Đánh giá mô hình phát triển du lịch nông nghiệp tại huyện Đăk Pơ - Tỉnh Gia Lai

146 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
05(42) (2020) 146-157  
Đánh giá mô hình phát triển du lịch nông nghiệp  
tại huyện Đăk Pơ - tỉnh Gia Lai  
Assessment of agricultural tourism development model for Dak Po district - Gia Lai province  
Nguyễn Hoàng Hiếua, Hà Thị Như Hằngb,c*  
Hoang-Hieu Nguyena, Nhu-Hang Hab,c*  
aHuyện ủy Đak Pơ, Gia Lai, Việt Nam  
aDak Po District Office, Gia Lai, 600000, Vietnam  
bKhoa Sau đại học, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam  
bGraduate School, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam  
cViện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Cao, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam  
cInstitute of Research and Development, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam  
(Ngày nhận bài: 22/9/2020, ngày phản biện xong: 26/9/2020, ngày chấp nhận đăng: 30/9/2020)  
Tóm tắt  
Du lịch nông nghiệp là mô hình phát triển kinh tế đã được áp dụng và được đánh giá mang lại hiệu quả kinh tế tế vượt  
trội ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, những năm gần đây mô hình này đã được nhiều địa phương áp dụng,  
triển khai và bước đầu đã được đánh giá khá phù hợp, giúp xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội  
theo hướng sinh thái, bền vững. Tại Gia Lai, các mô hình nông nghiệp cũng đã bước đầu được một số địa phương xem  
xét triển khai. Nghiên cứu này được thực hiện tại huyện Đak Pơ, trên cơ sở sử dụng các phương pháp thực nghiệm quan  
sát đánh giá, thảo luận trực tiếp với các bên liên quan và kết hợp ý kiến chuyên gia, nghiên cứu đã chỉ ra một số ưu  
thế cũng như nhược điểm của mô hình này trên địa bàn nông thôn huyện Đak Pơ - Gia Lai. Những nghiên cứu bước đầu  
sẽ là cơ sở để đánh giá và hỗ trợ cho vấn đề quản lý cũng như xem xét nhân rộng mô hình tại một số địa bàn nông thôn  
Đak Pơ hiện nay.  
Từ khóa: Du lịch nông nghiệp; Phương pháp phân tích đa tiêu chí hỗ trợ ra quyết định (MCDS); Phát triển nông thôn  
bền vững; Chiến lược SWOT.  
Abstract  
Agritourism is an economic development model that has been applied in many countries around the world due to its  
considerable effectiveness and benefits. In Vietnam, this model has also been deployed by many localities with the  
efforts to support farmers in eliminating hunger, reducing poverty, and promoting socio-economic development. In Gia  
Lai province, one of the areas in highland of Vietnam, agritourism has been initially considered for deployment by a  
number of localities. This empirical study was conducted in Dak Po district with the aims of observation and evaluation  
the possibility of implementation the strategies and models of agritourism. By using the case study methodology, the  
data was collected from direct discussion with stakeholders such as farmers, tourists, and local authorities. The results  
of this study will be the lessons for other areas in Dak Po district to follow in case of deployment agritourism models.  
Keywords: Agritourism, Multiple Criteria Decision Support (MCDS) analysis, Sustainable rural development, SWOT  
strategy.  
* Corresponding author: Nhu-Hang Ha; Graduate School, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam; Institute of  
Research and Development, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam.  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 147  
1. Tổng quan  
nghiệp là điều đáng được quan tâm và chú ý.  
Các chủ trang trại nên tìm ra cách kết hợp văn  
hóa bản địa và nông nghiệp địa phương, đưa  
yếu tố văn hóa vào các sản phẩm nông nghiệp  
được phát triển dựa trên môi trường sinh thái tự  
nhiên (Buong, 2019).  
Du lịch là một trong những giải pháp hữu  
hiệu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế-xã hội và  
giảm đói nghèo, thông qua việc cung cấp việc  
làm, mở rộng cơ cấu doanh nghiệp, và chuyển  
đổi hình thức thu nhập (Santeramo, Barbieri, &  
Development, 2017). Vệc kết hợp nông nghiệp  
và du lịch có tiềm năng rất lớn đối với Việt  
Nam. Du lịch nông nghiệp được xem là một  
trong những giải pháp để phát triển kinh tế bền  
vững mà các chính phủ nên áp dụng. Hình thức  
này liên quan đến việc nông dân cung cấp các  
hoạt động liên quan đến du lịch cho du khách  
nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp và các  
hoạt động có liên quan khác tại khu vực nông  
thôn (Phương N. T. D., 2012). Theo Tổng cục  
Du lịch Việt Nam, du lịch nông nghiệp đã tạo  
điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội của  
nhiều địa phương, tăng tính hấp dẫn hơn đối  
với du khách, đồng thời tạo thu nhập cho nông  
dân địa phương và các doanh nghiệp trong lĩnh  
vực nông nghiệp.  
Trong nghiên cứu này, tác giả tìm hiểu và  
phân tích tầm quan trọng của các nhân tố có  
liên quan đến du lịch nông ngiệp nhằm hiểu  
thêm về các triển vọng phát triển của lĩnh vực  
này. Chúng tôi sẽ trình bày một số kết quả  
thông qua một cuộc khảo sát được thực hiện tại  
7 nông trại tại xã Cư An của huyện Đăk Pơ  
trong năm 2019. Nghiên cứu này dựa trên mô  
hình sáu nhóm nhân tố để phân tích tiềm năng  
phát triển của du lịch nông nghiệp tại xã Cư  
An: (1) nhu cầu thị trường (khách hàng), (2)  
nguồn nhân lực, (3) nguồn nguyên liệu, (4) giao  
thông, (5) các tiện ích có liên quan, và (6)  
nguồn tài chính. Chúng tôi cũng đưa ra các mô  
hình để giúp cho các trang trại tạo ra sự kết nối  
trực tiếp với khách du lịch. Thông qua việc tìm  
hiểu thông tin với các vị lãnh đạo của chính  
quyền địa phương, chúng tôi cũng đã tìm hiểu  
thêm về khả năng tạo ra một mạng lưới kết hợp  
giữa các trang trại khác nhau để cùng xây dựng  
một khu vực du lịch nông nghiệp đa dạng.  
