Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG  
CỦA DÂN TỘC CƠ TU TẠI XA TA-BHING, HUYỆN NAM GIANG,  
TỈNH QUẢNG NAM  
TRƯƠNG SỸ TÂM*  
LÊ HỒNG THANH*  
Tóm tắt  
Khoảng hơn chục năm trở lại đây, du lịch dựa vào cộng đồng bắt đầu xuất hiện và dần phát triển ở  
Việt Nam, gắn với việc khai thác và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng. Được triển khai từ  
năm 2012, mô hình du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh  
Quảng Nam được định hướng phát triển theo hướng bền vững, chú trọng đến việc bảo vệ môi trường,  
phục hồi và phát huy giá trị văn hóa truyền thống người Cơ Tu. Trên cơ sở các kết quả điền dã dân tộc học,  
bài viết phân tích thực trạng hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing; áp  
dụng khung phân tích SWOT chỉ ra cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu cũng như một số vấn đề đặt  
ra đối với du lịch cộng đồng nơi đây.  
Từ khóa: Du lịch dựa vào cộng đồng, Cơ Tu, Ta-Bhing, phát triển bền vững  
Abstract  
Over the past ten years, community-based tourism has begun to appear and gradually developed  
in Vietnam, associated with the exploitation and promotion of the unique cultural identity of the  
community. Launched in 2012, the community-based tourism model of the Co Tu ethnic group in Ta-  
Bhing commune, Nam Giang district, Quang Nam province is oriented towards sustainable development,  
with a focus on environmental protection, restoration and promotion of the traditional cultural values of  
the Co Tu people. Based on the ethnographic fieldwork results, the article both analyzes the real situation  
of community-based tourism activities of the Co Tu ethnic group in Ta-Bhing commune and researches  
the application of the SWOT model to point out opportunities, challenges, strengths and weaknesses as  
well as some issues posed for community-based tourism here.  
Keywords: Community-based tourism, Co Tu, Ta-Bhing, sustainable development  
Đặt vấn đề  
à một trong những loại hình du lịch  
ngoài việc nhấn mạnh vào hiệu quả kinh tế,  
còn hướng tới mục tiêu bảo tồn văn hóa, bảo  
vệ môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch.  
Bên cạnh đó, DLDVCĐ nhấn mạnh đến vai trò  
của cộng đồng bản địa trong hoạt động phát  
triển du lịch, từ đó giúp nâng cao vị thế của các  
nhóm dân tộc thiểu số. Với những đặc thù này,  
DLDVCĐ rất phù hợp với xu hướng phát triển  
bền vững nói chung và phát triển du lịch bền  
vững nói riêng ở Việt Nam.  
khá phổ biến trên thế giới, du lịch dựa  
L
vào cộng đồng (Community-based  
tourism) mới du nhập vào Việt Nam trong  
hơn một thập kỷ qua. Đây là mô hình du lịch  
gắn bó chặt chẽ với văn hóa bản địa, ít chịu  
sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đang  
diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay. Điểm khác  
biệt của mô hình du lịch dựa vào cộng đồng  
(DLDVCĐ) so với các loại hình du lịch khác là  
Được triển khai từ năm 2012, mô hình  
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing,  
huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam được định  
hướng phát triển theo hướng bền vững, mang  
* ThS., Viện Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội  
86 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
lại nhiều hiệu quả về kinh tế, văn hóa, xã hội  
cho người dân nơi đây, trở thành một mô hình  
DLDVCĐ tiêu biểu. Có được những thành công  
này là nhờ sự hỗ trợ rất lớn từ các tổ chức phi  
chính phủ, các tổ chức hợp tác quốc tế và các  
cấp chính quyền địa phương. Điều này đặt ra  
vấn đề là: Sau khi các tổ chức phi chính phủ rút  
khỏi điểm du lịch và chính quyền địa phương  
cắt giảm sự hỗ trợ, những ưu thế của DLDVCĐ  
trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo  
tồn nền văn hóa truyền thống của người Cơ  
Tu,… có được đảm bảo trong thời gian tới hay  
không? Đồng bào có tự đứng vững được để  
tiếp tục làm du lịch không? Từ kết quả nghiên  
cứu thực địa1 để phân tích thực trạng hoạt  
động DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing,  
bài viết hy vọng phần nào mang lại cái nhìn  
khách quan và câu trả lời thỏa đáng.  
đủ năng lực để tự quản lý sản xuất, xúc tiến  
bán hàng cũng như điều hành hoạt động của  
nhóm. Cũng từ đó, người Cơ Tu nơi đây đã bắt  
đầu nhận ra giá trị của“văn hóa Cơ Tu”như một  
“báu vậtcần gìn giữ và phát huy.  
Từ thành công của dự án khôi phục nghề  
dệt thổ cẩm, cùng với chính sách phát triển  
kinh tế địa phương thông qua du lịch, người  
dân và chính quyền huyện Nam Giang đã tiếp  
tục đề nghị FIDR hỗ trợ triển khai dự án Du lịch  
dựa vào cộng đồng Cơ Tu từ năm 2012. Dự án  
hướng đến mục tiêu phát huy tinh thần chủ  
động của cộng đồng trong việc phát triển kinh  
tế - du lịch, bảo vệ môi trường, văn hóa và thay  
đổi chất lượng cuộc sống. Qua hình thức du  
lịch này, những người làm dự án mong muốn  
du khách có thể thưởng thức và trân trọng các  
giá trị văn hóa truyền thống của người Cơ Tu  
cũng như giao lưu học hỏi với người dân địa  
phương, nhằm đóng góp vào sự phát triển  
bền vững của cộng đồng người Cơ Tu.  
1. Khái quát về dự án du lịch dựa vào cộng  
đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing  
Dự án Du lịch dựa vào cộng đồng Cơ Tu do  
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ  
trợ ngân sách và Tổ chức Cứu trợ và phát triển  
quốc tế (FIDR)2 phối hợp với UBND huyện Nam  
Giang tổ chức triển khai tại xã Ta-Bhing. Đây  
là một xã vùng thấp thuộc huyện Nam Giang  
có diện tích 2.28,18 km² gồm 7 thôn, dân số  
2.218 người gồm các dân tộc Kinh, Cơ Tu, Giẻ  
Triêng, Ve, trong đó, người Cơ Tu là đông nhất3.  
