Phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định ủng hộ lập trường của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị Paris (1970-1971)
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Bài nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định ủng hộ lập trường của Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị
Paris (1970-1971)
Phan Thị Lý*
TÓM TẮT
Phong trào đô thị, một bộ phận của phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đóng
vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thông qua việc khai thác các tài liệu của
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
chính quyền Việt Nam Cộng hòa được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II và các tài liệu đã
xuất bản có giá trị tin cậy, bài viết này góp phần phân tích vai trò của phong trào đô thị thông qua
việc trình bày sự ủng hộ của phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định đối với lập trường của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris trong những năm 1970-1971.
Sau ngày thành lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thay thế vai
trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên ở Paris và thể hiện
rõ lập trường hòa bình của mình qua các Giải pháp tám điểm, Tuyên bố ba điểm và Đề nghị bảy
điểm trong hai năm 1970, 1971. Cũng trong thời gian này, phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định đã
có sự phát triển mạnh mẽ bao gồm phong trào học sinh, sinh viên, phong trào của giới trí thức và
phong trào công nhân lao động. Bài viết này sẽ làm rõ sự ủng hộ của nhân dân đô thị Sài Gòn –
Gia Định đối với lập trường của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại
Hội nghị Paris qua những sự kiện đấu tranh cụ thể, từ đó cũng khẳng định sự ảnh hưởng của Chính
phủ Cách mạng đối với đối với nhân dân miền Nam nói chung, nhân dân đô thị Sài Gòn - Gia Định
nói riêng.
Từ khoá: Hội nghị Paris, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, phong
trào đô thị, Sài Gòn – Gia Định
việc tìm một giải pháp để giải quyết trọn vẹn cả hai
vấn đề quân sự và chính trị cho miền Nam Việt Nam,
Chính phủ CMLT đã kiên định về mặt quan điểm và
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đô thị Sài Gòn - Gia Định với đặc thù là một vùng đô
thị trọng yếu của miền Nam Việt Nam luôn chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của chính quyền Sài Gòn. Mặc dù
vậy, đây cũng là nơi có phong trào đô thị (PTĐT) phát
triển mạnh mẽ trong suốt cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Đặc biệt, trong những năm 1970-1971, khi Mỹ
và chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh chiến lược Việt
Nam hóa chiến tranh rồi mở rộng chiến tranh ra toàn
bộ Đông Dương, lấy thắng lợi quân sự để gây sức ép
tại Hội nghị Paris, với nhận thức ngày càng rõ rệt
về nguyên nhân của tình trạng chiến tranh kéo dài,
nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia Định đã tiếp tục đưa
phong trào đấu tranh chống chiến tranh lên một mức
độ quyết liệt.
Cũng trong thời gian này, trên mặt trận ngoại giao,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam (Chính phủ CMLT) kiên trì đấu tranh trên
bàn đàm phán tại Hội nghị Paris để tìm những giải
pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam trên tinh thần
độc lập, hòa giải dân tộc. Trước sự né tránh của Mỹ
Trường Đại học ủ Dầu Một, Việt Nam
nhượng bộ một cách có nguyên tắc nhằm thúc đẩy
tiến trình đàm phán. Trong hai năm 1970, 1971, phối
hợp với đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bên cạnh
việc tập trung lên án Mỹ và chính quyền VNCH mở
rộng chiến tranh xâm lược Campuchia, Chính phủ
CMLT đã lần lượt đưa ra các Giải pháp tám điểm,
Tuyên bố ba điểm, Đề nghị bảy điểm, cho thấy lập
trường là đòi Mỹ phải rút khỏi miền Nam và thành
lập ở miền Nam một chính phủ liên hiệp lâm thời,
không có các thành phần hiếu chiến đương nhiệm, từ
đó đi đến thống nhất hai miền Việt Nam thông qua
tuyển cử tự do. Lập trường này đã nhận được sự ủng
hộ mạnh mẽ của dư luận yêu chuộng hòa bình thế
giới và các tầng lớp nhân dân miền Nam chống chiến
tranh, ủng hộ độc lập và thống nhất dân tộc. PTĐT ở
Sài Gòn - Gia Định trong những năm 1970-1971 phát
triển mạnh mẽ và đã thể hiện sự ủng hộ lập trường
của Chính phủ CMLT dưới nhiều hình thức linh hoạt
Liên hệ
Phan Thị Lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một,
Việt Nam
Email: lypt@tdmu.edu.vn
Lịch sử
• Ngày nhận: 25/8/2020
• Ngày chấp nhận: 15/3/2021
• Ngày đăng: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.647
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
và chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong và ở nhiều mức độ. Nghiên cứu sự ủng hộ của PTĐT
Trích dẫn bài báo này: Lý P T. Phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định ủng hộ lập trường của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị Paris (1970-1971). Sci. Tech. Dev. J. -
Soc. Sci. Hum.; 5(1):928-938.
928
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Sài Gòn - Gia Định đối với lập trường của Chính phủ Chính phủ CMLT do Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn
CMLT không những làm rõ nội dung của PTĐT mà ị Bình làm trưởng đoàn. Điều này tạo nên thế và
lực mới cho lực lượng cách mạng tại Hội nghị. Kế
tục lập trường của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam và góp phần thúc đẩy tiến trình đàm phán trước
nguy cơ bế tắc do sự né tránh của đoàn Mỹ và đoàn
Việt Nam Cộng hòa (VNCH), Chính phủ CMLT đã
đưa ra những Giải pháp, Đề nghị trong những năm
1970, 1971.
còn khẳng định vai trò và ảnh hưởng của Chính phủ
CMLT đối với nhân dân miền Nam, nhất là đối với
nhân dân đô thị Sài Gòn - Gia Định vốn sống dưới sự
kiểm soát của chính quyền Sài Gòn.
ông qua việc sưu tầm, xử lý các nguồn tài liệu cần
thiết và đáng tin cậy, bài viết một mặt phân tích lập
trường của Chính phủ CMLT tại Hội nghị Paris thông
qua các văn kiện tại Hội nghị, mặt khác, làm rõ các
sự kiện trong PTĐT Sài Gòn - Gia Định những năm
1970-1971. Từ đó, tiến hành phân tích, đối sánh làm
rõ mối quan hệ giữa các nội dung đấu tranh trong
PTĐT Sài Gòn - Gia Định với lập trường của chính
phủ CMLT và khẳng định sự ủng hộ của PTĐT Sài
Gòn - Gia Định đối với lập trường của Chính phủ
CMLT nói riêng, đối với mũi tiến công ngoại giao của
cách mạng Việt Nam nói chung.