Tuy nhiên, các hoạt động du lịch nông  
nghiệp vẫn mang tính còn tự phát trong các hộ  
nông dân. Họ chưa chú trọng vào việc phát  
triển thương hiệu, thiết kế và đóng gói cho các  
sản phẩm và dịch vụ nhằm làm cho sản phẩm  
của họ hấp dẫn hơn và tạo nét khác biệt với các  
địa phương lân cận, giúp cho việc thu hút và  
tăng chi tiêu của khách du lịch. Phần lớn các hộ  
nông dân thiếu kỹ năng trong việc phục vụ  
khách du lịch, tổ chức các hoạt động quảng bá  
và phối hợp với các đại lý du lịch để quảng bá  
thông tin của họ tới khách (Nguyễn, Suwanno,  
Thongma, & Visuthismajarn, 2018). Do đó,  
Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động để thúc  
đẩy du lịch nông nghiệp. Việc xây dựng chiến  
lược hoàn chỉnh, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cung  
cấp thông tin hướng dẫn cho nông dân và khách  
du lịch tiềm năng, thực hiện các chương trình  
khuyến mãi, hỗ trợ tài chính, khung pháp lý và  
áp dụng tiêu chuẩn có liên quan đến nông  
2. Cơ sở lý luận  
2.1. Du lịch nông nghiệp  
Du lịch nông nghiệp được hiểu như là việc  
chúng ta đến thăm một trang trại hay một cơ sở  
hoạt động trong ngành nông nghiệp nhằm mục  
đích giải trí hay giáo dục và sử dụng các dịch  
v, hoạt động được cung cấp bởi trang trại đó  
(Awan, Saeed, & Zhuang, 2016). Những hoạt  
động này chính là “phần tăng thêm” vào các  
sản phẩm hay dịch vụ của sản phẩm nông  
nghiệp, tạo ra giá trị phi vật chất trên các tài sản  
hiện có của trang trại (như cảnh quan, môi  
trường) (Awan et al., 2016). Đối với các chủ  
trang trại, du lịch nông nghiệp mang lại cho họ  
148 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
nhiều lợi ích kinh tế và xã hội, là một trong  
những cách thức quan trọng để đa dạng hóa  
nguồn thu nhập. Vì thông qua hình thức này,  
các trang trại có thể cung cấp các dịch vụ giải  
trí trong những thời điểm trái mùa để gia tăng  
thu nhập. Các trang trại có thể cùng hợp tác với  
nhau tạo thành mạng lưới hỗ trợ trong việc  
cung cấp các dịch vụ cũng như hỗ trợ nhau  
trong hoạt động quảng cáo, cung cấp thông tin  
đến cho khách du lịch giúp cộng đồng hiểu  
thêm về du lịch nông nghiệp (Boys, DuBreuil  
White, & Groover, 2017).  
khác là giao thông và cơ sở hạ tầng. Đây là một  
nhân tố có thể làm tăng hoặc giảm lượng khách  
du lịch. Giao thông hiện đại sẽ giúp cho du  
khách tiếp cận đến các trang trại một cách dễ  
dàng hơn, do đó cũng thúc đẩy sự phát triển của  
du lịch nông nghiệp (Sorupia, 2005).  
Cuối cùng, các trang trại hay những doanh  
nghiệp tham gia vào chuỗi các hoạt động du  
lịch nông nghiệp còn quan tâm đến vấn đền liên  
quan đến năng lượng, nước và vấn đề xử lý  
nước thải ở một mức giá hợp lý. Ngoài ra, sự  
hiện diện của các hoạt động phụ trợ khác cũng  
là một yếu tố quan trọng khi quyết định địa  
điểm cơ sở kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp  
nào (Sloagett & Woods, 2003).  
2.2. Nhân tố phát triển du lịch nông nghiệp  
Theo Sloagett và Woods (2003), sự thu hút  
của bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào cũng được  
xác định bởi thị trường người tiêu dùng, lao  
động, nguồn nguyên vật liệu, giao thông vận  
tải, các dịch vụ tiện ích, và và nguồn vốn  
(Sloagett & Woods, 2003). Những yếu tố này  
quyết cũng được xem xét trong bối cảnh của  
ngành du lịch nông nghiệp và sẽ là cơ sở để  
phân tích cho tình huống thực tế được chọn làm  
đối tượng nghiên cứu trong bài viết này.  
3. Phương pháp nghiên cứu  
Trong bài báo này, chúng tôi sử dụng  
phương pháp nghiên cứu tình huống (case  
study) dựa trên mô hình 6 nhân tố thành công  
đã đề cập ở phần 2. Nghiên cứu tình huống là  
một cách tiếp cận nhằm khám phá một hiện  
tượng trong bối cảnh của nó bằng nhiều nguồn  
dữ liệu khác nhau (Crowe et al., 2011). Một  
trong những ưu điểm của phương pháp này là  
sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nghiên cứu và  
những đối tượng có liên quan đến vấn đề  
nghiên cứu, đồng thời cho phép người tham gia  
vào nghiên cứu có thể trình bày câu chuyện của  
chính họ (Crabtree & Miller, 1999). Thông qua  
những câu chuyện này, những người tham gia  
có thể mô tả quan điểm của họ về thực trạng  
của vấn đề nghiên cứu và điều này cho phép  
nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên  
cứu cũng như những người tham gia vào nghiên  
cứu (Van Buuren, Eshuis, & Van Vliet, 2014).  
Chúng tôi chọn 7 trang trại trồng na dai ở xã  
Cư An, huyện Đăk Po để phân tích và áp dụng  
phương pháp “tam giác” để thu thập dữ liệu.  
Phương pháp này được sử dụng để kiểm tra và  
thiết lập tính hợp lệ của nghiên cứu bằng cách  
phân tích các câu hỏi nghiên cứu từ nhiều khía  
cạnh khác nhau (Golafshani, 2003). Ngoài ra  
Thị trường người tiêu dùng hay khách hàng  
là một trong những nhân tố quan trọng góp  
phần vào sự thành công của du lịch nông  
nghiệp. Lực lượng lao động cũng là một yếu tố  
quan trọng trong nông nghiệp. Phần lớn lực  
lượng này là các thành viên trong gia đình hay  
người nhà của chủ trang trại hơn là dựa vào lực  
lượng lao động bên ngoài. Du lịch nông nghiệp  
sẽ là chiến lược giúp mang lại thu nhập bổ sung  
cho chủ trang trại mà không cần đầu tư lớn vào  
cơ sở hạ tầng, lao động hoặc thiết bị (Barbieri  
& Tew, 2010).  
So với hai nhân tố là thị trường người tiêu  
dùng và lực lượng lao động, thì yếu tố liên quan  
đến nguyên vật liệu trong một khu vực có xu  
hướng ít có ảnh hưởng hơn đối với các doanh  
nghiệp nhỏ trong việc quyết định chọn địa điểm  
để triển khai hoạt động du lịch nông nghiệp.  