Nơi đây có thế mạnh về văn hóa tộc người đặc  
sắc, bên cạnh đó, lại thuộc khu vực rừng núi  
Trường Sơn - Tây Nguyên với cảnh quan hùng  
vĩ và sản vật rừng phong phú.  
Để phát hiện, bảo tồn và phát huy các giá  
trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Cơ  
Tu trên địa bàn Quảng Nam, phục vụ cho phát  
triển du lịch, các nhà sáng lập dự án đã sử dụng  
phương pháp rất độc đáo là “Săn tìm kho báu.  
Theo chúng tôi, tên phương pháp này được gợi  
mở từ một tập tục xa xưa nhưng khá nổi tiếng  
của tộc người Cơ Tu ở Quảng Nam là tục “Săn  
máu”4. Đây là một tập tục đã từng gây nên nỗi  
ám ảnh về những trận chiến đẫm máu trong  
quá khứ.Với phương pháp này, người CơTu phải  
tự trả lời câu hỏi “Kho báu của họ là cái gì?”; khi  
đó, thay vìsăn máu, họ ssăn tìmnhững báu  
vật trong kho tàng văn hóa truyền thống của  
dân tộc mình. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên  
cứu, trao đổi, đồng bào Cơ Tu đã tìm ra được  
những“báu vật”của mình, đó chính là: nghề dệt  
thổ cẩm truyền thống, điệu múa truyền thống  
Tung TungYaYá, nhà cộng đồng - Gươl, ẩm thực  
truyền thống… Với những “báu vật” tìm được,  
tổ chức FIDR hướng dẫn người dân cách biến  
chúng thành những sản phẩm du lịch.  
Khởi nguồn cho sự ra đời của dự án DLDVCĐ  
là việc tổ chức FIDR hỗ trợ đồng bào dân tộc  
Cơ Tu khôi phục nghề dệt thổ cẩm (dệt cườm)  
truyền thống vốn đã bị mai một, vì sản phẩm  
không có đầu ra. Dự án khôi phục nghề dệt  
thổ cẩm được triển khai trong thời gian 2008 -  
2012. Cho đến năm 2011, Hợp tác xã (HTX) thổ  
cẩm đầu tiên của bà con dân tộc Cơ Tu được  
thành lập. Đây cũng là HTX dân tộc thiểu số  
đầu tiên của tỉnh Quảng Nam và được chứng  
nhận “Làng nghề truyền thống. Sản phẩm dệt  
cườm Cơ Tu bắt đầu tạo được chỗ đứng trên  
thị trường, được bày bán ở nhiều điểm du lịch  
như Đà Nẵng, Hội An, Thành phố Hồ Chí Minh  
và được nhiều du khách ưa thích. Qua quá  
trình triển khai dự án này, người Cơ Tu đã có  
Với phương châm “vừa học vừa làm, ngay  
từ những ngày đầu khi dự án còn sơ khai, các  
chuyên gia đã cùng với người dân tổ chức đón  
đoàn để bà con hiểu được thế nào là một đoàn  
khách du lịch, biết được các nhu cầu khi đi du  
lịch của khách, từ đó tự rút kinh nghiệm, tự cải  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
87  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
thiện. DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu bắt đầu từ  
con s0và dần phát triển. Trên cơ sở đó, HTX  
du lịch Ta-Bhing được thành lập, hoạt động du  
lịch dần đi vào khuôn khổ và bước đầu bộc lộ  
tính chuyên nghiệp.  
mua những vật dụng, hàng hóa mà phải mua  
ở các điểm bán hàng được quy định...  
Một điều đặc biệt là tất cả các thôn trong  
xã đều tham gia vào dự án, việc điều phối các  
tour cũng như chia thu nhập sẽ được thực hiện  
công bằng cho các thôn. HTX du lịch Ta-Bhing  
là đầu mối duy nhất nhận tour, nhận khách và  
lần lượt phân bổ về các thôn. Tiền thu được từ  
các tour sẽ được HTX phân phối đều cho các  
thôn, tránh sự mâu thuẫn, cạnh tranh giữa các  
thôn. Đến nay, cộng đồng CơTu đã tự vận hành  
được dự án; việc kết nối với các doanh nghiệp  
lữ hành vẫn tiếp tục được duy trì, hoạt động  
đón khách diễn ra thường xuyên, đều đặn.  
Với sự hỗ trợ của các chuyên gia về du  
lịch của Nhật Bản, những người làm dự án đã  
nghiên cứu rất kỹ về tiềm năng du lịch của địa  
phương, về văn hóa truyền thống của người  
Cơ Tu, về sức tải của cộng đồng, về cách thức  
kinh doanh,… và đưa ra một bộ quy định về  
làm du lịch, gồm các nội dung sau:  
Thứ nhất, không đón khách lẻ, chỉ đón đoàn  
từ 6 người trở lên5. Quy định này xuất phát từ  
suy nghĩ của bà con rằng khách đi theo đoàn  
sẽ dễ quản lý vì họ có trưởng đoàn, còn khách  
lẻ thì bà con khó quản lý. Hơn nữa nếu đón  
khách lẻ thì “vô hình trung là họ đã làm mất đi  
cái tính chia sẻ trong cách làm du lịch cộng đồng  
trên địa bàn, họ làm là làm theo nhóm nên khi  
tiếp khách du lịch là họ cũng tiếp đón theo đoàn  
hoặc nhóm chứ không tiếp theo cá nhân” (PVS,  
O., nữ, 34 tuổi, cán bộ dự án của FIDR).  
2. Thực trạng hoạt động du lịch dựa vào  
cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing  
2.1. Sản phẩm du lịch  
Dựa trên những “báu vật” trong kho tàng  
văn hóa Cơ Tu như đã nói ở trên, FIDR cùng  
bà con đã biến thành các sản phẩm du lịch  
hấp dẫn. Có thể kể ra một số sản phẩm du lịch  
mang tính đặc thù của người Cơ Tu như:  
Xem và tham gia điệu múa truyền thống:  
Người Cơ Tu có nhiều điệu múa truyền thống  
như Tung Tung Ya Yá, Đinh Tút, múa sạp,…  
trong đó, điệu Tung Tung Ya Yá có ý nghĩa  
nhận diện bản sắc dân tộc rất sâu sắc. Đây là  
điệu múa dành cho cả nam và nữ. Tung Tung  
là điệu múa nam, có ý nghĩa vươn lên cao,  
mạnh mẽ hơn và vững chãi hơn; Ya Yá là điệu  
múa nữ, động tác uyển chuyển, toát lên sự đằm  
thắm, chung thủy và không bị khuất phục. Đến  
với thôn Pà Xua, sau khi được thưởng thức điệu  
múa Tung Tung Ya Yá do nhóm âm nhạc truyền  
thống CơTu thực hiện, du khách sẽ được trưởng  
nhóm giới thiệu về ý nghĩa các động tác trong  
điệu múa, được mời cùng tham gia múa dưới sự  
hướng dẫn của các thành viên nhóm.  