Trong năm 1970, cùng với việc tập trung lên án Mỹ và
chính quyền VNCH mở rộng chiến tranh xâm lược
các nước Đông Dương, Chính phủ CMLT đưa ra Giải
pháp tám điểm (ngày 17-9-1970) và Đề nghị ba điểm
(ngày 10-12-1970). Giải pháp tám điểm kế tục Giải
pháp mười điểm ngày 8-5-1969 của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam, yêu cầu rút quân Mỹ và đồng
minh ra khỏi Việt Nam, lực lượng vũ trang tại miền
Nam do các bên của Việt Nam tự giải quyết, miền
Nam Việt Nam tự quyết định chế độ chính trị của
mình bằng tuyển cử tự do, thành lập chính phủ liên
hiệp lâm thời bao gồm tất cả lực lượng, phe phái chính
Đề nghị ba điểm đề cập đến thời hạn rút quân Mỹ
và đồng minh là trước ngày 30-6-1971 và “Sẽ ngừng
bắn giữa quân giải phóng với các lực lượng của một
chính quyền Sài Gòn không có iệu, Kỳ, Khiêm và
tán thành hòa bình, độc lập, trung lập, dân chủ và thỏa
thuận lập một chính phủ liên hiệp lâm thời ba thành
Đến giữa năm 1971, sau thắng lợi của Chiến dịch
đường 9 Nam Lào, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đưa ra Giải pháp chín điểm trong cuộc gặp riêng
giữa Lê Đức ọ với Kissinger ngày 26-6-1971, chú
trọng vào việc yêu cầu Mỹ thành lập một chính quyền
mới ở Sài Gòn, tán thành hòa bình, độc lập, trung lập,
dân chủ. Ngày 1-7-1971, đoàn Chính phủ CMLT đã
công khai hóa Giải pháp chín điểm trên bằng cách
đưa ra Đề nghị bảy điểm có nội dung tương tự, tập
trung vào hai vấn đề cơ bản: đòi Mỹ định thời hạn
rút quân trước ngày 31-12-1971 và lập ở Sài Gòn một
chính quyền không có Nguyễn Văn iệu Chính phủ
CMLT sẽ cùng với chính quyền mới bàn về việc thành
lập chính phủ hòa hợp dân tộc lâm thời, thời hạn rút
269-273]. Đề nghị bảy điểm được xem là giải pháp
quan trọng thứ hai của phía Việt Nam, “có sức tấn
công mạnh, được dư luận rộng rãi đồng tình và chính
LẬP TRƯỜNG CỦA CHÍNH PHỦ
CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG HÒA
MIỀN NAM VIỆT NAM TẠI HỘI NGHỊ
PARIS NHỮNG NĂM 1970-1971
Hội nghị Paris khai mạc từ ngày 13-5-1968 và từ đó
đến ngày 31-10-1968, cuộc đàm phán giữa hai đoàn
Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã buộc Mỹ phải
tuyên bố chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện việc
ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời chấp nhận sự
tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam trong giai đoạn đàm phán tiếp theo. Từ
ngày 18-1-1969 trở đi, Hội nghị Paris diễn ra giữa bốn
bên, gồm đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam (từ tháng 6-1969 được
thay bằng đoàn Chính phủ CMLT), đoàn Mỹ và đoàn
VNCH. Trong năm 1969, Hội nghị gần như không có
chuyển biến bởi lập trường hai phía trên nhiều vấn đề
là đối lập nhau, điển hình là việc phía Mỹ đòi hỏi quân
đội Mỹ và quân đội miền Bắc đồng thời rút quân khỏi
miền Nam, trong khi phía Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa yêu cầu Mỹ và các nước đồng minh Mỹ phải rút
hết quân đội, vũ khí, dụng cụ chiến tranh và nhân viên
quân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Trên cơ sở sự phát triển của lực lượng cách mạng miền
Nam và nhằm tạo mũi tiến công ngoại giao hiệu quả
hơn nữa tại Hội nghị Paris, ngày 6-6-1969, Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(gọi tắt là Chính phủ CMLT) được thành lập. Sự ra đời
của Chính phủ CMLT đã tăng cường sự tin tưởng ủng
hộ của nhân dân miền Nam và hiệu quả trong chính
sách đối ngoại của chính quyền cách mạng. Đoàn
Nhìn chung, các Giải pháp tám điểm, Đề nghị ba điểm
và Đề nghị bảy điểm được đưa ra vào những thời điểm
khác nhau và tuy có những nhượng bộ trong một số
đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt vấn đề cụ thể nhưng lập trường của Chính phủ CMLT
Nam tại Hội nghị Paris chuyển thành đoàn đại biểu được thể hiện trên hai vấn đề cơ bản: Một là, đòi hỏi
929
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Mỹ phải rút quân hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam 10-3, cuộc tổng bãi khóa đã diễn ra tại hầu hết các
có định rõ thời hạn; Hai là, đòi Mỹ thay Nguyễn Văn trường đại học và trung học Sài Gòn cùng với cuộc
iệu trong chính quyền Sài Gòn để đi đến thành lập tổng đình bản của giới báo chí Sài Gòn. Ngày 11-3-
1970, chính quyền Sài Gòn bắt giam sinh viên Huỳnh
Tấn Mẫm – Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn cùng
nhiều sinh viên, học sinh khác. Một cao trào bãi khóa
diễn ra hầu khắp các phân khoa đại học ở Sài Gòn
như Y khoa, Nông Lâm Súc, Khoa học, Kiến trúc, Sư
phạm, kỹ thuật Phú ọ, Mỹ thuật, …. Sinh viên Sài
Gòn đã thành lập Ủy ban chống đàn áp sinh viên gồm
đại diện sinh viên các phân khoa để đấu tranh đòi trả
tự do cho những sinh viên bị bắt. Ủy ban đã có liên lạc
với các tổ chức nghiệp đoàn công nhân hỏa xa, nghiệp
đoàn xe lam, Đoàn sinh viên Phật tử, Đoàn sinh viên
Công giáo, một số nghị sĩ trong Quốc hội Sài Gòn,
lãnh đạo khối Phật giáo Ấn Quang,… để phối hợp
đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các giới đồng
bào Sài Gòn và sự hưởng ứng của sinh viên Huế, Cần
ơ, Đà Lạt.
Các cuộc đấu tranh chống đàn áp tiếp tục lên cao
trong những tháng tiếp theo khiến chính quyền Sài
Gòn phải hoãn phiên tòa xét xử sinh viên và trả tự do
cho một số người. Mặc dù vậy, các cuộc đấu tranh
của sinh viên, học sinh Sài Gòn vẫn không hề lắng
giảm, thêm vào đó, sinh viên đã chuyển sang mục
tiêu chống Mỹ, chống chiến tranh, đòi quân Mỹ rút
về nước với những hình thức mới. áng 4-1970, học
sinh, sinh viên Sài Gòn đã tích cực đấu tranh phản
đối Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, chính
quyền Sài Gòn đồng lõa với chính quyền Lonnol đàn
áp Việt kiều. Đêm 24-4-1970, sinh viên Sài Gòn tổ
chức “Đêm uất hận” với lễ truy điệu đồng bào Việt
kiều bị tàn sát ở Campuchia, đốt hình nộm Lonnol và
sau đó là cuộc biểu tình tiến chiếm Tòa Đại sử Cam-
puchia và chiếm giữ nơi này trong suốt 10 ngày với sự
hỗ trợ, tiếp tế của đồng bào Sài Gòn.
chính phủ hòa hợp dân tộc. Đây cũng là lập trường
nhất quán của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
trong suốt quá trình đàm phán, tạo nên thế trận tuy
hai mà một đầy sang tạo của ngoại giao cách mạng
Việt Nam tại Hội nghị Paris.
PHONG TRÀO ĐÔ THỊ SÀI GÒN - GIA
ĐỊNH ỦNG HỘ LẬP TRƯỜNG CỦA
CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI
CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM
Hội nghị Paris diễn ra trong bối cảnh Mỹ buộc phải
xuống thang chiến tranh ở Việt Nam, muốn tìm một
giải pháp danh dự để rút quân về nước nhưng vẫn
muốn tiếp tục duy trì chiến tranh bằng chiến lược
Việt Nam hóa chiến tranh, hậu thuẫn cho chính quyền
Nguyễn Văn iệu. Do đó, với sự nhanh nhạy trong
việc nhận biết những vấn đề chính trị thế giới và trong
nước, nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia Định đã đấu
tranh liên tục để chống lại các âm mưu chiến tranh
mới của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. PTĐT Sài Gòn –
Gia Định những năm 1970-1971 đã diễn ra sôi động,
với hình thức đấu tranh đa dạng. Điểm nổi bật của
phong trào trong giai đoạn này là bên cạnh việc đấu
tranh cho những mục tiêu cụ thể, hầu hết các phong
trào đấu tranh đã công khai hoặc ngầm thể hiện sự
ủng hộ lập trường của Chính phủ CMLT, trên cả hai
vấn đề đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút quân khỏi
miền Nam và đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn
iệu, thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc. Với
đặc thù là những phong trào đấu tranh chính trị công
khai diễn ra ngay trên địa bàn đô thị Sài Gòn – Gia
Định – nơi đứng chân của bộ máy chính quyền đầu
não và tập trung lực lượng quân đội, an ninh thường
trực, cả hai vấn đề trên đây không thể lúc nào cũng
đề cập một cách công khai, cụ thể, mà lồng ghép vào
nhau và lồng ghép khéo léo trong các nội dung đấu
tranh của mỗi tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt, sinh viên còn tổ chức được cuộc biểu tình
ngay trước Tòa đại sứ Mỹ vào ngày 27-5-1970. Sinh
viên đã nhanh chóng kẻ các khẩu hiệu bằng sơn pha
nitrat bạc lên tường rào, mặt đường ống Nhất (nay
là đường Lê Duẩn) phía trước Tòa Đại sứ, với nội
dung “Đại sứ Mỹ cút về nước”, “Bunker go home”. Đội
xung kích sinh viên còn giương các biểu ngữ “Quân
viễn chinh Mỹ và đồng minh Mỹ phải rút về nước”,
“Chống chiến tranh Việt Nam”,… Đồng thời, ném
trứng thối, cà chua vào Tòa Đại sứ. Quân cảnh bảo vệ
không dám nổ súng, lực lượng cảnh sát Sài Gòn được
huy động đến nhưng sinh viên đã kịp thời rút lui bảo
Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh
viên
Từ tháng 3-1970, phong trào học sinh sinh viên Sài
Gòn – Gia Định đã phát triển lên một giai đoạn mới.