Một yếu tố cũng không kém phần quan trọng  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 149  
phương cho biết, điều kiện khí hậu, thời tiết và  
đất đai ở đây rất thích hợp để trồng cây ăn quả,  
đặc biệt là na dai. Do đó nếu khu vực này có thể  
kết hợp phát triển du lịch dựa trên các trang trại  
trồng trọt hiện có sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát  
triển bền vững của các trang trại thông qua các  
dịch vụ gia tăng trên các sản phẩm nông nghiệp  
thô. Ngoài ra xây dựng thành công mô hình này  
tại xã Cư An là một trong những tiền đề để nhân  
rộng sang các vùng khác trong toàn tỉnh.  
tác giả còn sử dụng phương pháp MCDS (phân  
tích đa tiêu chí hỗ trợ ra quyết định) nằm trong  
phạm vi phân tích của mô hình SWOT (phân  
tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức)  
để đánh giá một cách có hệ thống các yếu tố để  
tìm ra các chiến lược và mô hình phát triển du  
lịch nông nghiệp cho xã Cư An. Việc kết nối  
phương pháp MCDS với phân tích SWOT  
nhằm mục đích phân tích các nhân tố được ưu  
tiên trong 4 nhân tố của mô hình SWOT. Phân  
tích này sẽ cung cấp thông tin nền tảng cho các  
phân tích về các yếu tố liên quan đến nông  
nghiệp nông thôn để hỗ trợ việc đưa ra các  
chiến lược (Kurttila et al ., 2000).  
3.1. Thu thập số liệu nghiên cứu  
Chúng tôi đã thực hiện các cuộc phỏng vấn  
với (1) Chủ sở hữu các trang trại để hiểu về mô  
hình sản xuất nông sản từ đó đưa ra các phương  
thức kết hợp giữa nông nghiệp và du lịch; (2)  
Chính quyền địa phương để làm rõ các chiến  
lược và chính sách phát triển lĩnh vực du lịch  
nông nghiệp; (3) Khách du lịch để nắm được  
nhu cầu của họ về loại hình du lịch này; và (4)  
Các công ty hay đơn vị làm du lịch để xem xét  
khả năng triển khai các hoạt động đưa khách du  
lịch đến khu vực này.  
Đak Pơ dân số 35.258 người và có diện  
tích 500 km². Huyện có một thị xã (Đăk Pơ) và  
bảy xã (Hà Tam, An Thành, Yang Bắc, Cư An,  
Tân An, Phú An, Ya Hội). Sản xuất nông  
nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng trong  
việc phát triển bền vững tại khu vực này.  
Chúng tôi lấy xã Cư An làm trường hợp điển  
hình để nghiên cứu, vì nơi đây cung cấp số  
lượng lớn các sản phẩm nông nghiệp. Trước  
đây, nông dân ở khu vực này chủ yếu trồng các  
loại cây ngắn ngày như mía, sắn, ngô, dưa hấu  
với hiệu quả kinh tế thấp. Hiện tại, họ đã khai  
thác lợi thế của khu núi Đá Lửa tại xã, với hơn  
550 ha đất sản xuất, và có 38 hộ gia đình đầu tư  
trồng cây ăn quả trên diện tích đất này. Hầu hết  
các loại cây ăn quả được trồng trên vùng núi Đá  
Lửa đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc  
sống của nhiều hộ nông dân, và phát triển kinh  
tế xã hội của địa phương. Người dân địa  
Mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng 30-45  
phút. Các câu hỏi phỏng vấn đã được gửi đến  
người được phỏng vấn trước để giúp họ làm  
quen với các nội dung sẽ trao đổi. Mỗi cuộc  
phỏng vấn đã được thu âm lại hoặc ghi chép lại  
và chuyển thể thành văn bản. Chúng tôi cũng  
tiến hành quan sát nông dân để hiểu thêm về  
các hoạt động ở mỗi trang trại. Các câu hỏi  
chính của chúng tôi được sử dụng để hỏi người  
được phỏng vấn được mô tả trong Bảng 1.  
Bảng 1. Thông tin đối tượng tham gia phỏng vấn và tiêu chí phỏng vấn  
Người tham gia  
Tiêu chí  
Ni dung  
phng vn  
Quy mô; Vtrí; Tình hình hoạt động kinh  
doanh; Nhu cu phát trin dch vdu lch;  
Ngun vn  
Thông tin vnông tri  
Chtrang tri  
(7/38 nông tri)  
Thông tin cá nhân; Hc vn; Mức độ sn  
sàng cho vic chuyển hướng sang hot  
đng du lch nông nghip  
Thông tin vchnông  
tri  
150 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
Khách du lịch đã  
đến tnh Gia Lai  
Thông tin vsn phm Giá trị gia tăng của sn phm du lch nông  
và dch vụ liên quan đến  
nghip; Các loi hình du lch nông nghip,  
du lch nông nghip  
mc phí  
(5 người)  
Công ty du lch ti Thông tin vvic tXu hướng du lịch trong tương lai; Hoạt  
địa bàn tnh Gia Lai chc hoạt động du lch  
đng qng bá, htrhoạt động du lch  
(3 đại din)  
nông nghip  
nông nghip  
Đại din khi qun  
lý nhà nước ti tnh  
Gia Lai và huyn  
Đak Pơ (5 đại din)  
Thông tin vvic htrTm quan trng ca hoạt động du lch nông  
phát trin hoạt động du  
nghiệp đối vi vic phát trin kinh tế;  
lch nông nghip  
Ngun vn htrợ  
bảo vệ sự thuần khiết của môi trường sống -  
“xanh, sạch, đẹp”. Lợi thế nông nghiệp của xã  
Cư An là rất lớn, với nhiều sản phẩm hấp dẫn  
như cà phê, tiêu, rau, đặc biệt là trái cây nhiệt  
đới. Hơn nữa, vì nằm ở khu vực cao nên khí  
hậu ở đây khá mát mẻ và dễ chịu. Do đó, “Cư  
An có tiềm năng lớn trong việc phát triển du  
lịch dựa trên nền nông nghiệp” (KDL 3).  
3.2. Phân tích thông tin và số liệu thu thập từ  
các trang trại  
Quá trình phân tích nội dung các cuộc phỏng  
vấn được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ  
nhất liên quan đến việc xử lý nội dung từng  
cuộc phỏng vấn riêng biệt. Bước thứ hai của  
việc phân tích nội dung phỏng vấn liên quan  
đến việc xem xét mối liên hệ giữa nội dung các  
bài phỏng vấn các nhân, tích hợp tất cả các yếu  
tố để phát triển thành những mô hình toàn diện  
có thể ứng dụng cho bối cảnh du lịch nông  
nghiệp. Dữ liệu được phân tích dựa trên mô  
hình sáu nhân tố: Thị trường người tiêu dùng;  
Lao động; Nguyên vật liệu; Giao thông; Tiện  
ích khác và nguồn tài chính.  