Thứ hai, mỗi tháng, HTX chỉ đón 3 - 4 đoàn  
du khách chứ không đón khách ồ ạt. Điều này  
vừa nhằm đảm bảo chất lượng tour, vừa để  
đồng bào vẫn giữ được tập tục đi làm nương  
dài ngày và sinh hoạt bình thường - những điều  
vốn góp phần làm nên bản sắc của người Cơ Tu.  
Thứ ba, khách du lịch phải đặt tour trước 1  
tuần để bà con sắp xếp đón tiếp.  
Thứ tư, tour chỉ diễn ra trong ngày, tức là  
khách không nghỉ qua đêm ở trong làng. Trước  
mắt, việc phát triển tour trong ngày, không lưu  
trú sẽ giảm bớt chi phí xây dựng nơi nghỉ cho  
du khách và không làm xáo trộn mô hình thôn  
làng của đồng bào Cơ Tu. Một chuyên gia người  
Nhật của FIDR giải thích: “Nếu có homestay thì bà  
con phải đầu tư, ít nhất phải có nhà vệ sinh đàng  
hoàng, có phòng, có giường tử tế để phục vụ, v.v.  
Nếu làm như vậy thì bà con phải vay mượn mới  
có thể làm được. Nhưng với hình thức như đã  
làm thì bà con không có gì vẫn có thể làm được  
du lịch” (PVS, M., nữ, 36 tuổi).  
Tìm hiểu nghề dệt thổ cẩm: Dệt cườm là  
một kỹ thuật độc đáo của người Cơ Tu. Cườm  
được thiết kế theo kiểu hình học và một số  
môtip tượng trưng cho tự nhiên như lá, ngôi  
sao… Đến với HTX dệt thổ cẩm thôn Zơ Ra, du  
khách sẽ được giới thiệu về lịch sử nghề dệt  
thổ cẩm của người Cơ Tu, 12 công đoạn dệt  
một mảnh vải, đặc trưng hoa văn… Du khách  
được trực tiếp làm thử 1 công đoạn bất kỳ, mặc  
thử trang phục truyền thống Cơ Tu và chụp  
ảnh lưu niệm.  
Ngoài ra, du khách cần chú ý thực hiện  
nghiêm những quy định sau: Không tự ý đi lại  
trong thôn, không vào nhà dân, không chụp  
ảnh nếu chưa được phép của người dân; Không  
cho trẻ em tiền; Không vào nhà người dân hỏi  
88 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
Thưởng thức ẩm thực truyền thống: Bữa  
ăn hàng ngày của người Cơ Tu khá đơn giản,  
thường gồm cơm hoặc sắn với rau trồng trên  
rẫy và cá, ốc bắt được từ các con suối. Vào dịp  
lễ, tết hoặc thết đãi khách quý, bà con mới nấu  
những món ăn cầu kỳ. Những món ăn làm nên  
nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của người  
Cơ Tu gồm có: Càroi Acon Ghi Zớ (chả nhộng  
ong), Slua (cháo sắn), bánh Gất tát (bánh ngô),  
Hóo cor (cơm lam), bánh Cuốt hay A cút (bánh  
sừng trâu), các loại thịt nướng, cá nướng, đặc  
biệt nhất là món Zờ Rá - một loại thức ăn hỗn  
hộp, nấu nhuyễn từ lá rừng, tiêu, thịt thú rừng  
hoặc cá suối. Về đồ uống, người Cơ Tu có một  
số món rượu ngon, được ủ từ các loại cây, lá  
rừng như Tr’đin, Tà Vạt và Aviết. Khi tiếp khách  
du lịch, trưởng nhóm ẩm thực và các hướng  
dẫn viên ngồi cùng mâm với du khách, giới  
thiệu về nguồn gốc nguyên liệu, cách chế  
biến, ý nghĩa của các món ăn, thức uống…  
Quy mô tổ chức chương trình này còn tùy vào  
lượng khách, đoàn khách càng đông thì càng  
thuận lợi cho đồng bào tổ chức.  
2.2. Lượng khách và doanh thu du lịch  
Không phải đến năm 2012 khi dự án  
DLDVCĐ được triển khai, du khách mới biết  
đến đồng bào Cơ Tu ở Ta-Bhing, mà trước đó,  
du khách đã có nhiều ấn tượng về cộng đồng  
này khi nghề dệt thổ cẩm truyền thống của  
người Cơ Tu trở nên nổi tiếng. Chính vì thế,  
ngay sau khi dự án được triển khai đã thu hút  
một lượng khách du lịch nhất định, mang lại  
doanh thu cho cộng đồng.  
Ngay trong năm đầu tiên dự án được triển  
khai thử nghiệm (từ tháng 5/2012 đến tháng  
6/2013), đã có 20 đoàn với 260 du khách, chủ  
yếu là khách châu Âu và Nhật Bản đến tham  
quan, mang về doanh thu hơn 93 triệu đồng,  
trong đó thu nhập của các nhóm cộng đồng  
hơn 51 triệu đồng, số tiền còn lại được giữ để  
đầu tư mua sắm phục vụ hoạt động sau này [4].  
Ngoài ra, còn rất nhiều sản phẩm du lịch  
hấp dẫn khác như: Nhà Gươl, các nhạc cụ  
truyền thống, các bài hát, bài thơ, truyện kể  
dân gian, kiến trúc nhà cửa, đồ mây đan, sản  
vật núi rừng làm quà lưu niệm…  
“Từ năm 2012 đến nay, trung bình mỗi năm  
có 700 - 800 khách du lịch đến với xã Ta-Bhing,  
Nam Giang; cá biệt, năm 2017 có khoảng 1.000  
du khách, trong khoảng 50 đoàn, chủ yếu là  
khách quốc tế như Nhật Bản, Pháp. Doanh  
thu riêng mảng phí tour năm 2017 của Hợp  
tác xã Ta-Bhing đạt 560 triệu đồng. Riêng việc  
bán các mặt hàng đặc sản địa phương cho du  
khách năm 2017 đạt hơn 540 triệu đồng” [5].  
