoa  
đó có thể được lí giải từ những nguyên nhân về  
vùng đất, nguồn gốc và văn hóa tộc người. Đó  
pdf 6 trang yennguyen 21/04/2022 680
Bạn đang xem tài liệu "Sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái trong Iếu và Cắm Nôm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsu_giao_thoa_cua_dan_ca_tru_tinh_sinh_hoat_tay_thai_trong_ie.pdf