Khởi đầu với các cuộc bãi khóa chống lại việc chính
quyền Sài Gòn tiến hành thu học phí trường công lập.
Ngày 8-3-1970, Tổng hội sinh viên Sài Gòn đã tổ chức
họp với ban đại diện các phân khoa đại học và đại
diện các trường trung học bàn kế hoạch tổng bãi khóa sinh viên Sài Gòn còn phối hợp với đoàn sinh viên
và ủng hộ cuộc đấu tranh của giới báo chí chống chủ quốc tế gồm đại biểu sinh viên Mỹ, Úc, Hà Lan, New
trương tăng giá in báo của chính quyền Sài Gòn. Ngày Zealand do Chủ tịch Tổng hội sinh viên Mỹ Charles
930
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Palmer dẫn đầu tổ chức Đại hội sinh viên quốc tế tại đòi Mỹ rút quân. Từ ngày 9-1-1971, Tổng hội sinh
Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp với sự tham dự của viên đã tổ chức tuần lề “Đòi quyền sống” với nhiều
khoảng 5000 sinh viên. Đại hội đã ra Tuyên cáo yêu hoạt động như treo khẩu hiệu với các nội dung đòi
cầu: “Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh phải rút ra khỏi trả tự do cho những học sinh, sinh viên bị bắt, đòi tự
Việt Nam để nhân dân miền Nam được tự quyết định; trị đại học, đòi chấm dứt chiến tranh. Sinh viên còn
Nixon phải chấm dứt ủng hộ chế độ độc tài Sài Gòn” tổ chức in truyền đơn bằng tiếng Anh và tiếng Việt
[5, tr. 263]. Sau Đại hội, một cuộc biểu tình quyết với nội dung chống Mỹ, chống chiến tranh và lên kế
liệt đòi hòa bình với các khẩu hiệu chống chiến tranh, hoạch rải truyền đơn, đốt hình nộm tổng thống và bộ
sinh viên còn mang theo biểu tượng hòa bình là chim trưởng Quốc phòng Mỹ tại nhiều địa điểm như chợ
bồ câu trắng và một chiếc quan tài tượng trưng cho sự Bến ành, trước rạp chiếu phim Rex, khu Đại học xá
chết chóc mà chiến tranh gây ra cho nhân dân miền Minh Mạng. Trong ngày 9-1-1971, tại Tổng hội Sinh
Nam tiến về phía Đại sứ quán Mỹ. Cuộc biểu tình bị viên Sài Gòn, học sinh, sinh viên đã tổ chức Lễ tưởng
đàn áp quyết liệt làm cho một số sinh viên bị thương niệm học sinh Trần Văn Ơn với một bàn thờ treo hình
và đoàn sinh viên quốc tế bị cảnh sát áp tải ra sân bay Trần Văn Ơn, khẩu hiệu “Noi gương bất khuất chống
Tân Sơn Nhất và trục xuất ngay lập tức.
xâm lăng của học sinh Trần Văn Ơn”. Chủ tịch Tổng
Trước sự bố trí canh phòng ngày càng nghiêm ngặt tại đoàn học sinh Sài Gòn Lê Văn Nuôi đã dùng loa tổ
các địa điểm đấu tranh quen thuộc của sinh viên như chức lễ khai mạc, kể lại tiểu sử Trần Văn Ơn, sau buổi
khu tam giác Cường Để, ống Nhất và các trường lễ, học sinh, sinh viên tràn xuống đường mang theo
.
hình thức đấu tranh hiệu quả khác. Từ ngày 31-10- Đặc biệt, trước việc một số binh sĩ Mỹ có hành động
1970 đến 8-11-1970, Tổng hội sinh viên Sài Gòn tổ hãm hiếp phụ nữ, bắn chết dân thường ở một số nơi,
chức triễn lãm Tuần sinh hoạt sinh viên tại Văn phòng sinh viên, học sinh Sài Gòn – Gia Định đã tiếp tục
ư viện Đại học Văn Khoa với nhiều hoạt động có chiến dịch đốt xe Mỹ trên các đường phố. Chiến dịch
nội dung chống chiến tranh. Ngay sau lễ khai mạc đốt xe Mỹ trong năm 1971 còn lan rộng hơn cả năm
là đêm văn nghệ với các bài hát phản chiến và diễn 1970 với sự tham gia không chỉ của sinh viên mà còn
các vở kịch thể hiện khát vọng hòa bình, châm biếm có cả học sinh, có sự hỗ trợ của quần chúng lao động.
chính sách đàn áp sinh viên6. Ngày 5-11-1970 là buổi áng 5-1972, cảnh sát Sài Gòn đã thu giữ được một
thuyết trình với đề tài “Văn hóa trong tự do” với các cuốn sổ tay có ghi số lượng 117 xe Mỹ bị đốt và một
bài thuyết trình có nội dung lên án cuộc xâm lăng chùm chìa khóa gồm 66 chiếc là chiến lợi phẩm thu
về văn hóa của Mỹ. Tại cuộc triển lãm, những hình được sau các cuộc đốt xe Mỹ [5, tr. 194]. Chiến dịch
ảnh về các cuôc xuống đường của sinh viên bị đàn áp, đốt xe Mỹ của học sinh, sinh viên và nhân dân đô thị
hình ảnh những cuộc biểu tình phản chiến ở Mỹ, hình Sài Gòn đã khiến cho lính Mỹ luôn phải bất an, không
ảnh chế độ lao tù ở Côn Đảo và những bức tranh có dám chạy xe qua các đường có trường đại học. Những
ý nghĩa phá xiềng gông vùng lên đã được trưng bày xe nước khác chạy ngoài đường phải cắm cờ của quốc
để học sinh, sinh viên và quần chúng có thể đến tham gia mình và còn mang dấu hiệu phản chiến trước đầu
xe.
Đỉnh điểm của phong trào chống Mỹ năm 1970 là các Nhìn vào những phong trào chống Mỹ, chống chiến
cuộc chặn đốt xe Mỹ trên đường phố Sài Gòn vào cuối tranh, chống lại các chính sách của chính quyền Sài
năm 1970. eo báo cáo của Nha Cảnh sát Sài Gòn Gòn liên tục của giới học sinh, sinh viên trong hai
thì “Chiến dịch đốt xe Mỹ do sinh viên học sinh phát năm 1970, 1971 có thể thấy được thái độ dứt khoát của
động vẫn tiếp tục và có thể lan rộng. Riêng tại Sài Gòn thế hệ trẻ Sài Gòn – Gia Định đối với chính sách xâm
từ đêm 12 - 12 - 1970 tới đêm 15 -12 – 1970, đã có 5 lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam và chính quyền
quân xa của Mỹ và Đại Hàn bị đốt”. Nha này còn lo Sài Gòn. Những cuộc hội thảo, bãi khóa, biểu tình với
ngại nếu xảy ra việc quân cảnh Mỹ phản công lại sinh những khẩu hiệu đòi Mỹ rút quân, những hành động
viên thì “Nếu một sinh viên, học sinh ngã xuống sẽ có đánh trả quân cảnh Mỹ, chống trả quyết liệt lực lượng
thể thành một vụ trò Ơn thứ nhì, mà hậu quả sẽ vô công lực Sài Gòn, chặn đốt xe Mỹ ngay trên đường
cùng bất lợi cho chính quyền trong giai đoạn này”8. phố được báo chí Sài Gòn loan tin hàng ngày có tác
tổng thống Nguyễn Văn iệu đã chỉ thị cho Tổng trấn động đến tầng lớp trung gian, lưng chừng trong xã
hội miền Nam, giúp họ nhận ra bản chất sự có mặt
Sang năm 1971, cùng với các cuộc đấu tranh chống của người Mỹ trên quê hương mình, giúp dư luận thế
chính sách quân sự học đường, đòi tự trị đại học, giới hiểu hơn tinh thần dân tộc, ước nguyện hòa bình
chống bắt bớ, đàn áp, sinh viên, học sinh Sài Gòn tiếp của nhân dân Việt Nam. ông qua đó đã ngầm ủng
tục thể hiện lập trường chống Mỹ, chống chiến tranh, hộ các luận điểm đòi Mỹ rút quân, đòi thay thế chính
931
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
quyền hiếu chiến Nguyễn Văn iệu của Chính phủ bàn hội đàm những điều kiện mà đối phương không
CMLT tại Hội nghị Paris.
thể nào chấp nhận rồi lấy cớ đó đổ lỗi cho đối phương
làm bế tắc hội nghị.... Không thèm đếm xỉa đến dư
luận quần chúng ở miền Nam, cố tình ép buộc đối
phương tại hội đàm Paris phải chấp nhận cái điều kiện
ngang ngược của mình, tổng thống Nixon nỗ lực thực
hiện sách lược “đàm phán trên thế mạnh” bằng cách
tăng cường chiến tranh đến mức độ ác liệt gấp bội
tư liệu xuất bản công khai tại Sài Gòn là một vũ khí
sắc bén chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại chỗ đã
được bí mật gửi sang Paris không hề gián đoạn, đã hỗ
trợ đắc lực cho hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
728-729].