Theo thông tin từ ông Bríu Thương - Chủ tịch  
Hội đồng quản trị HTX du lịch Ta-Bhing, trong  
6 tháng đầu năm 2018, HTX đón hơn 300 lượt  
khách đến tham quan, doanh thu khoảng 300  
Một chuyến tham quan, trải nghiệm  
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu thường diễn ra  
trong vòng một ngày, thời gian khoảng 5 - 6  
giờ. Một số tour mẫu đã được xây dựng để áp  
dụng tại đây (Bảng 1).  
Hiện tại có hai loại tour, một loại tour lễ hội  
festival thường gồm từ 6 khách trở lên và đi  
vào 3 hoặc 4 thôn, có tham gia vào các lễ hội;  
một loại tour gồm từ 2 đến 5 người là tour tìm  
hiểu khám phá đời sống dân tộc  
Bảng 1. Tour du lịch mẫu được xây dựng tại Ta-Bhing  
người Cơ Tu, thì chỉ đi 1 thôn  
hoặc 2 thôn.  
Thời gian  
Lịch trình  
Giá vé một tour trải nghiệm  
là 1.200.000 đồng/người. Giá này  
chưa bao gồm chi phí di chuyển  
từ các nơi khác đến. Vẫn với mức  
giá này, nhưng nếu là đoàn dưới  
6 người thì sẽ không có phần  
tái hiện lễ hội cộng đồng. Đoàn  
phải từ 6 người trở lên đồng bào  
mới tổ chức được hoạt động  
cồng chiêng đón tiếp, mô phỏng  
một số sinh hoạt thuộc phần hội,  
múa hát, trò diễn trong lễ hội.  
08:00 - 10:00 - Khởi hành từ Đà Nẵng/Hội An đến Nam Giang  
10:00 - 15:00 - Tham quan và giao lưu với bà con Cơ Tu tại nhà Gươl  
- Thưởng thức điệu múa truyền thống Cơ Tu  
- Thưởng thức âm nhạc, tham gia chơi nhạc cụ truyền  
thống Cơ Tu  
- Thưởng thức bữa ăn đón khách truyền thống của người  
Cơ Tu  
- Tản bộ sinh thái: Thăm thác, đi bộ trong rừng, thăm nhà  
ở của đồng bào…  
- Học hỏi cách thức dệt cườm thủ công truyền thống  
- Mua sắm các đặc sản địa phương (sản phẩm từ dệt, đan  
lát, rượu, sản vật rừng…)  
16:00 - 18:00 - Trở về Đà Nẵng/Hội An  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
89  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
triệu đồng. Doanh thu từ phí tour của HTX  
là 600 triệu đồng/năm và từ bán sản phẩm  
khoảng 950 triệu đồng. HTX đang vận hành  
rất tốt và bà con rất phấn khởi với nguồn thu  
nhập thêm không nhỏ từ du lịch [3].  
ở đây, khi tính giá tour, ngoài những sản phẩm  
du lịch bà con trực tiếp phục vụ khách, còn phải  
tính đến chi phí quản lý, chi phí tái đầu tư nữa, ví  
dụ như tập huấn cho nhóm, khôi phục các sản  
phẩm văn hóa truyền thống… nên phí tour sẽ  
cao hơn. Chính vì có nguồn kinh phí vận hành  
riêng, nên bà con nơi đây có thể tự hoạt động  
trong 1 hoặc 2 năm mà sẽ không gặp khó khăn  
gì” (PVS, O., nữ, 36 tuổi).  
Lượng du khách đến Ta-Bhing có sự tăng  
trưởng khá mạnh mẽ, từ chỗ chỉ có vài trăm  
người trong năm đầu tiên đến cả nghìn người  
mỗi năm sau này. Điều đó cho thấy hiệu quả  
của dự án cũng như sự hấp dẫn từ nhữngkho  
báu” của đồng bào Cơ Tu. Thực ra, nếu so sánh  
với các loại hình du lịch và các điểm du lịch  
khác, lượng du khách này không phải là một  
con số quá lớn, nhưng đó chính là kết quả nằm  
trong tính toán của những người làm dự án và  
chính những người dân về “sức tải” của cộng  
đồng để hạn chế tối đa tác động tiêu cực của  
du lịch đến đời sống của đồng bào nơi đây.  
2.3. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch  
Đến Ta-Bhing, điều khiến du khách bất ngờ  
là nếu nhìn vẻ bề ngoài thì ở đây không có gì  
giống một điểm du lịch bởi sự vắng bóng của  
hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, cửa hàng…  
Đối với một số du khách, sự sơ sài về cơ sở hạ  
tầng (nhất là hệ thống nhà vệ sinh công cộng)  
gây ra không ít khó khăn; có những du khách  
muốn ngủ lại qua đêm để tìm hiểu sâu hơn  
về cuộc sống của người dân nhưng không có  
dịch vụ lưu trú qua đêm.  
Khách du lịch chủ yếu đến từ các nước châu  
Âu và Nhật Bản. Theo thông tin từ một chuyên  
gia quản lý dự án người Nhật của FIDR, trong  
số những tour đã đến Ta-Bhing, có khoảng  
70% là du khách nước ngoài, 30% là du khách  
trong nước (PVS, M., nữ, 36 tuổi). Không khó  
để lý giải về sự áp đảo của lượng khách nước  
ngoài, bởi điều thu hút đối với họ chính là được  
tìm tòi, trải nghiệm những nét văn hóa rất mới  
lạ ở các tộc người. Hơn nữa, dự án này được sự  
hỗ trợ từ những chuyên gia người Nhật, nên  
họ chính là những đại sứ quảng bá cho du lịch  
cộng đồng nơi đây, bằng chứng là có tới 70 -  
80% tổng số du khách nước ngoài đến từ Nhật  
Bản. Trong khi đó, đối với khách nội địa, chi phí  
cho một lần trải nghiệm tại đây khá cao, do đó,  
chỉ phù hợp với đối tượng khách ưa mạo hiểm,  
khám phá và có khả năng chi trả cao.  