Du lịch nông nghiệp phải có sự kết hợp của  
hai yêu cầu: (1) khu sinh hoạt sạch sẽ với  
không khí trong lành; (2) vườn cây ăn quả và  
nông sản phù hợp cho khách du lịch tham quan.  
“Khách du lịch sẽ trở thành cầu nối giữa sản  
xuất nông nghiệp và du lịch nông nghiệp, họ  
tham gia như một thành phần tích cực trong dây  
chuyền sản xuất nông nghiệp và tận hưởng  
thành tựu nông nghiệp. Một tiêu chuẩn khác  
của du lịch nông nghiệp: nông sản gắn liền với  
văn hóa” (KDL 4). Khách du lịch mong muốn  
khi họ trở về cội nguồn của văn hóa nông  
nghiệp bản địa, họ sẽ có cơ hội học được cách  
duy trì và phát triển các sản phẩm nông nghiệp.  
Đây cũng là cơ hội để các nhà khoa học nông  
nghiệp tìm hiểu và nghiên cứu các nguồn gen  
có giá trị, khả năng tạo ra các giống mới và bảo  
vệ các nguồn gen truyền thống. Do đó “lựa  
chọn tham gia du lịch nông nghiệp mang đến  
cơ hội trải nghiệm không chỉ với tư cách là  
nông dân mà còn là nhà khoa học nông nghiệp,  
nhà du lịch nông nghiệp” (KDL 5). Những  
khách du lịch có ý định chọn hình thức du lịch  
(a) Thị trường người tiêu dùng  
Khách du lịch có ý định tham gia váo các  
chương trình du lịch nông nghiệp thường có xu  
hướng “muốn đóng vai trò là một nông dân  
thực sự, tham gia làm tất cả mọi công việc hàng  
ngày của một nông dân từ trồng trọt đến thu  
hoạch sản phẩm” (Khách du lịch (KDL)1). Họ  
cho rằng việc trở thành nông dân giúp họ có cơ  
hội trở về cội nguồn, tìm hiểu rõ hơn về cuộc  
sống ngày trước của ông bà họ. Do đó, các  
trang trại có thể cân nhắc trong việc “biến ngôi  
làng của mình thành một "thiên đường nhỏ"  
hoang dã và hấp dẫn cho khách du lịch, để du  
khách có những trải nghiệm thú vị” (KDL 2).  
Tuy nhiên cũng cần phải có ý thức trong việc  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 151  
nông nghiệp cũng có một số yêu cầu chung  
khác như: thực phẩm sạch, có thể tham gia vào  
các hoạt động thường nhật của cộng đồng nông  
thôn, và có không gian thư giãn. Do đó, các  
trang trại cần hiểu nhu cầu của khách du lịch và  
phân loại chúng theo từng nhóm khác nhau như  
trong Bảng 2. để cung cấp được các dịch vụ  
tương ứng.  
Bảng 2. Nhu cầu của khách du lịch và sản phẩm du lịch tương ứng  
Nhu cu ca khách du lch  
Sn phm và dch vụ tương ứng  
Không gian yên tĩnh  
Vtrí nông tri cách xa nơi có nhiều tiếng ồn; Có đủ không  
gian riêng tư cho du khách.  
Thc phm tt cho sc khe  
Cung cp thc phẩm do gia đình tự chế biến; Thc phm  
mang tính truyn thng của địa phương.  
Thư giãn theo những cách  
năng động  
Bầu không khí mang tính thư giãn; Cung cp các hoạt động  
để giải trí (đạp xe, cưỡi nga, câu cá, trng cây v.v...).  
Quay vvi thiên nhiên  
Vtrí gn khu trng trt hoa quả, vườn rau; Có các bui chia  
svkiến thức liên quan đến ngun tài nguyên thiên nhiên  
(sông suối, thác nước, đồi núi v.v...).  
Tăng kiến thc vkhu vc  
nông thôn  
Tiếp cận được các nguồn thông tin liên quan đến trang phc  
truyn thng, phong tc tp quán; Tham gia các hoạt động  
liên quan đến vic to ra các sn phm thcông mnghthủ  
công; Tham gia vào các lhi mang tính truyn thng tại địa  
phương.  
Môi trường trong lành  
Vtrí nông tri cách xa nhng khu vc có khả năng gây ô  
nhim; Cung cp thc phm sch.  
Cơ hội tham gia vào các hot  
động ca cộng đồng dân địa  
phương  
Tạo điều kin rút ngn khong cách gia khách du lch và dân  
bản địa hoc chnhà, chnông tri; Tchc nhng bui chia  
skinh nghim xoay quanh vến đề liên quan đến nông thôn.  
(b) Lực lượng lao động  
vào trang trại na dai, điều kiện sống của gia  
đình bà được nâng lên đáng kể. Trang trại chỉ  
Dựa trên những thông tin thu thập được từ  
bảy trang trại, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết  
chủ sở hữu của các trang trại nông nghiệp là  
những người ở độ tuổi 40-55 (50%) và 55-60  
(25%). Họ chủ yếu là nam (66,7%), có trình độ  
học vấn từ trung học phổ thông (58%) và cao  
hơn (33%). Thông tin chi tiết của các trang trại  
được mô tả như sau:  
có 5 người làm việc, từ gieo trồng, chăm sóc  
đến thu hoạch và chủ yếu đều là người nhà của  
bà. Trang trại này có thể trở thành nơi để khách  
du lịch đến tham quan và tận hưởng không khí  
yên bình. Khách du lịch có thể có những trải  
nghiệm cuộc sống của “một người nông dân  
thực thụ”.  