Phong trào đấu tranh của tầng lớp trí thức
Trong những năm 1970 – 1971, tinh thần chống chiến
tranh trong giới trí thức Sài Gòn - Gia Định phát triển
rất mạnh. Với vị thế và môi trường làm việc của mình,
giới trí thức đã có điều kiện thể hiện sự ủng hộ đối
với lập trường của Chính phủ CMLT dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Trước hết, giới ký giả tiến bộ Sài Gòn thông qua các
tờ báo và tạp chí đối lập đã góp phần giúp nhân dân
miền Nam nói chung, nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia
Định nói riêng hiểu hơn về lập trường của các bên.
Tuyên bố 8 điểm của Chính phủ CMLT được đăng
trên nhiều tờ báo ở Sài Gòn như Điện Tín, Tin Sáng,
Sài Gòn Mới, Hòa Bình, Dân Ý, Độc Lập. Đánh giá về
vai trò của báo chí tiến bộ đối trong việc phổ biến lập
trường của Chính phủ CMLT tại Hội nghị Paris, Tiểu
ban báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền
Nam khẳng định “Do tính chất hợp pháp, báo chí
công khai Sài Gòn làm được việc phổ biến được các
chính sách lớn của ta (Chính phủ CMLT-TG), nhất
là trên mặt trận tấn công chính trị và ngoại giao một
cách rộng rãi và kịp thời, trong khi báo chí mật chưa
khác, các ký giả đã công khai vạch trần và lên án chính
sách và lập trường của phái đoàn Mỹ và VNCH. Khi
Tổng thống Mỹ Nixon công bố Tuyên bố 5 điểm ngày
7-10-1970 và gọi đó là “sáng kiến hòa bình”, báo Tin
Sáng ngày 1-7-1970 viết “Hòa bình kiểu Mỹ, đó là một
thứ hòa bình theo luật rừng xanh, nhân dân ta bác bỏ
21-9-1970 đã lên án âm mưu của Mỹ tại Hội nghị Paris
“Chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ thực
ra chỉ là chủ trương kéo dài chiến tranh, Mỹ tới hội
đàm Paris, nhưng thực ra vẫn chưa muốn hòa bình và
lại còn buộc chính phủ Nguyễn Văn iệu tìm chiến
việc lên án những âm mưu của đoàn Mỹ trên bàn đàm
phán Paris là tạp chí Đối Diện. áng 5-1971, Đối
diện đăng bài “Chiêu bài chống Cộng” của Luật sư
Nguyễn Long, bài viết đã vạch trần những toan tính
của Mỹ tại Hội nghị Paris “Hội nghị bốn bên tại Paris
Bên cạnh đó, lập trường hòa bình của Chính phủ
CMLT đã nhận được sự quan tâm và hưởng ứng của
giới trí thức là các dân biểu. Đáng chú ý là lập trường
hòa bình của nhóm dân biểu Ngô Công Đức đưa ra
vào tháng 9-1970 đã gây tiếng vang lớn trong dư luận
miền Nam, khiến chính quyền Sài Gòn lúng túng đối
phó. Ngày 15-9-1970, dân biểu Ngô Công Đức trước
khi lên đướng sang Paris để thực hiện cuộc vận động
hòa bình đã phổ biến với giới báo chí tại sân bay
Tân Sơn Nhất bản Tuyên ngôn, trong đó nhận định
“Quyền dân tộc tự quyết chỉ có thể được thể hiện đúng
đắn qua một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do, không bị áp
lực bởi sự hiện diện của quân đội ngoại quốc. – Cuộc
bầu cử phải được tổ chức bởi một chính phủ lâm thời
được các phe lâm chiến chấp nhận”… . Đồng thời,
bản Tuyên ngôn đề nghị: “- ành lập một chính phủ
lâm thời tại miền Nam Việt Nam để tái tạo các sinh
hoạt bình thường và bảo đảm các quyền tự do dân
chủ căn bản cho mọi người dân; - Tổ chức tuyển cử
tự do để định đoạt tương lai chính trị của người dân
Công Đức còn đưa ra một chương trình đòi hỏi: “-
Triệt thoái quân đội ngoại quốc (Mỹ, ái Lan, Tân
Tây Lan, Đại Hàn) cùng vật liệu chiến tranh - Mỹ
ngưng ủng hộ Chánh phủ Nguyễn Văn iệu trong
. Sau khi tới Paris, Ngô Công Đức
không hề giấu giếm quan điểm ủng hộ đề nghị của
đoàn Chính phủ CMLT. Tại cuộc họp báo do ông tổ
chức tại khách sạn Lutetia, ngày 21-9-1970, trả lời câu
về Việt Nam đã kéo dài hơn hai năm, trải qua 104 lần hỏi “Ông có ý kiến gì về các đề nghị của bà Bình đã
họp mà vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Nguyên đưa ra hôm thứ Năm vừa rồi”, Ngô Công Đức đã trả
nhân của sự bế tắc có nhiều, nhưng căn bản vẫn là lời “…Chúng tôi xin nhấn mạnh ở đây rằng trong lời
việc nhà cầm quyền Mỹ không muốn thực tâm đi đến tuyên bố của bà Bình có những điểm chúng tôi hoàn
một giải pháp hòa bình lâu dài cho vấn đề Việt Nam.... toàn đồng ý, đó là sự rút lui của quân đội Mỹ và quân
Một mặt giương cao rầm rộ cho những điều họ gọi là ngoại nhập khỏi miền Nam Việt Nam và điều thứ hai
“kế hoạch hòa bình” do tổng thống Mỹ Nixon đưa ra, là Miền Nam Việt Nam sẽ do người Việt Nam giải
932
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Lo sợ ảnh hưởng của bản Tuyên ngôn và chương càng thối nát, áp bức, bất công, kinh tế ngày càng suy
trình của nhóm dân biểu Ngô Công Đức, chính quyền sụp, khiến cho không ai còn có thể tin nơi những lí
VNCH vội vàng quy kết “Luận điệu của ông Ngô Công do cao thượng đã được dùng bấy lâu nay để biện minh
Đức đã cổ võ không công cho Cộng sản” (tức Chính cho chiến tranh và cho sự can thiệp của ngoại bang….
phủ CMLT – TG),... Đối chiếu Giải pháp 4 điểm và Những biến cố đã xẩy ra gần đây, đặc biệt là chương
Chương trình 4 điểm của ông Ngô Công Đức nói trên trình Việt Nam hóa chiến tranh và việc tái oanh tạc
với 8 điểm được gọi là nói rõ thêm của Nguyễn ị miền Bắc cho thấy rằng những thế lực hiếu chiến vẫn
Bình, hẳn mọi người đã thấy gần như là một, nếu âm mưu kéo dài và nới rộng chiến tranh và càng làm
không nói sang kiến của dân biểu Ngô Công Đức đã cho cuộc vận động hòa bình khẩn thiết hơn bao giờ
phụ họa cho luận điệu của Cộng sản” [16, tr. 14]. Trả hết”19. Đồng thời, lời kêu gọi cũng nêu lên mục đích
lời báo Việt Nam ông tấn xã Sài Gòn ngày 22-9- của Ủy ban này là đoàn kết những người Công giáo
1970, Hoàng Đức Nhạ - am vụ báo chí tại Phủ tổng Việt Nam có thiện chí xây dựng nền hòa bình, liên kết
thống VNCH cho rằng lập trường của nhóm dân biểu với những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới
Ngô Công Đức “không khác gì luận điệu Cộng sản vì cùng lên tiếng đòi hỏi các bên khai thông thế bế tắc
lên án cuộc chiến tranh kéo dài và khốc liệt, ... đề của Hiệp định Paris để tìm kiếm nền hòa bình cho
.