Tại các thôn như thôn Zơ Ra, có một số điểm  
bán hàng lưu niệm, không phải tự phát mà do  
HTX du lịch Ta-Bhing lập nên và quản lý. Trong  
thôn Zơ Ra có một nhà sàn là nơi các bà các chị  
tập trung làm sản phẩm thổ cẩm. Bên cạnh đó  
là nhà trưng bày, giới thiệu và bán các sản phẩm  
dệt thổ cẩm. Khách du lịch đến Ta-Bhing không  
tiêu tiền trực tiếp tại mỗi nhà dân, mà thông  
qua các “phiếu mua hàng” để đổi lấy hàng hóa  
tại các điểm bán hàng tập trung.  
Để đặt được một tour DLDVCĐ ở Ta-Bhing,  
du khách phải đăng ký trước một tuần và chỉ  
liên hệ qua email, chứ không có số điện thoại.  
Đối với người lần đầu đặt tour, việc liên hệ khá  
khó khăn và du khách thường phải mất thời  
gian chờ đợi. Bên cạnh đó, với quy định chỉ  
đón khách theo đoàn, không đón khách lẻ,  
dẫn đến thiệt thòi cho những du khách muốn  
trải nghiệm, nghiên cứu một mình với tư cách  
nhập thân văn hóa. Ngoài ra, việc không cho  
khách ngủ qua đêm tại làng khiến cho nhu cầu  
tìm hiểu sâu về cộng đồng Cơ Tu trở nên khó  
khăn. Nói về điều này, chuyên gia dự án người  
Nhật của FIDR cho biết: “Khi đặt tour, du khách  
nên thông qua các công ty du lịch, còn đặt tour  
trực tiếp tại cộng đồng thì bà con lại không có  
phương tiện để đưa đón, chính vì vậy sẽ gặp khó  
khăn khi di chuyển. Các công ty sẽ chủ động bán  
tour và sắp xếp đoàn cho mình trên trang web  
Trước những băn khoăn về phí tour (tức  
giá vé để được tham quan, trải nghiệm du lịch  
cộng đồng tại Ta-Bhing), chuyên gia dự án  
người Nhật của FIDR lý giải: “Về giá cả, đoàn  
càng đông thì chi phí càng rẻ. Chuyên gia cho  
biết thêm: “Vì bà con ở miền núi, ở những địa  
điểm xa đồng bằng nên phương tiện đi lại khó  
khăn, chi phí cho mua thực phẩm cũng như các  
nhu yếu phẩm khác cao hơn so với ở thành phố.  
Thêm nữa, ở những điểm du lịch khác thì doanh  
thu bà con nhận được khi có đoàn du lịch tới rất  
ít, chủ yếu thuộc về các công ty du lịch nên chi  
phí mà khách du lịch phải bo ra sẽ rẻ hơn. Còn  
90 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
của họ. Nếu lên trang web của cộng đồng thì  
thường liên lạc qua email để bà con có thời gian  
sắp xếp, trả lời và khách phải chủ động việc đi lại  
từ nơi khác đến Ta-Bhing” (PVS, M., nữ, 36 tuổi).  
Tuy nhiên, khi được phỏng vấn, bỏ qua một số  
sự bất tiện nói trên, hầu hết du khách đều cảm  
thấy hài lòng về sự đón tiếp cũng như tình cảm  
chân thành của đồng bào và đều có nhiều ấn  
tượng tốt đẹp về văn hóa và con người Cơ Tu.  
giao tiếp, các khóa đào tạo dịch vụ ẩm thực,  
về hướng dẫn viên du lịch tại địa phương,  
những câu chuyện dân gian, các loại hình âm  
nhạc, nghệ thuật truyền thống,... đã được khơi  
dậy và được tổ chức một cách hợp lý, để cung  
cấp kỹ năng cho đồng bào nhằm phục vụ du  
khách một cách tốt nhất.  
Điều đáng chú ý là, người dân ở Ta-Bhing  
vẫn duy trì các công việc và đời sống sinh hoạt  
như bình thường, chỉ khi có tour thì mọi người  
mới tham gia làm du lịch. Một người dân địa  
phương đã tham gia khoảng 3 năm với tư cách  
là thuyết minh viên, cho biết, chị rất vui khi có  
cơ hội làm du lịch như thế này, bởi chị vẫn đảm  
bảo được các công việc bình thường của một  
người phụ nữ Cơ Tu như chăm sóc con cái, làm  
nương rẫy,… mà lại có thêm thu nhập từ làm  
du lịch. Chị có cơ hội hiểu hơn về những giá  
trị đặc sắc truyền thống của chính cộng đồng,  
địa phương nơi mình sinh sống. Từ đó chị sẽ  
truyền tải đến du khách những giá trị này bằng  
tình yêu và sự tôn trọng đối với dân tộc mình  
(PVS, C., nữ, 29 tuổi).  
2.4. Sự tham gia của cộng đồng  
Đối với DLDVCĐ, cộng đồng đóng vai trò  
quan trọng trong việc tạo môi trường du lịch  
hấp dẫn. Cộng đồng bản địa không chỉ là chủ  
nhân văn hóa mà còn có thể là một hướng dẫn  
viên giới thiệu, quảng bá hiệu quả về văn hóa,  
lịch sử của địa phương với du khách. Bởi, bản  
thân họ nắm giữ những tri thức rất quý báu  
về tự nhiên, về văn hóa nơi họ đã sinh ra, lớn  
lên và đang sống. Khi người dân bản địa được  
hưởng lợi ích trực tiếp từ các di sản do thiên  
nhiên ban tặng và tổ tiên để lại, thì họ không  
chỉ coi đó là di sản mà còn là tài sản của cộng  
đồng. Điều đó sẽ thúc đẩy họ tích cực tham gia  
đóng góp vào các dự án phát triển du lịch bền  
vững tại địa phương.  
Khi được hỏi rằng đâu là điều mà bạn cảm  
thấy ấn tượng nhất khi đến thăm Ta-Bhing,  
một du khách chia sẻ: “Có nhiều điều ấn tượng,  
nhưng điều làm cho tôi ấn tượng nhất đó là sự  
thân thiện và lòng hiếu khách của bà con. Thực  
ra ở nhiều nơi khác người ta cũng rất nhiệt tình,  
rất thân thiện nhưng ở đây mình cảm nhận được  
sự gần gũi tự nhiên của bà con, tức là không phải  
người ta đang phải cố to ra thân thiện với mình”  
(PVS, T., nam, 45 tuổi).  