Trang trại B:  
Trang trại A:  
Chủ sở hữu là ông N.N.Q. Trang trại của  
ông thường trồng xen các loại trái cây khác  
nhau trên cùng một diện tích (4 ha) nhưng chủ  
yếu là xoài và na dai. Bằng cách áp dụng các kỹ  
thuật mới như cắt tỉa, tạo tán, sử dụng phân bón  
có nguồn gốc sinh học, năng suất ngày càng  
tăng. Ông cũng áp dụng khá nghiêm ngặt quy  
Chủ sở hữu là bà L.T.Q. Bà bắt đầu trồng na  
dai tại khu vực núi Đá Lửa của xã Cư An (từ  
năm 2005), với 5 ha. Trang trại của bà có thể  
thu hoạch từ 11 đến 13 tấn na mỗi mùa. Bà  
thường bán trái cây cho người khách bán buôn-  
họ đến tận trang trại của bà để thu mua. Nhờ  
152 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
trình chăm sóc và sử dụng các sản phẩm bảo vệ  
thực vật. Các loại trái cây đều đáp ứng các yêu  
cầu về tiêu chuẩn chất lượng. Trang trại chỉ có  
3 nông dân. Khách du lịch có thể ghé thăm  
trang trại của ông để khám phá hương vị khác  
nhau của các loại trái cây. Ngoài ra, trong  
trường hợp khách du lịch có ý định tìm hiểu  
thêm về các kiến thức liên quan đến quy trình  
trồng trái cây hiện đại, họ có thể nói chuyện với  
chủ trang trại và nông dân ở đây. Trang trại còn  
là một nơi trải nghiệm lý tưởng, tích lũy thêm  
kinh nghiệm cho những ai đang có ý định gia  
nhập vào lĩnh vực trồng cây ăn trái theo xu  
hướng hiện đại.  
700gram, với vị ngọt thanh hơn các loại na  
trồng trên vùng đất khác. Vì vậy nhiều khách  
hàng và thương nhân ở các địa phương khác đã  
tìm đến trang trại của ông để mua. Hiện tại  
trang trại chỉ có hai nông dân. Khách du lịch  
đến đây có thể có những trải nghiệm thú vị  
thông qua việc tận hưởng không khí trong lành  
cùng với các loại trái cây chất lượng cao.  
Trang trại F:  
Với hơn 7ha đất tại khu vực núi Đá Lửa, ông  
L.V.H. đã trồng đủ loại cây như xoài, bơ, lúa, và  
mía. Từ năm 2015, ông đã sử dụng một ha mía  
để trồng na dai theo hướng dẫn của Sở Nông  
nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Gia Lai để  
đa dạng hóa giống cây trồng và tận dụng lợi thế  
về thổ nhưỡng tại vùng đất này. Hiện tại trang  
trại ông có 5 nông dân đang làm việc. Khách du  
lịch đến trang trại của ông có cơ hội thử nghiệm  
trong việc tự mình trồng trọt và chăm sóc nhiều  
loại cây khác nhau ở quy mô lớn.  
Trang trại C:  
Chủ sở hữu của trang trại 3 ha na dai (1000  
cây) này là bà T.T.T. Trang trại của bà cũng có  
hơn 100 cây bưởi da xanh, bơ và quýt đường.  
Mục đích của việc đa dạng hóa giống cây trồng  
trong trang trại vì bà muốn đảm bảo trang trại  
luôn có sản phẩm để cung cấp cho người mua  
trong cả năm. Họ có ba nông dân chăm sóc  
trang trại. Khách du lịch có thể đến đây vào các  
mùa trong năm để thưởng thức sự đa dạng của  
các loại trái cây.  
Trang trại G:  
Chủ sở hữu là ông N.V.T. Trước đây, ông đã  
trồng 3ha mía và dưa hấu nhưng những loại cây  
đó không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sau  
đó, ông chuyển sang trồng xoài nhưng kết quả  
cũng không đáp ứng được kỳ vọng vì thiếu  
công nghệ. Ông đã dành gần 2 năm để vào Nam  
học hỏi kinh nghiệm trồng trọt tại các trang trại,  
khi trở về, ông quyết định trồng na dai. Trong  
10 năm qua, khu vườn của ông đã phát triển ổn  
định và tạo thu nhập tương đối cao. Trang trại  
chỉ có 3 nông dân. Du khách đến đây có thể học  
hỏi thêm kinh nghiệm từ chủ trang trại, không  
chỉ liên quan đến kỹ thuật trồng trọt mà còn cả  
những kinh nghiệm về quá trình tìm tòi học hỏi  
để đưa ra một mô hình kinh doanh phù hợp.  
Trang trại D:  
Chủ sở hữu là ông N.V.P. Trang trại của ông  
có 4ha, cung cấp hơn 20 tấn trái cây mỗi năm.  
Lúc đầu, ông chỉ trồng xen kẽ na dai trong  
vườn xoài. Sau thời gian quan sát hiệu quả kinh  
tế của các loại cây, ông đã chuyển đổi diện tích  
trồng xoài, sắn, đậu, ngô và các loại cây khác  
sang na dai. Nông phẩm của trang trại ông  
thường được bán cho các thương lái trong  
huyện hoặc giao cho các chợ đầu mối. Hiện tại  
có 5 nông dân làm việc trong trang trại.  
Trang trại E:  
(c) Nguyên vật liệu  
Chủ sở hữu là ông L.V.T. Trang trại của ông  
có 3ha na dai. Tuy trang trại này có diện tích  
nhỏ, nhưng vùng đất này rất phù hợp để trồng  
na. Trọng lượng trung bình mỗi quả từ 500-  
Thông qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy  
phần lớn các trang trại đều có diện tích không  
quá 10ha. Sản xuất nông nghiệp của các trang  
trại phần lớn đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng tại  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 153  
địa phương và nếu quy hoạch tốt có thể kết hợp  
các yếu tố nông nghiệp với cảnh quan xung  
quanh để tạo thành quần thể du lịch nông  
nghiệp. Các trang trại có khả năng cung ứng  
các dịch vụ cơ bản liên quan đến lưu trú và thực  
phẩm. Du khách có thể trải nghiệm các hoạt  
động liên quan đến trồng trọt tại đây, đồng thời  
cũng có thể tham gia các hoạt động giải trí khác  
như: đạp xe trên các con đường quê, câu cá tại  
các khu có sông suối chảy qua, nướng thức ăn  
thư giãn cùng gia đình tại các đồi cỏ.  
điều kiện và đặc điểm riêng của họ, có thể tham  
khảo một số mô hình thành công ở Đà Lạt hoặc  
các tỉnh miền Tây Nam Bộ” (Công ty du lịch 1).  