biểu Ngô Công Đức phổ biến bản Tuyên ngôn cùng Ngày 1-10-1971, 12 linh mục ở Sài Gòn đã gửi ỉnh
một thời điểm Tám điểm của Nguyễn ị Bình tại Ba nguyện thư lên Đại hội đồng giám mục Tòa thánh
Lê cho phép chúng ta nghĩ rằng không phải là một sự Vatican đề nghị Hội đồng Giám mục lên tiếng tố cáo
trùng hợp ngẫu nhiên. Hơn nữa đây không phải là “sự can thiệp trắng trợn và táo bạo của Hoa Kỳ tại
lần đầu tiên nhóm Dân biểu cùng với một số gọi là Việt Nam, … âm mưu kéo dài chiến tranh bằng sự
chính trị gia ở bên ngoài đưa ra những luận điệu như dựng lên và nuôi dưỡng những chế độ độc tài và tham
theo lập trường của Chính phủ CMLT, chính quyền liên danh duy nhất vào ngày 3-10-1971 tại miền Nam
dọa ông bằng nhiều hình thức. Mặc dù vậy, giới trí tranh chống cuộc bầu cử ngày 3-10-1971, Phong trào
thức Sài Gòn – Gia Định vẫn công khai bày tỏ sự ủng Công giáo xây dựng hòa bình đã tổ chức đốt thẻ cử
hộ lập trường của Ngô Công Đức. Trên báo ời Đại tri và ra Tuyên cáo với nội dung lên án cuộc bầu cử là
ngày 19-9-1970, Luật sư Trần Ngọc Liễng khẳng định: “một trò hề bi đát với sự độc diễn của một liên danh
“Giải pháp của nhóm dân biểu Ngô Công Đức được duy nhất”. Bản Tuyên cáo nhấn mạnh “Ngày nào quân
những người Việt Nam thật tâm yêu nước và thật tâm đội Mỹ còn chiếm đóng miền Nam, ngày nào quốc gia
báo ời Đại ngày 20-9-1970, dân biểu Dương Văn của Mỹ, ngày ấy chưa có dân chủ và cũng không thể
Ba nhận xét “cá nhân ông Đức rất là can đảm khi đưa có hòa bình. Muốn thực hiện dân chủ để xây dựng hòa
ra giải pháp này trong khi chính quyền muốn bóp bình phải phá vỡ âm mưu duy trì chế độ phản dân chủ
chết và xuyên tạc mọi tiếng nói hòa bình phản ánh và chính quyền hiếu chiến hiện hữu của miền Nam,
.
giả trong cuộc họp báo tại chùa Ấn Quang, ượng Trung thành với chủ trương đấu tranh cho hòa bình,
tọa ích iện Hoa – Viện trưởng Viện Hóa Đạo giới trí thức Phật giáo thuộc khối Ấn Quang đã có
cũng lên tiếng ủng hộ lập trường của Ngô Công Đức, tiếng nói quan trọng trong phong trào đấu tranh ủng
“Không riêng gì dân biểu Ngô Công Đức mà bất cứ hộ lập trường hòa bình trong những năm 1970-1971.
ai có thiện chí đưa ra những ý kiến chấm dứt chiến Bên cạnh sự sự tham gia hoặc ủng hộ tinh thần, vật
tranh, vãn hồi hòa bình thì cũng đáng hoan nghênh chất của tăng ni, Phật tử đối với các cuộc đấu tranh
.
của các giới đồng bào ở Sài Gòn – Gia Định, Phật giáo
Ôn hòa hơn nhóm trí thức dân biểu, giới trí thức còn thông qua khả năng ảnh hưởng rộng rãi của mình
Công giáo tập trung lên án chính sách xâm lược của đối với quốc tế để truyền đi thông điệp đấu tranh vì
Mỹ là nguyên nhân gây ra những đau khổ cho nhân hòa bình. Ngày 20-10-1970, tại Đại hội Phật giáo thế
dân Việt Nam. Ngày 24-11-1970, một số trí thức công giới tổ chức ở Kyoto (Nhật Bản), Đoàn đại biểu Phật
giáo đã ra lời kêu gọi thành lập Ủy ban vận động thành giáo Ấn Quang do ượng tọa ích iện Minh dẫn
lập Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình, trong đầu đã trình bày “Giải pháp sáu điểm để chấm dứt
đó lên án các thế lực hiếu chiến đang kéo dài cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” trong
chiến tranh “Sự can thiệp ồ ạt của Hoa Kỳ làm cho đó yêu cầu Mỹ chấm dứt hậu thuẫn cho chính quyền
quốc gia ngày càng mất thêm chủ quyền, xã hội ngày VNCH, rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam để
933
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
thành lập một chính quyền hòa giải, tạo điều kiện tham dự các cuộc họp báo, thuyết pháp hay tổ chức
thực hiện tuyển cử tự do: “Chính phủ Hoa Kỳ phải
chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực hiện
tại ở miền Nam Việt Nam bằng cách để cho người dân
Việt Nam tự do chọn lựa một chánh quyền có thể đại
diện cho đa số quần chúng có căn bản hòa giải dân tộc,
không liên kết và có khả năng để: - ương thuyết với
chánh phủ Hoa Kỳ về những thời biểu triệt thoái toàn
thể quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam và về những liên hệ
ngoại giao, văn hóa, kinh tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
- ương thuyết với chánh phủ Cách mạng lâm thời
về những thể thức tổ chức Tổng tuyển cử để đại diện
cho mọi khuynh hướng chính trị ở Việt Nam. Một
cuộc bầu cử thật sự tự đưới sự giám sát quốc tế trong
đó mọi người dân bất cứ khuynh hướng chính trị nào
các buổi họp của các tổ chức, đoàn thể quần chúng.
Giới trí thức Sài Gòn - Gia Định không phân biệt tôn
giáo còn tham gia vào các hoạt động đấu tranh cho
hòa bình đất nước. Ngày 20-1-1971, Ủy ban liên lạc
các lực lượng hòa bình do dân biểu Hồ Ngọc Nhuận
làm trưởng ban đã tổ chức buổi lễ cầu nguyện hòa
bình thuộc chương trình hành hương Hòa Bình Tết
Tân Hợi, với sự tham dự của các đại biểu đại diện
cho các tổ chức và tôn giáo như các linh mục Nguyễn
Ngọc Lan, Chân Tín, giáo sư Nguyễn Văn Trung, Lý
Chánh Trung,... (iên Chúa giáo), ượng tọa Pháp
Lan (Phật giáo), ông Nguyễn Tấn Đắt (đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương), ông Cao Hoài Hà (Liên minh nhân sĩ Cao
Đài), bà Ngô Bá ành (Chủ tịch Phong trào Phụ nữ
đòi quyền sống),... Linh mục Chân Tín đã đọc lời cầu
nguyện hòa bình, nhấn mạnh hòa bình là điều kiện
tiên quyết và sám hối cho các nhà lãnh đạo quốc gia,
lãnh đạo các tôn giáo đã không sáng suốt ngăn chặn
.
Giải pháp sáu điểm của Phật giáo Ấn Quang đã gây
được tiếng vang lớn tại Đại hội Phật giáo thế giới Ky-
oto, theo báo Sài Gòn mới ngày 28-10-1970 thì “đề
nghị của Ấn Quang được Hội nghị Quốc tế Phật giáo
ở Kyoto dùng làm nền tảng trong bản quyết nghị kêu
gọi rút quân ngoại nhập và lập chánh phủ có căn bản
Việt Nam của Hội nghị Quốc tế Phật giáo ở Kyoto có
đoạn viết “Hoa Kỳ rút lui sự hỗ trợ cho chính quyền
Việt Nam Cộng hòa mà bản chất là quân nhân, để dân
chúng Việt Nam dễ dàng bầu lên một chính quyền dân
nghị sáu điểm của Phật giáo Ấn Quang công bố tại Đại
hội Phật giáo thế giới ngày 20-10-1970 có những điểm
thể hiện sự tán thành với các mục tiêu của cách mạng
miền Nam đang hướng tới là buộc Mỹ rút quân, loại
bỏ chính quyền Nguyễn Văn iệu, thành lập chính
phủ không liên kết, được thể hiện qua Giải pháp tám
điểm của Chính phủ CMLT tại phiên họp bốn bên
ngày 14-9-1970.
.
Ngoài ra, trí thức Sài Gòn - Gia Định còn là nòng
cốt đứng ra thành lập nhiều tổ chức chính trị, xã hội
quy tụ các tầng lớp nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia
Định như Phong trào phụ nữ đòi quyền sống (thành
lập ngày 2-8-1970), Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa
bình (thành lập ngày 29-9-1971),…Các tổ chức này
hoạt động công khai, thu hút sự tham gia của nhiều
giới đồng bào và hình thành hệ thống cơ sở ở nhiều
địa phương. eo bà Ngô Bá ành, tất cả các tổ chức
chính trị này đều có cùng mục tiêu đấu tranh “đòi độc
lập, hòa bình, quyền dân tộc tự quyết mà người Mỹ đã
.