Việc phát huy tối đa tính tích cực, chủ động  
của cộng đồng Cơ Tu trong hoạt động du lịch  
chính là một thành công rất lớn được đánh giá  
cao của Dự án DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở  
Ta-Bhing. Đến nay, mô hình này đã thu hút sự  
tham gia của hơn 2.500 người Cơ Tu với 451  
hộ, tập trung chủ yếu tại xã Ta-Bhing, huyện  
Nam Giang [1].  
2.5. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch  
Xuất phát từ chính sáng kiến của người dân  
về việc họ muốn giới thiệu gì cho khách, dự án  
đã thành lập ở mỗi thôn các nhóm sáng kiến  
cộng đồng theo thế mạnh của từng thôn. Hiện  
nay HTX du lịch Ta-Bhing đã có hơn 20 nhóm  
sáng kiến. Tại mỗi nhóm lại có trưởng nhóm  
và các hướng dẫn viên riêng. Các thành viên  
trong ban điều hành tour có nhiệm vụ điều  
phối các nhóm cùng hợp tác phục vụ khách.  
Sau mỗi chuyến đón đoàn, ban điều hành  
và các nhóm sáng kiến đều tổ chức các cuộc  
họp đánh giá để cải thiện chất lượng phục vụ  
cho lần sau. Bên cạnh đó, chính quyền phối  
hợp với các chuyên gia Nhật Bản tổ chức các  
buổi tập huấn để hướng dẫn người dân các kỹ  
năng làm DLDVCĐ. Các kiến thức về kỹ năng  
Công tác tuyên truyền, quảng bá về  
DLDVCĐ Cơ Tu đã và đang được thực hiện với  
nhiều phương thức khác nhau. Chuyên gia của  
FIDR cho biết: “Về công tác quảng bá du lịch thì  
chúng tôi đa số tận dụng phương tiện internet  
như facebook, website, v.v. Bên cạnh đó, chúng  
tôi đang liên kết với 10 công ty du lịch, lữ hành.  
Nhưng trên thực tế thì chúng tôi không cho một  
công ty nào đứng ra quản lý hay kiểm soát cộng  
đồng. Những công ty đó chỉ liên kết và thông  
qua cộng đồng để đặt tour” (PVS, M., nữ, 36  
tuổi). Theo ông Đinh Hài - Giám đốc Sở Văn  
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam, mô  
hình “DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu” có những  
nét riêng biệt độc đáo, vì vậy cần mở rộng kết  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
91  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
nối với các điểm du lịch khác như thác Grăng  
và đường mòn Hồ Chí Minh. Ông Hài khẳng  
định: “Thời gian tới, Sở sẽ giúp quảng bá mô  
hình này trên website du lịch Quảng Nam cũng  
như trong các hoạt động xúc tiến du lịch trong và  
ngoài nước. Đặc biệt sẽ giới thiệu 3 đơn vị lữ hành  
là Công ty Cổ phần Du lịch dịch vụ Hội An, Công  
ty Cổ phần Du lịch và thương mại Lê Nguyễn và  
Công ty Du lịch mạo hiểm lên khảo sát đưa khách  
đến” [4]. Một cán bộ Phòng Văn hóa và Thông  
tin huyện Nam Giang cho biết: “Phòng đang xúc  
tiến quảng bá bằng hình thức phát tờ rơi, trên các  
trang mạng xã hội internet. Từ năm 2016, Phòng  
bắt đầu có cán bộ phụ trách về mảng công nghệ  
thông tin” (PVS, R., nam, 25 tuổi).  
Áp dụng SWOT, chúng tôi nhận thấy  
DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing có  
những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách  
thức sau:  
* Điểm mạnh:  
- Không phải huy động vốn do được FIDR  
lấy làm điểm hỗ trợ (Gồm nhiều lĩnh vực không  
chỉ du lịch).  
- Nguồn khách quốc tế có khả năng chi tiêu  
cao ổn định đến từ FIDR.  
- Đặc trưng văn hóa truyền thống, cách  
thức tổ chức cộng đồng, kiến trúc, phong tục  
tập quán đặc sắc, rất khác biệt với các nhóm  
dân tộc thiểu số khác.  
- Văn hóa truyền thống được bảo tồn khá  
nguyên vẹn từ trang phục đến kiến trúc nhà ở,  
nhà cộng đồng, các tập tục cổ xưa và biểu diễn  
dân gian - lễ hội.  
Đến với DLDVCĐ CơTu Ta-Bhing, du khách  
sẽ được tặng một số tờ rơi giới thiệu về tour du  
lịch mang tên “Hương sắc Cơ Tu. Trong đó có  
những thông tin sơ lược về dự án, về những  
sản phẩm du lịch tiêu biểu; một số đề nghị đối  
với du khách tham quan, trải nghiệm tour. Về  
thông tin liên hệ với đơn vị điều hành tour, tờ  
rơi cung cấp 2 địa chỉ email (cotucbt@fidr.vn và  
fidrvn@fidr.vn) và 1 số điện thoại cố định.  
- Được FIDR quảng bá miễn phí qua sản  
phẩm dệt, được Nhà nước hỗ trợ quảng bá  
trong các hội làng nghề, sự kiện trong nước.  
- Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên hay  
môi trường tự nhiên nguyên sơ chưa bị ảnh  
hưởng nhiều bởi công nghiệp hóa.  
Việc quảng bá thông tin du lịch trên  
internet là một hình thức quảng bá phổ biến  
hiện nay. Tuy nhiên, khi tìm kiếm trên website  
http://quangnamtourism.com.vn là website chính  
thức của Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch  
Quảng Nam, thì không có thông tin về điểm  
hay tour du lịch nào mang tên “DLDVCĐ của  
dân tộc Cơ Tu ở Ta-Bhing, mà chỉ giới thiệu về  
nghề dệt thổ cẩm Cơ Tu, làng truyền thống  
của người Cơ Tu. Điều đó cho thấy, những  
thông tin du lịch trên trang web của Trung  
tâm Thông tin xúc tiến du lịch Quảng Nam là  
những thông tin cũ và chưa được cập nhật.  
- Có nghề truyền thống.  
- Tập tục, hành vi tín ngưỡng đã từng xảy ra  
như tục săn máu có thể gây tò mò cho khách  
du lịch thuộc nhóm đối tượng là các nhà  
nghiên cứu nhân chủng học, nhân học, tôn  
giáo tín ngưỡng và xã hội học (và những nhóm  
khách cùng mối quan tâm khác).  