Chính quyền địa phương, các tổ chức phi  
chính phủ và các cơ quan đào tạo đóng vai trò  
quan trọng trong việc hỗ trợ để phát triển loại  
hình kinh doanh này. Các cơ quan ban ngành  
luôn có chủ trương và đưa ra nhiều chính sách  
để thúc đẩy các hoạt động của du lịch nông  
nghiệp cũng như phát triển cơ sở hạ tầng để hỗ  
trợ việc di chuyển của khách du lịch cũng như  
vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra, chính quyền  
địa phương cũng có các hoạt động liên quan  
đến việc hỗ trợ tài chính và kinh nghiệm trồng  
trọt cho các trang trại có nhu cầu. “Huyện Đăk  
Pơ cũng đang nỗ lực xây dựng thương hiệu và  
biến trái cây thành một sản phẩm nông nghiệp  
chính của địa phương để phát triển kinh tế - xã  
hội, xóa đói giảm nghèo” (Đại diện cơ quan  
nhà nước (CQNN) 1). “Chính quyền và các  
phòng chức năng của huyện cần nhanh chóng  
hoàn thành khảo sát, đánh giá cụ thể điều kiện  
đất đai và khí hậu, làm tiền đề để nhân giống  
cây ăn quả ở khu vực này. Các xã trong địa  
phương cũng liên kết với các doanh nghiệp bên  
ngoài để tìm đầu ra ổn định cho cây trồng khi  
bước vào thời kỳ thu hoạch. Đây được coi là  
chìa khóa để nông dân cảm thấy an tâm trong  
việc phát triển sản xuất” (CQNN 2). “Nhiều loại  
cây ăn quả xã Cư An đã góp phần tạo điều kiện  
sống cho nhiều hộ nông dân và sự phát triển  
kinh tế xã hội của địa phương. Trong thời gian  
tới, chúng tôi sẽ đưa ra nhiều chính sách đổi  
mới để khuyến khích mọi người tiếp tục phát  
triển cây ăn quả ở khu vực này” (CQNN 3).  
(d) Giao thông và cơ sở hạ tầng  
Huyện Đăk Pơ nằm trên quốc lộ 19, là tuyến  
đường huyết mạch nối liền vùng duyên hải  
miền Trung và Tây Nguyên, đến tận  
Campuchia. Đây là khu vực chuyển tiếp giữa  
đồng bằng và cao nguyên. Huyện cũng có rừng  
và hệ thống sông hồ có tiềm năng lớn để phát  
triển du lịch. Từ phía sau đèo Mang Yang nhìn  
về phía Đông của Đăk Pơ là những cánh đồng  
mía và rừng thông xanh mênh mông. Tuy nhiên  
hiện tại các tuyến đường nối với xã Cư An còn  
nhỏ và chưa được bê tông hóa toàn bộ nên  
phương tiện di chuyển chính vẫn là xe máy.  
(e) Dịch vụ hỗ trợ khác và nguồn tài chính  
Các bên có liên quan chính trong việc triển  
khai hoạt động du lịch nông nghiệp là các chủ  
trang trại, nông dân hay cộng đồng địa phương,  
là nơi cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho  
khách du lịch. Do đó họ cần làm việc với các  
công ty du lịch để sắp xếp các hoạt động liên  
quan đến các chương trình du lịch, trong khi đó  
họ cũng cần được hỗ trợ từ các công ty vận tải  
để chuyển khách du lịch và các hàng hóa có  
liên quan khác. Vì vậy, một số nhà điều hành  
các chương trình du lịch nhìn thấy tiềm năng từ  
khu vực này nên tiến hành hướng dẫn các chủ  
trang trại lập kế hoạch kinh doanh và các giải  
pháp về du lịch để mang đến cho du khách  
những trải nghiệm khác biệt. “Cần phải định  
hướng để các trang trại tạo ra các mô hình theo  
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận  
4.1. Cơ hội, thách thức, điểm mạnh và điểm  
yếu của tình huống nghiên cứu  
Thông qua kết quả phân tích từ 6 nhân tố đã  
đề cập ở phần trên và sắp xếp vào mô hình  
SWOT, kết quả cho thấy những cơ hội, thách  
154 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
thức, điểm mạnh và điểm yếu tại xã Cư An như  
sau:  
phục vụ cho khách du lịch như quán ăn, quán  
cà phê, nhà nghỉ.  
(a) Cơ hội  
(d) Điểm yếu  
Khu vực xã Cư An được chính quyền địa  
phương hỗ trợ cả về mặt chính sách lẫn kinh  
phí để phát triển du lịch dựa trên nguồn tài  
nguyên hiện có. Bên cạnh đó, hiện nay có rất  
nhiều công cụ hỗ trợ việc tiếp cận đến khách du  
lịch như Agoda, Expedia, hay Tripadvisor,  
trang trại có thể cung cấp thông tin và quảng  
cáo trực tuyến để thu hút sự quan tâm của  
khách du lịch nội địa lẫn quốc tế. Ngoài ra, hiện  
nay các tổ chức phi chính phủ (NGO) cũng có  
những chương trình hỗ trợ phát triển nông thôn,  
nên họ có thể hỗ trợ trong việc đưa các văn hóa  
nông thôn ra thị trường.  
Hiện nay hầu hết các chủ trang trại ở đây  
chưa nhận ra tầm quan trọng của du lịch nông  
nghiệp. Do đó họ chưa có sự đầu tư thỏa đáng  
để thu hút khách du lịch trong việc truyền thông  
tiếp thị cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng. Đồng  
thời các công ty du lịch trên địa bàn cũng chưa  
có những chương trình du lịch kết hợp để phát  
huy hết lợi thế du lịch tại đây.  
4.2. Chiến lược phát triển du lịch nông nghiệp  
Dựa trên các kết quả phân tích từ mô hình  
SWOT, một số chiến lược phát triển du lịch  
nông nghiệp được đề suất như sau:  
(a) Chiến lược SO - Tân dụng điểm mạnh để  
nắm bắt cơ hội  
(b) Mối đe dọa/ Thách thức  
Hiện nay thách thức lớn nhất của địa phương  
là sự cạnh tranh của các loại hình du lịch khác  
trên địa bàn như du lịch ngắm cảnh (đồi thông,  
thác nước) hay du lịch tâm linh (thăm chùa  
chiền, đền miếu, nhà thờ). Đồng thời, du lịch  
nông nghiệp cũng có thể là một trong mối đe  
dọa cho môi trường sinh thái.  
Chiến lược SO là một chiến lược được hình  
thành bằng cách tận dụng các lợi thế từ nhân tố  
nội tại để nắm bắt cơ hội phát triển. Xã Cư An  
có thể áp dụng các hoạt động sau:  
Mở rộng các vườn cây, cung cấp hoạt  
động thu hoạch trái cây cho khách du lịch.  
Kết hợp việc tham quan vườn cây với  
(c) Điểm mạnh  
hoạt động đạp xe đạp, câu cá.  