Phong trào đấu tranh của công nhân lao
động
Trong hai năm 1970-1971, công nhân lao động Sài
Gòn - Gia Định tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ. Dưới sự kiểm soát của giới chủ cũng
như môi trường làm việc, công nhân lao động không
có điều kiện thuận lợi để công khai thể hiện sự ủng hộ
lập trường hòa bình của Chính phủ CMLT, đòi Mỹ
rút quân, đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn iệu
như giới học sinh, sinh viên và trí thức. Mặc dù vậy,
xét trên nhiều phương diện, phong trào đấu tranh của
công nhân lao động Sài Gòn - Gia Định cũng góp
phần thể hiện sự ủng hộ cuộc đấu tranh ngoại giao
của chính quyền cách mạng và cô lập chính quyền Mỹ
và VNCH.
Để cho đồng đảo Phật tử có thể hiểu được lập trường
của giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam đối với các vấn
đề hiện tại của đất nước, Phật giáo Ấn Quang thường
xuyên có các cuộc thuyết pháp hoặc họp báo tại chùa
Ấn Quang. Ngày 1-1-1971, Viện Hóa Đạo tổ chức
cuộc họp báo để trình bày kết quả của Đại hội tôn giáo
thế giới và hòa bình, thái độ của Phật giáo Việt Nam
trước hiện tình đất nước. Tại cuộc họp báo, Giáo hội
Việt Nam thống nhất đã công bố Tuyên cáo với nội
dung kêu gọi ngừng bắn, kêu gọi chấm dứt hỗ trợ cho
chính quyền miền Nam Việt Nam để dân chúng có thể
thể thấy rằng, lập trường hòa bình của Phật giáo có
ảnh hưởng lớn đến các tầng lớp nhân dân đô thị Sài
Gòn – Gia Định bởi vì các cơ sở sinh hoạt của Phật
giáo ở Sài Gòn – Gia Định trong giai đoạn này thường
Trước hết, các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
tiếp tục lan rộng trong công nhân lao động đô thị Sài
Gòn - Gia Định nhằm chống lại các chính sách tăng
là nơi lui tới của nhiều tầng lớp chính trị xã hội để thuế, kiểm soát nghiệp đoàn. Trong đó, đáng chú ý là
934
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
các cuộc đấu tranh trong các hãng thầu của Mỹ như trị chống lại chính sách bóc lột và khủng bố, đàn áp
nghiệp đoàn của chính quyền VNCH.
các cuộc bãi công của công nhân hãng thầu RMK-BRJ
(tháng 10-1970). Ngày 10-1-1971, đại hội công nhân
làm việc trong cơ quan USAID trên toàn miền Nam đã
được tổ chức tại Tổng liên đoàn lao công, với sự tham
dự của khoảng 250 đại biểu, công nhân đã tố cáo các
viên chức Hoa Kỳ cùng nhà thầu áp bức công nhân
Công nhân lao động cũng tham gia phổ biến các
biểu ngữ, truyền đơn chống Mỹ mở rộng chiến tranh.
Ngày 7-2-1971, tại khu xóm lao động chợ Cầu Muối,
sau lễ cầu nguyện cho nạn nhân hỏa hoạn, nhiều
truyền đơn chống chiến tranh được phổ biến với các
nội dung “Tuyên cáo của Phong trào Dân tộc tự quyết
về việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược Lào. Tuyên
cáo của Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình về việc
Mỹ mở rộng chiến tranh sang Ai Lao”, cùng với các
truyền đơn là các biểu ngữ “Cương quyết đòi nhà cầm
quyền trả chồng con cho gia đình chúng tôi”, “Cực lực
phản đối Mỹ mở rộng chiến tranh qua Lào”, “A tùng
với Mỹ đưa thanh niên Việt Nam qua Lào là phản dân,
.
Bên cạnh đó, nhiều cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân
chủ của công nhân lao động nhận được sự ủng hộ
rộng rãi của các giới khác và dư luận, làm suy giảm
uy tín của chính quyền VNCH. Tiêu biểu trong hai
năm 1970, 1971 là cuộc đấu tranh tại khu Tồn trữ ủ
Đức và cuộc đấu tranh của nữ công nhân tại hãng
Pin Con Ó (Vidopin). Cuộc đấu tranh tại khu tồn
trữ ủ Đức bắt đầu từ tháng 5-1970, chống lại âm
mưu sa thải 283 công nhân và phá hoại tổ chức nghiệp
đoàn tiến bộ, nhận được sự ủng hộ của công nhân
các nghiệp đoàn ở Sài Gòn - Gia Định, dẫn đến cuộc
tổng đình công của 126 nghiệp đoàn cơ sở và phân
bộ nghiệp đoàn diễn ra nhiều ngày từ 15 đến 30-6-
1970, với tổng số ngày đình công (tính theo số lượng
công nhân tham gia) là 670.000 ngày. Tuy vậy, với sự
cấu kết của tổ chức nghiệp đoàn thuộc Tổng liên đoàn
lao công và chính quyền Sài Gòn, cuộc đấu tranh của
công nhân thất bại, 13/15 ủy viên của Liên hiệp nghiệp
đoàn Sài Gòn - Gia Định đã từ chức để phản đối chính
hãng Pin Con Ó (từ tháng 8-1971 đến tháng 12-1971)
đòi các quyền lợi dân sinh cho công nhân và chống
lại hành động đàn áp nghiệp đoàn tiến bộ, đã gây ra
phản ứng mạnh mẽ của dư luận. Phong trào đã nhận
được sự ủng hộ của tất cả các nghiệp đoàn thuộc Tổng
liên đoàn lao động với một cuộc tổng đình công vào
ngày 30-10-1971. Nhiều nghiệp đoàn không thuộc
Tổng liên đoàn lao động như Liên hiệp nghiệp đoàn
ngân hàng Việt Nam, Liên đoàn công nhân hỏa xa
(nghiệp đoàn độc lập), các nghiệp đoàn Esso, Sicov-
ina, thuốc lá Bastos (thuộc Tổng liên đoàn lao công),
nghiệp đoàn 36 chợ Đô thành (thuộc Tổng liên đoàn
công nhân) đều tổ chức quyên góp ủng hộ công nhân
Vidopin duy trì cuộc đấu tranh. Báo chí Sài Gòn đã
tường thuật diễn biến cuộc đấu tranh từng ngày. Các
tổ chức chính trị, xã hội như Phong trào anh lao
Công và Phong trào phụ nữ đòi quyền sống, các dân
biểu và nghị sĩ trong Quốc hội Sài Gòn cũng ủng hộ
công nhân cả tinh thần và vật chất. Phái đoàn anh
lao Công thế giới cũng đến Sài Gòn để tìm hiểu sự
việc và chất vấn Bộ Lao động về việc để cảnh sát đàn
công nhân Vidopin đã không còn dừng lại là một cuộc
.
Ngoài ra, công nhân lao động cũng là những người
tích cực tham gia các hoạt động chống chiến tranh
do các giới khác đứng ra tổ chức. Phong trào phụ
nữ đòi quyền sống do bà luật sư Ngô Bá ành làm
Chủ tịch có cơ sở rộng rãi trong quần chúng lao động
tại nhiều phân khu ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Hòa,
ạnh Mỹ Tây, vừa thu hút nữ trí thức, nữ công chức,
tiểu thương. Phong trào có nhiều hoạt động sôi nổi
đấu tranh chống đàn áp sinh viên, bảo vệ nhân phẩm
phụ nữ. Đặc biệt, phong trào đã công khai lên án Mỹ
và cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra cho nhân dân Việt
Nam, đòi Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Sau khi
thành lập phong trào, bà Ngô Bá ành đã khẳng định
“Suốt trong mười mấy năm trời người Mỹ nhúng tay
can thiệp vào Việt Nam, nhân dân miền Nam đã cực
khổ trăm chiều, trong đó chị em phụ nữ là nạn nhân
đau đớn nhất. Mặt khác sự nghèo đói của đồng bào ta
càng gia tăng... chúng ta đòi Mỹ phải triệt thoái khỏi
miền Nam Việt Nam để trao lại quyền sống và giá trị
công nhân lao động đã tham dự các buổi thuyết pháp,
buổi cầu nguyện cho hòa bình của Phật giáo và iên
Chúa giáo. Họ cũng là những người hậu thuẫn đắc lực
cho học sinh, sinh viên trong những cuộc biểu tình,
đốt xe Mỹ, chiếm đóng tòa đại sứ của chính quyền
Lonnol,...