* Điểm yếu:  
- Cộng đồng chưa có nhiều kinh nghiệm  
xây dựng sản phẩm du lịch và tiến hành tổ  
chức phục vụ du lịch.  
- Mục tiêu bị phân tán: Ngoài DLDVCĐ, xã  
Ta-Bhing phải phân bổ nguồn lực cho mục tiêu  
phát triển nghề truyền thống.  
3. Nhận xét về du lịch dựa vào cộng đồng  
của dân tộc Cơ Tu ở xã Ta-Bhing và một số  
vấn đề bàn luận  
- Khó thu hút khách du lịch nội địa.  
- Chưa có trang web riêng và các hình thức  
tuyên truyền quảng bá còn nghèo nàn.  
Để nhận diện những thuận lợi, khó khăn,  
cơ hội, thách thức của mô hình DLDVCĐ của  
dân tộc Cơ Tu tại Ta-Bhing, chúng tôi áp dụng  
khung phân tích SWOT6 là một công cụ của  
ngành quản trị hiện đại giúp đánh giá và kiểm  
soát được những yếu tố bên trong - bên ngoài,  
từ đó đưa ra được những chiến lược phù hợp  
cho sự phát triển đúng hướng.  
- Năng lực ngoại ngữ của cộng đồng còn thấp.  
- Một số tập tục, hành vi từng xảy ra trong  
quá khứ ảnh hưởng xấu tới tâm lý khách du  
lịch (Tục săn máu đã được tác giả người Pháp  
viết thành sách, phát hành toàn thế giới, nhiều  
bài báo gần đây cũng đề cập đến tập tục này).  
92 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
- Chưa tổ chức được hoạt động homestay,  
hoạt động điển hình trong sản phẩm DLDVCĐ  
dẫn tới việc cộng đồng vẫn khá khép kín đối  
với khách du lịch.  
sản văn hóa nghiêm ngặt hơn dành cho hoạt  
động du lịch dẫn đến không thể phát triển du  
lịch đại chúng (lấy số lượt khách làm chủ đạo).  
- Kinh tế khủng hoảng, thị trường bị thu  
hẹp lại do khách du lịch thắt chặt chi tiêu.  
- HTX du lịch Ta-Bhing hoạt động chưa thực  
sự hiệu quả.  
- Thị trường du lịch bị giới hạn bởi nguồn  
khách do FIDR liên hệ và giới thiệu về điểm.  
- Ví trị địa lý xa xôi, khó khăn cho di chuyển,  
tiếp cận điểm của khách du lịch.  
- Xuất hiện nhiều điểm DLDVCĐ mới do các  
tỉnh thành học tập mô hình DLDVCĐ từ các  
điểm đã được thực hiện thành công.  
- Chưa tự chủ quy trình khép kín trong  
DLDVCĐ (thị trường, tổ chức bán sản phẩm du  
lịch, thực hiện sản phẩm du lịch).  
- Các công ty du lịch - lữ hành quan tâm  
không nhiều đến điểm.  
* Cơ hội:  
- Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày  
càng đông, trong đó khách du lịch có trách  
nhiệm, du lịch xanh và DLDVCĐ có tỷ lệ ngày  
càng tăng (đến từ các quốc gia phát triển).  
- Mục tiêu phát triển bền vững trên cả ba  
khía cạnh khó được đảm bảo do phụ thuộc  
nhiều vào sự hỗ trợ bên ngoài (FIDR, chính  
quyền địa phương…).  
- Ngành Du lịch Việt Nam quan tâm nhiều  
hơn đến công tác xúc tiến phát triển du lịch  
ra thị trường quốc tế (đầu tư tiền và chất  
xám nhiều hơn vào hoạt động marketing,  
promotion).  
Kết luận  
Để đánh giá tính hiệu quả của một dự  
án DLDVCĐ, các chỉ số kinh tế như thu nhập  
đầu người, lượt khách, doanh thu du lịch  
theo năm,… thường đóng vai trò quyết định.  
Ngược lại, khi đánh giá tính bền vững của dự  
án DLDVCĐ, vấn đề không chỉ tập trung vào  
các chỉ số thống kê trong thời gian dự án được  
triển khai mà còn phải thực hiện đánh giá, dự  
đoán hướng phát triển và dựa vào chỉ số thống  
kê dài hạn sau khi dự án kết thúc. Trong thực  
tiễn, để phát triển một điểm DLDVCĐ theo các  
nguyên tắc bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn  
của các bên liên quan bao gồm chính quyền địa  
phương - cộng đồng - tổ chức tài trợ - hệ thống  
doanh nghiệp du lịch chứ không chỉ dựa vào  
một hoặc hai chủ thể. Trường hợp ở Ta-Bhing,  
chúng tôi cho rằng việc chỉ dựa vào FIDR hoặc  
nỗ lực của chính quyền để phát triển DLDVCĐ  
là chưa đủ. Thêm vào đó, Ta-Bhing là một trong  
những trường hợp nghiên cứu phức tạp, có sự  
đan xen, chồng lấn các dự án phát triển cộng  
đồng, y tế, nông nghiệp, phục hồi nghề truyền  
thống với dự án DLDVCĐ. Hơn nữa, mục tiêu  
của nhà tài trợ FIDR là khá tham vọng khi tập  
trung vào việc phát triển toàn diện (chứ không  
chỉ là du lịch) một cộng đồng thuộc nhóm dân  
tộc ít người. Do đó, để phát triển DLDVCĐ một  
cách toàn diện, phải có các giải pháp đồng bộ  
về cơ chế chính sách, về tổ chức, quy hoạch,  
quản lý và cả về truyền thông, giáo dục, có như  
- Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch  
ngày càng được hoàn thiện. Tránh được chi phí  
“lót tay, bôi trơn khi đăng ký hoặc vận hành  
sản phẩm.  
- Hệ thống giao thông vận tải ở Quảng Nam  
ngày càng phát triển và được hiện đại hóa.  
- Thông tin liên lạc phát triển, trong đó có  
thể kể đến internet, tỷ lệ điện thoại di động  
được sử dụng trong giới trẻ…  
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đang trong giai  
đoạn thoái trào do thời gian phát triển lâu, dịch  
vụ nhàm chán và không duy trì được mục tiêu  
phát triển bền vững (ví dụ: bản Lác, Hòa Bình).  