Xã Cư An sở hữu hơn 100 ha diện tích đất  
nông nghiệp màu mỡ thích hợp cho việc trồng  
các loại cây ăn trái, đặc biệt là na dai, đây chính  
là một trong những điểm mạnh của khu vực này  
so với các địa bàn khác. Ngoài ra, Cư An còn  
có một vị trí địa lý thuận lợi, giáp với các xã Hà  
Tam (có quần thể đồi thông và thác nước – khai  
thác khu du lịch sinh thái), hay nằm gần huyện  
Kongchro và huyện Kbang - hai khu vực có  
nhiều làng văn hóa của người đồng bào (khai  
thác du lịch cộng đồng). Do đó, nếu khách du  
lịch đến Cư An có thể kết hợp tham quan các  
vùng lân cận và ngược lại. Đồng thơi, Xung  
quanh khu vực này còn nhiều vùng đất trống có  
thể khai thác để xây dựng các dịch vụ khác  
Xây dựng các khu nghỉ ngơi hay các quầy  
bán trái cây, quà lưu niệm.  
(b) Chiến lược ST - Kết hợp điểm mạnh vượt  
qua thách thức  
Chiến lược ST là một chiến lược được thực  
hiện bằng cách tận dụng các điểm mạnh và  
lường trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Do  
đó, các nông trại có thể:  
Thiết kế các chương trình trồng cây xanh  
để bảo vệ môi trường sinh thái.  
Cung cấp các loại hình du lịch mang tính đặc  
trưng để tạo sự khác biệt: du lịch sinh thái,  
tìm hiểu văn hóa, lịch sử của địa phương.  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 155  
(c) Chiến lược WO - Tận dụng cơ hội để khắc  
4.3. Đề xuất các mô hình phát triển du lịch  
phục điểm yếu  
nông thôn  
Chiến lược WO là một kỹ thuật tận dụng các  
cơ hội từ môi trường bên ngoài khắc phục các  
điểm yếu nội tại. Do đó các trang trại nên cân  
nhắc đến việc:  
Từ các chiến lược trên, chúng tôi thấy du  
lịch nông nghiệp có thể phân ra làm nhiều mô  
hình khác nhau tùy theo đặc điểm của từng  
trang trại như:  
Sử dụng các website của công ty du lịch  
như một phương phương tiện quảng bá  
trực tuyến (Tripadvisor, Agoda, Expedia).  
(a) Mô hình 1 - Một ngày làm nông dân  
Khi triển khai mô hình “Một ngày làm nông  
dân”, các trang trại nên cân nhắc đến nhu cầu  
và quy mô của từng đoàn khách mà đưa ra  
những chương trình phù hợp. Nếu đoàn khách  
nhỏ hay thời gian lưu trú ngắn, một trang trại  
có thể triển khai chương trình, nhưng trong  
trường hợp lượng khách tham gia đông, họ có ý  
định lưu trú trong thời gian dài, các trang trại  
có thể kết hợp với nhau để đưa ra các dịch vụ  
đa dạng và phong phú hơn. Khách du lịch có  
thể đến trang trại, tìm hiểu về toàn bộ quy trình  
từ gieo trồng đến thu hoạch, chế biến và tiếp thị  
một loại nông sản nào đó. Trong trường hợp  
nếu khách du lịch muốn lưu trú qua đêm, các  
trang trại có thể cung cấp dịch vụ liên quan đến  
việc ở và ăn uống để giúp họ có những trải  
nghiệm thú vị hơn về đời sống nông dân.  
Phát triển website riêng dành riêng cho  
việc quảng bá du lịch nông nghiệp của  
từng trang trại hoặc kết hợp quảng cáo  
cho cả xã Cư An.  
Cải thiện chất lượng dịch vụ thông qua  
việc đào tạo nâng cao năng lực cho nông  
dân và lực lượng lao động tại nông thôn  
bằng cách hợp tác với các công ty du lịch,  
hiệp hội phát triển nông thôn, và các tổ  
chức phi chính phủ.  
Hợp tác với các đại lý du lịch để thu hút  
lượng khách từ các địa phương khác.  
(d) Chiến lược WT - Phân tích điểm yếu và  
thách thức  
Chiến lược này được phát triển thông qua  
việc các trang trại phải phân tích được điểm  
mạnh của chính mình, cũng như hiểu rõ các  
thách thức mình đang đối mặt từ bên ngoài để  
có biện pháp ứng phó cho phù hợp. Các trang  
trại có thể:  
(b) Mô hình 2 - “Mỗi người trồng một cái cây”  
Mô hình này được triển khai tại những trang  
trại vẫn còn nhiều diện tích đất trống, khi khách  
du lịch đến tham quan, họ có thể mua một cây  
giống mà họ thích sau đó sẽ tự trồng chúng  
xuống và đặt tên cây theo ý thích của họ. Trang  
trại sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc cây cho  
khách, đến mùa thu hoạch khách du lịch có thể  
ghé lại và hái trái cây để mang về. Khu vực núi  
Đá Lửa là nơi có thổ nhưỡng đặc trưng, các  
trang trại có thể chọn một số loại cây tiêu biểu  
để đưa vào chương trình. Đồng thời, cũng nên  
quy hoạch những khu vực phù hợp, thuận lợi  
cho việc đi lại, để các khu vườn này trở thành  
một nơi mang dấu ấn riêng, tạo tiền đề cho việc  
tiếp thị các sản phẩm của địa phương.  
Gia tăng thêm giá trị vào các sản phẩm  
nông nghiệp hiện có để giúp cho việc sản  
xuất nông sản được bền vững (tạo ra các  
sản phẩm chế biến thay cho sản phẩm thô).  
Kêu gọi sự hỗ trợ từ các cơ quan ban  
ngành để có các biện pháp và chính sách  
phù hợp nhằm giúp cho các trang trại có  
thêm kiến thức, kỹ năng, cũng như nguồn  
vốn trong công tác phát triển du lịch dựa  
trên nền tảng nông nghiệp sẵn có.  
156 Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157  
(c) Mô hình 3 - “Mỗi chuyến đi là một sản  
phẩm”  
mạnh cho địa phương để cạnh tranh với các khu  
vực khác.  
Các trang trại triển khai mô hình này có thể  
thiết kế các quầy bán lẻ nông sản đặt ngoài  
cổng trang trại hay ngay bên trong để khách du  
lịch có thể dễ dàng nhìn thấy và mua làm quà  
khi họ chuẩn bị rời khỏi nơi tham quan. Ngoài  
ra, trang trại cũng có thể cung cấp dịch vụ chế  
biến nông sản theo yêu cầu của khách nếu họ  
lưu trú qua đêm và có ý định muốn thưởng thức  
đặc sản tại địa phương thông qua đồ ăn hay  
thức uống. Tuy nhiên để giúp khách du lịch có  
ấn tượng và sẵn sàng chi trả cho các mặt hàng  
nông sản, đòi hỏi các trang trại phải đầu tư vào  
các hình thức đóng gói, bao bì để giúp cho việc  
vận chuyển nông sản được dễ dàng, thuận tiện.  