MỘT SỐ NHẬN XÉT
Khái quát những phong trào đấu tranh tiêu biểu của
nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia Định trong giai đoạn
1970-1971 trong sự liên hệ với lập trường của Chính
phủ CMLT tại Hội nghị Paris trong cùng thời điểm
giúp chúng ta có thể nhận thức được sự phối hợp của
PTĐT Sài Gòn – Gia Định với cuộc đấu tranh ngoại
giao của chính quyền cách mạng.
Trước hết, có thể khẳng định rằng với tinh thần yêu
đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế mà đấu tranh chính nước, ý thức về chủ quyền dân tộc, nhân dân đô thị
935
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
Sài Gòn – Gia Định đã liên tục đấu tranh chống Mỹ, ứ hai, thông qua lập trường của mình tại Hội nghị
chống chính quyền Nguyễn Văn iệu, đòi hòa bình, Paris, Chính phủ CMLT đã thể hiện sự sáng tạo trong
độc lập và các quyền dân sinh, dân chủ. Sự phát triển chính sách đoàn kết các tầng lớp nhân dân vào mục
sôi động của phong trào trong hai năm 1970-1971, tiêu chung của cách mạng. Có thể thấy rằng mặc dù
nhất là phong trào chống Mỹ xâm lược, đòi Mỹ rút hầu hết các tầng lớp nhân dân đô thị có chung một
quân, chống chính quyền Nguyễn Văn iệu đàn áp, nguyện vọng là kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình
độc tài, đòi thành lập chính phủ hòa giải lâm thời đã nhưng một số bộ phận nhân dân đô thị Sài Gòn – Gia
có tác động lớn đến dư luận trong và ngoài nước, giúp Định vẫn tồn tại những hoài nghi về chính quyền cách
nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về thực trạng chiến mạng. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được trong bối
tranh, nguyện vọng của nhân dân miền Nam. Từ cảnh của miền Nam trong cuộc kháng chiến chống
đó, hậu thuẫn cho những lập trường của Chính phủ Mỹ. Do đó, để đoàn kết, tập hợp được đông đảo các
CMLT tại Hội nghị, củng cố vai trò đại diện của chính tầng lớp nhân dân đô thị miền Nam nói chung, Sài
quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Chính Gon – Gia Định nói riêng cần phải có những chủ
chính quyền VNCH đã thừa nhận rằng từ tháng 3- trương linh hoạt và sáng tạo. Trong lập trường của
1970, PTĐT Sài Gòn – Gia Định đã “phối hợp nhịp Chính phủ CMLT tại Hội nghị Paris trong hai năm
nhàng với những chủ trương của ành ủy Sài Gòn 1970-1971 không chỉ chú trọng đòi Mỹ rút quân có
– Gia Định. Khởi đầu từ những mục tiêu tranh đấu hạn định, đòi thay đổi chính quyền Nguyễn Văn iệu
có tính cách giai đoạn hoặc hoàn toàn trong phạm như nguyện vọng của đông đảo nhân dân miền Nam,
vi nghề nghiệp, đoàn thể,… tiến dần sang lãnh vực mà còn giải tỏa những băn khoăn của các tầng lớp
chánh trị như: đòi hòa bình tức khắc, cử phái đoàn trung gian khi đưa ra sáng kiến về một chính phủ
đi vận động hòa bình, chấm dứt chiến tranh vô điều hòa giải lâm thời để chuẩn bị cho bước tổng tuyển
kiện, chống kế hoạch tổng động viên, huấn luyện quân cử, thành lập chính quyền mới. Đề nghị này nhanh
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thấy rằng, sự phối dân đô thị Sài Gòn, Gia Định. Qua đó, tập hợp được
.
chóng nhận được sự đồng tình của đông đảo nhân
hợp thường xuyên giữa mặt trận đấu tranh chính trị
đô thị và cuộc đấu tranh trên diễn đàn Hội nghị Paris
trong giai đoạn 1970-1971 đã chứng minh tính đúng
đắn, sáng tạo trong đường lối của Chính phủ CMLT:
ứ nhất, Chính phủ CMLT đã vận dụng linh hoạt
phương châm phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao với các mặt trận khác, cụ thể ở
một lực lượng quần chúng gọi là thành phần thứ ba ở
miền Nam, được ghi nhận trong Hiệp định Paris. Lực
lượng này có nhiều đóng góp đối với sự phát triển của
mặt trận đấu tranh chính trị trong giai đoạn kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
KẾT LUẬN
đây là mặt trận đấu tranh chính trị ở đô thị. Những PTĐT Sài Gòn – Gia Định những năm 1970-1971 đã
Đề nghị, Giải pháp đưa ra tại Hội nghị Paris của chính diễn ra vô cùng sôi động, với hình thức đấu tranh đa
quyền cách mạng miền Nam không những nhằm vào dạng. Điểm nổi bật của phong trào trong giai đoạn
những điểm mấu chốt để giải quyết cuộc chiến tranh này là bên cạnh việc đấu tranh cho những mục tiêu
ở Việt Nam trêm tinh thần hòa bình và độc lập dân cụ thể, hầu hết các phong trào đấu tranh đã công khai
tộc, mà còn phản ánh đúng nguyện vọng của nhân hoặc ngầm thể hiện sự ủng hộ lập trường của Chính
dân miền Nam. Hai nguyện vọng bức thiết của nhân phủ CMLT, trên cả hai vấn đề: đòi Mỹ chấm dứt chiến
dân miền Nam lúc này là quân Mỹ và đồng minh phải tranh, rút quân khỏi miền Nam và đòi lật đổ chính
rút khỏi Việt Nam và thay đổi chính quyền hiếu chiến, quyền Nguyễn Văn iệu, thành lập một chính phủ
độc tài Nguyễn Văn iệu vốn được phản ánh cụ thể hòa hợp dân tộc. Sự ủng hộ của PTĐT Sài Gòn - Gia
trong các cuộc đấu tranh chống chiến tranh, đòi dân Định đối với Chính phủ CMLT tại Hội nghị Paris có
sinh, dân chủ ở đô thị Sài Gòn – Gia Định. Đây cũng tác động lớn đến dư luận quốc tế, giúp nhân dân thế
là hai vấn đề trọng tâm trong các đề nghị của phía Việt giới hiểu hơn về tình hình miền Nam Việt Nam và
Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ CMLT. Chính những nguyện vọng về nền hòa bình, độc lập thực sự
vì vậy, cùng lúc những phong trào đấu tranh sôi động của nhân dân miền Nam đối lập với lập trường của Mỹ
tại đô thị Sài Gòn – Gia Định nói riêng và đô thị miền và chính quyền VNCH tại Hội nghị Paris. Đồng thời,
Nam nói chung được dư luận thế giới biết đến qua các sự tương đồng về mục tiêu đấu tranh của PTĐT Sài
phương tiện truyền thông quốc tế, chính phủ CMLT Gòn - Gia Định với các giải pháp, đề nghị của Chính
cũng công bố các đề nghị, giải pháp của mình. Qua phủ CMLT tại Hội nghị đã cho thấy tính đại diện cho
đó, tăng cường tính chất đại diện quyền lợi cho đông đông đảo nhân dân miền Nam của Chính phủ CMLT
đảo nhân dân miền Nam của chính quyền cách mạng, cũng như đường lối sáng tạo của chính phủ này trong
cô lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
việc tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân
936
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):928-938
miền Nam vào mặt trận đấu tranh chính trị kết hợp
mặt trận đấu tranh ngoại giao.
9. Công văn số 4553/PTT/PTĐB/QSAN ngày 17 tháng 12 năm
1971 của Phủ Tổng thống gửi Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định
về việc Đối phó với chiến dịch đốt xe của Đồng minh do các
phần tử sinh viên, học sinh quá khích chủ động, Tài liệu lưu
LỜI CẢM ƠN
trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu PTTG - 30850;.
10. Bản tin trong ngày (từ 8 giờ ngày 9-1-1971 đến 8 giờ ngày 10-
1-1971) của Tòa Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định, Tài liệu lưu trữ
tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu PTTG-30825;.
11. Khanh NC. Lịch sử báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
(1865-1995). Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh.
2006;.
12. Long N. Chiêu bài chống Cộng. Tạp chí Đối diện. 1971;25:56–
66.
13. Dang TB. Lịch sử Nam bộ kháng chiến, tập 2. Hà Nội: Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia. 2011;.
14. Tuyên ngôn của nhóm dân biểu Ngô Công Đức về vấn đề hòa
bình do dân biểu Ngô Công Đức phổ biến tại phi trường Tân
Sơn Nhất ngày 15-9-1970 trước khi đi Ba Lê, Tài liệu lưu trữ tại
TTLTII, Ký hiệu tài liệu ĐIICH - 1143;.