- Có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ FIDR, giai đoạn 3  
có thêm sự tham gia của tổ chức cấp cao hơn là  
JICA với nguồn vốn và phạm vi hoạt động rộng  
hơn. Đặc biệt JICA đã có nhiều kinh nghiệm  
trong các dự án DLDVCĐ trên khắp nước ta.  
* Thách thức  
- Nhiều điểm DLDVCĐ khác đã rất phát  
triển và hút khách từ các trung tâm du lịch lớn  
như các điểm DLDVCĐ miền núi phía Bắc, các  
tỉnh Tây Nguyên và Hội An.  
- Áp lực phát triển du lịch bền vững dẫn đến  
những quy định bảo vệ môi trường, bảo tồn di  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
93  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
6
SWOT là chữ cái đầu của 4 từ tiếng Anh: S  
vậy, DLDVCĐ của dân tộc Cơ Tu mới có hiệu  
quả dài lâu trong tương lai, đảm bảo tính phát  
triển bền vững đúng như định hướng ban  
đầu của các bên liên quan khi quyết định làm  
DLDVCĐ nơi đây.  
(strength): điểm mạnh; W (weak): điểm yếu; O  
(oppotunity): cơ hội; T (threat): thách thức hay  
nguy cơ. SWOT là sản phẩm từ một nghiên cứu  
của Trường Đại học Standford (Mỹ) được tiến  
hành trên 500 tổ chức, doanh nghiệp toàn nước  
Mỹ. Không chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh  
tế học, phương pháp SWOT còn được áp dụng  
trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác, trong đó  
có du lịch.  
T.S.T; L.H.T  
Chú thích  
1 Các trích dẫn phỏng vấn sâu trong bài viết là  
tư liệu điền dã dân tộc học của nhóm tác giả tại  
xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam,  
tháng 7/2018.  
2 FIDR là một tổ chức phi chính phủ Nhật Bản,  
được Bộ Ngoại giao Việt Nam cấp Giấy Đăng ký  
Văn phòng Dự án tại Đà Nẵng, hoạt động trong  
lĩnh vực hỗ trợ cải thiện dinh dưỡng, cải thiện  
an ninh lương thực và phát triển DLDVCĐ. Tính  
đến nay, FIDR đã và đang triển khai hơn 40 dự  
án trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, cứu trợ,… tại  
một số tỉnh, thành phố ở khu vực miền Trung -  
Tây Nguyên.  
Tài liệu tham khảo  
1. BT (2017), “Mô hình Du lịch dựa vào cộng  
đồng Cơ Tu phát huy hiệu quả, http://www.  
antv.gov.vn/tin-tuc/kinh-te/mo-hinh-du-lich-  
dua-vao-cong-dong-co-tu-phat-huy-hieu-  
qua-217265.html  
2. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch  
bền vững, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.  
3. Gia Khang (2018), “Phát triển du lịch dựa  
vào giá trị văn hóa Cơ Tu, http://baoquangnam.  
vn/du-lich/201807/phat-trien-du-lich-dua-vao-  
gia-tri-van-hoa-co-tu-806512/  
3
Số liệu tính đến 31/12/2012 theo Cổng  
4. Khánh Linh (2013), “Dự án Du lịch dựa  
vào cộng đồng Cơ Tu: Cải thiện sinh kế cho  
người dân, http://baoquangnam.vn/kinh-te/  
thoi-su-kinh-te/201307/du-an-du-lich-dua-vao-  
cong-dong-co-tu-cai-thien-sinh-ke-cho-nguoi-  
dan-323339/  
thông tin điện tử huyện Nam Giang.  
4
“Săn máu, lấy đầu người” từng là một tập  
tục có thật của người Cơ Tu ở Quảng Nam và khu  
vực miền Trung - Tây Nguyên. Tập tục này có từ  
xa xưa nhưng được công chúng biết đến và làm  
rúng động dư luận khi cuốn sách Những kẻ săn  
máu (Les Chasseurs de Sang) của Le Pichon - một  
người lính viễn chinh Pháp - được công bố. Trong  
hồi ký của nhà cách mạng Quách Xuân cũng  
nhắc nhiều đến tập tục này của người Cơ Tu. Cho  
đến nay, trong các công trình nghiên cứu về tộc  
người Cơ Tu, các nhà nghiên cứu Việt Nam đều  
thừa nhận: Săn máu là một tập tục có thật trong  
quá khứ của dân tộc Cơ Tu, là những cuộc chiến  
“săn máu - nợ đầu” kéo dài ngay trong tộc người  
này. Những mùa săn máu của người Cơ Tu trước  
đây chủ yếu liên quan đến quan niệm về thần linh  
của cộng đồng, dùng máu người để cúng Giàng,  
mong cho mùa màng được tốt, trong làng không  
còn ai bị “chết xấu. Những trận chiến như vậy  
thường được đồng bào gọi với cái têngiặc mùa.  
5. P.H (2018), “Người Cơ Tu làm du lịch cộng  
đồng, https://baotintuc.vn/dan-toc-mien-nui/  
nguoi-cotu-lam-du-lich-cong-dong-2018040916  
2014782.htm  
6. Đặng Quang Thành (2000), Phát huy bản  
sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lịch, Nxb.  
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.  
7. Trương Sỹ Tâm (chủ nhiệm) (2018), Du lịch  
dựa vào cộng đồng theo hướng bền vững của đồng  
bào dân tộc Cơ Tu xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang,  
tỉnh Quảng Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp  
Trường, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.  
8. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên) (2012), Du lịch  
dựa vào cộng đồng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.  
5
Về sau, trên thực tế, bà con vẫn tiếp khách  
nhóm nhỏ hơn, từ 2 đến 5 người nhưng chương  
trình tour sẽ rút gọn, du khách không được trải  
nghiệm phần tái hiện lễ hội cộng đồng, cũng  
không đi hết cả 7 thôn, mà chỉ đi tham quan 2 thôn,  
khám phá cuộc sống thường nhật của bà con.  
Ngày nhận bài: 31 - 5 - 2020  
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 6 - 2020  
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020  
94 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
pdf 9 trang yennguyen 16/04/2022 3560
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của dân tộc Cơ Tu tại xã Ta-Bhing, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_phat_trien_du_lich_dua_vao_cong_dong_cua_dan_toc.pdf