5. Kết luận  
Mặc dù du lịch nông nghiệp mang lại nhiều  
lợi ích cho các trang trại, nhưng để triển khai  
hình thức này đòi hỏi các chủ trang trại phải có  
sự đầu tư đúng mức cả tài nguyên và công sức  
vì hình thức này là sự kết nối của nhiều nhóm  
đối tác khác nhau. Dựa theo đặc tính của du  
lịch nông nghiệp, thì hình thức này có quan hệ  
mật thiết với các hoạt động sản xuất nông  
nghiệp, đó là việc đưa du lịch vào hệ sinh thái ở  
nông thôn và được cung cấp bởi các hộ nông  
dân. Trong bài báo này, chúng tôi nghiên cứu  
du lịch nông nghiệp với mục đích đưa ra những  
chiến lược phát triển và mô hình triển khai dựa  
trên việc phân tích 6 nhóm nhân tố liên quan  
như thị trường người tiêu dùng, lao động,  
nguồn nguyên vật liệu, giao thông vận tải, các  
dịch vụ tiện ích, và và nguồn vốn. Thông qua  
việc phân tích một tình huống tại xã Cư An và  
vận dụng kết hợp phương pháp MCDS (phân  
tích đa tiêu chí hỗ trợ ra quyết định) nằm trong  
phạm vi phân tích của mô hình SWOT (phân  
tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức)  
để đánh giá một cách có hệ thống các yếu tố để  
tìm ra các chiến lược và mô hình phát triển du  
lịch nông nghiệp. Kết quả phân tích dữ liệu  
cũng cho thấy các cơ quan nhà nước và các chủ  
trang trại khẳng định tầm quan trọng của việc  
triển khai hoạt động du lịch nông nghiệp. Tuy  
nhiên trên thực tế, các trang trại vẫn chưa khai  
thác triệt để lợi ích của hoạt động này.  
(d) Mô hình 4 - Kết hợp du lịch nông nghiệp  
với khám phá lịch sử, văn hóa địa phương  
Đăk Pơ không chỉ là nơi có những trang trại  
rau quả có chất lượng mà còn nổi tiếng bởi các  
di tích lịch sử quốc gia như tượng đá Chăm (xã  
Tân An); Đá Ông Nhạc (xã Phú An). Cách xã  
Cư An khoảng 2 km dọc theo đường quốc lộ là  
Di tích tượng đài Chiến thắng Đăk Pơ, nơi lưu  
giữ các tài liệu, tranh ảnh và các vật dụng trong  
các trận chiến. Nơi này đã trở thành một "địa  
chỉ đỏ" của giáo dục truyền thống cách mạng,  
tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc cho  
thế hệ trẻ của người dân địa phương cũng như  
người dân trong và ngoài tỉnh. Cùng với tiềm  
năng về du lịch sinh thái và du lịch nông  
nghiệp, Đăk Pơ cũng có tiềm năng phát triển du  
lịch cộng đồng với những ngôi làng hoang sơ  
của người Bahnar. Với những ngôi nhà sàn còn  
nguyên vẹn, những làng nghề thủ công truyền  
thống như dệt thổ cẩm, đan lát, văn hóa cồng  
chiêng hoặc các nghi lễ dân gian độc đáo được  
người đồng bào lưu giữ, làng Hway (xã Hà  
Tam) trở thành một trong những điểm đến thú  
vị cho khách du lịch. Dựa trên những lợi thế  
này, loại hình du lịch kết hợp sẽ trở thành thế  
Tài liệu tham khảo  
[1] Awan, S. A., Saeed, A., & Zhuang, P. J. P. (2016).  
The Prospects of Agritourism Development in  
China. 7(5).  
[2] Boys, K. A., DuBreuil White, K., & Groover, G. J. J.  
o. S. T. (2017). Fostering rural and agricultural  
tourism: exploring the potential of geocaching.  
25(10), 1474-1493.  
[3] Buong, D. H. (2019). “Triple Helix” with the  
Application of High-tech in Agriculture According  
Nguyễn Hoàng Hiếu, Hà Thị Như Hằng / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 146-157 157  
to Market Demand. VNU Journal of Science: Policy  
and Management Studies, 35(2).  
[4] Crabtree, B. F., & Miller, W. L. (1999). Doing  
qualitative research: sage publications.  
[9] Santeramo, F. G., Barbieri, C. J. T. P., &  
Development. (2017). On the demand for  
agritourism: a cursory review of methodologies and  
practice. 14(1), 139-148.  
[5] Crowe, S., Cresswell, K., Robertson, A., Huby, G.,  
Avery, A., & Sheikh, A. J. B. m. r. m. (2011). The  
case study approach. 11(1), 100.  
[10] Sloagett, G., & Woods, M. D. (2003). Critical  
Factors in Attracting New Business and Industry in  
Oklahoma.  
[6] Nepal, R., al Irsyad, M. I., & Nepal, S. K. (2019).  
Tourist arrivals, energy consumption and pollutant  
emissions in a developing economyimplications  
for sustainable tourism. Tourism Management, 72,  
145-154.  
[7] Nguyen, N., Suwanno, S., Thongma, W., &  
Visuthismajarn, P. (2018). The attitudes of residents  
towards agro-tourism impacts and its effects on  
participation in agro-tourism development: The case  
study of Vietnam. African Journal of Hospitality,  
Tourism and Leisure, 7(4).  
[11] Sorupia, E. (2005). Rethinking the role of  
transportation in tourism. Paper presented at the  
Proceedings of the Eastern Asia Society for  
Transportation Studies.  
[12] Tseng, M.-L., Chang, C.-H., Wu, K.-J., Lin, C.-W.  
R., Kalnaovkul, B., & Tan, R. R. J. S. (2019).  
Sustainable Agritourism in Thailand: Modeling  
Business  
Performance  
and  
Environmental  
Sustainability under Uncertainty. 11(15), 4087.  
[13] Van Buuren, A., Eshuis, J., & Van Vliet, M. (2014).  
Action research for climate change adaptation:  
Developing and applying knowledge for  
governance: Routledge.  
[8] Phương, N. T. D. (2012). Phát trin du lch nông thôn  
Tây Nam B: tiềm năng và thách thức. Journal of  
Scientific and Research Publications, 2(12).  
pdf 12 trang yennguyen 15/04/2022 1140
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá mô hình phát triển du lịch nông nghiệp tại huyện Đăk Pơ - Tỉnh Gia Lai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_mo_hinh_phat_trien_du_lich_nong_nghiep_tai_huyen_da.pdf