15. Hồ sơ vv dân biểu Ngô Công Đức can tội hoạt động cho cộng
sản 1969 - 1972, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu ĐIICH
- 1143;.
Tác giả bài viết xin gửi lời cảm ơn đến Trường Đại
học ủ Dầu Một, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia ành phố Hồ Chí Minh
đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện
nghiên cứu. Đồng thời, xin cảm ơn Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia II, ư viện Khoa học Tổng hợp ành
phố Hồ Chí Minh, ư viện Khoa học Xã hội (Viện
Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ) đã cung cấp các tài
liệu cần thiết để tác giả hoàn thành bài nghiên cứu
này.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chính phủ CMLT: Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
VNCH: Việt Nam Cộng hòa.
PTĐT: Phong trào đô thị.
TTLTII: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
16. Cuộc họp báo của dân biểu Ngô Công Đức tại Hotel Lutetia, Ba
Lê hồi 17 giờ 30 ngày 21-9-1970. Tạp chí Đối diện. 1970;17:79.
17. VềlậptrườnghòabìnhcủadânbiểuNgôCôngĐứcnăm1970-
1971, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu PPTG-17361;.
18. Dư luận báo chí về giải pháp hòa bình của dân biểu Ngô Công
Đức, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu PTTG-17361;.
19. Lời kêu gọi thành lập Ủy ban vận động thành lập Phong trào
công giáo xây dựng hòa bình, Tạp chí Đối diện. 1971;19:125–
127.
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.
20. Thỉnh nguyện thư ngày 1-10-1971 của 12 linh mục. Tạp chí Đối
diện. 1972;34:21–22.
21. Tuyên cáo của Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình ngày
14-9-1971, Tạp chí Đối diện. 1971;28:132.
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Tác giả bài viết là người trực tiếp sưu tầm toàn bộ tư
liệu có liên quan đến bài viết, hình thành ý tưởng và
triển khai viết, chỉnh sửa và hoàn thiện bài viết.
22. Giải pháp 6 điểm về hòa bình của Phật giáo Ấn Quang do
thượng tọa Thiện Minh công bố tại Kyoto ngày 20-10-1970,
Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu ĐIICH - 4316;.
23. Phiếu trình Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 7-11-1970
của Phụ tá đặc biệt về Ngoại vụ, Phủ Tổng thống, Tài liệu lưu
trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu ĐIICH - 4316;.
24. Cung L.Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam (1945-
1975). Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp. 2019;.
25. Bản tin trong ngày từ ngày 1-1-1971 đến ngày 3-1-1971 của
Tòa Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định, Trung tâm lưu trữ quốc gia
II, Ký hiệu tài liệu PTTG-30825;.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm lưu trữ Quốc gia
II. Hiệp định Paris năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài
Gòn. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 2012;.
2. Le NT. Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-1973). Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 2018;.
26. Tòa Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định, Bản tin trong ngày từ 21-1-
1971 đến 22-1-1971, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu
PTTG-30825;.
3. Bin ND. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000. Hà Nội: Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia. 2005;.
4. Bưu điệp số 010437/TCSQG/S1/Đ/K ngày 27-3-1970 của Tổng
nha Cảnh sát Quốc gia gửi Thủ tướng chính phủ và Tổng
trưởng Nội vụ Sài Gòn về việc diễn tiến hoạt động của Ủy ban
chống đàn áp sinh viên và sinh viên Đại học Sài Gòn đối với
vụ sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu
tài liệu PTTG - 30598;.
27. Kháng thư của bà Ngô Bá Thành gửi nhà cầm quyền Nguyễn
Văn Thiệu ngày 22-11-1971, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu
tài liệu PTTG - 18525;.
28. Tòa Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định, Bản tin tức trong ngày (từ
10-1-1971 đến 11-1-1971), Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài
liệu PTTG-30825;.
29. Sinh NH. Cuộc đình công của Liên hiệp nghiệp đoàn Đô thành
Sài Gòn - Gia Định nhân vụ tranh chấp của Khu tồn trữ Thủ
Đức. Luận văn tốt nghiệp Học viện Quốc gia hành chánh. Sài
Gòn. 1970;.
30. Khue PN. Vụ tranh chấp lao động tại hang Vidopin, Luận văn
tốt nghiệp Ban Đốc Sự, khóa 1970 - 1973. Học viện Quốc gia
hành chánh Sài Gòn. 1973;.
5. Nhiều tác giả. Chúng ta đã đứng dậy, tập 2 (1969-1975). Thành
phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. 2014;.
6. Bưu điệp số 034840/TCSQG/S1/Đ/K của Nha Tổng Giám đốc
Cảnh sát Quốc gia, Sài Gòn gửi Thủ tướng chính phủ ngày 8-
11-1970. Tàiliệulưu trữ tạiTTLTII, kýhiệutàiliệuPTTG-30595;.
7. Bưu điệp số 034946/TCSQG/S1/Đ/K của Nha Cảnh sát Quốc
gia Sài Gòn gửi Thủ tướng chính phủ kiêm Bộ trưởng Nội vụ
Sài Gòn về việc tình hình sinh viên học sinh trong ”Tuần lễ sinh
hoạt sinh viên, học sinh, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, ký hiệu tài
liệu PTTG - 30595;.
31. Tòa Tổng Trấn Sài Gòn - Gia Định, Bản tin trong ngày (từ ngày
7-2-1971 đến ngày 8-2-1971, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu
tài liệu PTTG-30825;.
8. Bưu điệp số 039463/TCSQG/S1/T/K ngày 19 tháng 12 năm
1971 của Nha Cảnh sát Quốc gia Sài Gòn gửi Thủ tướng chính
phủ kiêm Bộ trưởng Nội vụ Sài Gòn. Tài liệu lưu trữ tại TTLTII,
ký hiệu tài liệu PTTG - 30850;.
32. Phiếu trình số 030816 ngày 28-9-1970 của Nha Tổng Giám đốc
Cảnh sát quốc gia gửi Thủ tướng chánh phủ Việt Nam Cộng
hòa về việc Hoạt động cộng sản của bà Ngô Bá Thành nhũ
danh Phạm Thị Thanh Vân, Chủ tịch Ủy ban đòi quyền sống
phụ nữ, Tài liệu lưu trữ tại TTLTII, Ký hiệu tài liệu PTTG - 1825;.
937
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):928-938
Research Article
Open Access Full Text Article
The support of urban movement in Sai Gon - Gia Dinh to the
Provisional Revolution Government’s viewpoint at the Paris
Negotiation (1970-1971)
Phan Thi Ly*
ABSTRACT
The urban movement, a type of political struggles of people in Southern Vietnam, played an impor-
tant role in the anti-American resistance of Vietnam. The present article presented aspects in the
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
support of the urban movement in Sai Gon - Gia Dinh to the Provisional Revolution Goverment's
viewpoint at the Paris Negotiation (1970-1971) by using the printed materials of the Republic of
Vietnam collected from Vietnam National Archives II and the reliable published-materials. In fact,
after being established, the Provisional Revolution Government replaced the role of the National
Liberation Front at the Paris Negotiation and showed the viewpoint via the Eight-Point Solution, the
Three-Point Statement, and the Seven-Point Programme for two years between 1970 and 1971.
At the same time, the urban movement in Sai Gon - Gia Dinh had a strong development, and
took place with various types, including student movements, intellectual movements, and worker
movements. The development of the urban movement supported the Provisional Revolution Gov-
ernment viewpoint of peace, increasing the strength of the diplomatic struggle and driving the US
and Sai Gon Government into the strongly isolated situation. This paper also shows the influence
of the Provisional Revolution Government on the urban movement in Sai Gon - Gia Dinh.
Key words: Paris Negotiation, Provisional Revolution Government, Sai Gon - Gia Dinh, urban
movement
u Dau Mot University, Vietnam
Correspondence
Phan Thi Ly, Thu Dau Mot University,
Vietnam
Email: lypt@tdmu.edu.vn
History
• Received: 25/8/2020
• Accepted: 15/3/2021
• Published: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.647
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article : Ly P T. The support of urban movement in Sai Gon - Gia Dinh to the Provisional
Revolution Government’s viewpoint at the Paris Negotiation (1970-1971). Sci. Tech. Dev. J. - Soc.
Sci. Hum.; 5(1):928-938.
938
Bạn đang xem tài liệu "Phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định ủng hộ lập trường của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị Paris (1970-1971)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phong_trao_do_thi_sai_gon_gia_dinh_ung_ho_lap_truong_cua_chi.pdf