Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI-XII

No.16_June 2020|S16 Tháng 6 năm 2020|p.31-35  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HC TÂN TRÀO  
ISSN: 2354 - 1431  
ĐÓNG GÓP CA THÁI PHÓ HÀ DI KHÁNH  
ĐỐI VI LCH SDÂN TC THKXI - XII  
Hoàng ThThu Dung, Trn Minh Tú a*  
a Trường Đại hc Tân Trào  
* Email: hoangthithudung@gmail.com  
Thông tin bài viết  
Tóm tt  
Hiện nay, tại chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang)  
còn lưu giữ được tấm bia cổ duy nhất thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước  
ta có niên đại từ thời nhà Lý. Nội dung văn bia chép về dòng họ Hà và những  
đóng góp của dòng họ này đối với vùng đất VLong nói riêng và đất nước nói  
chung ở thế kỷ XI - XII. Trong đó phải kể đến công lao to lớn của nhân vật  
lịch sử Hà Di Khánh.  
Ngày nhn bài:  
26/2/2020  
Ngày duyệt đăng:  
10/6/62020  
Tkhóa:  
Đóng góp, Hà Di Khánh, lịch  
sdân tc  
Hiện nay, tại thôn làng Tạc, xã Yên Nguyên, huyện  
1. Mở đầu  
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang còn lưu giữ tấm bia cổ  
Vào thế kỷ X - XI, Châu Vị Long có vị trí địa lý, chính  
trị đặc biệt quan trọng của quốc gia Đại Việt. Châu Vị  
Long cơ bản là vùng đất thuộc tỉnh Tuyên Quang ngày  
nay. Châu Vị Long bao gồm ít nhất địa bàn của ba huyện:  
Chiêm Hóa, Na Hang và Hàm Yên, vị trí trung tâm của  
châu là Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đó là vùng đất  
điu kin tnhiên thun li, đất đai tương đối màu  
m, giàu tài nguyên khoáng sn. Các dân tộc Chiêm Hoá  
mc dù có ngun gốc lch skhác nhau nhưng họ cùng  
nhau sinh sng, tích cc khai phá, mmang rung đồng,  
xây làng lp bn để làm nơi sinh cơ lp nghip và phát  
trin lâu dài.  
Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi và nhiều dấu tích khảo cổ học  
có niên đại nhà Lý (1009 - 1225) minh chứng cho một  
thời kỳ lịch sử đáng tự hào của vùng đất này. Địa danh  
chùa cổ Bảo Ninh Sùng Phúc, tấm bia cổ Bảo Ninh Sùng  
Phúc tự bi đã gắn liền với nhân vật lịch sử - danh nhân  
Hà Di Khánh, với những đóng góp to lớn của ông cho  
lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII.  
2. Nội dung nghiên cứu  
2.1. Thân thế và sự nghiệp của Hà Di Khánh  
Thái phó Hà Di Khánh1 là nhân vật lịch sử sống và  
hoạt động vào nửa cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII tại châu  
Vị Long, nơi có vị trí địa lý, chính trị đặc biệt quan trọng  
của quốc gia Đại Việt. Châu Vị Long cơ bản là vùng đất  
thuộc huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ngày nay.  
Là vùng đất rng người thưa, núi non him tr, có  
vị trí chiến lược về quốc phòng, đồng bào các dân tộc  
nơi đây có truyn thng đoàn kết, yêu nước, giàu lòng  
nhân ái, dũng cm trong đấu tranh chng cường  
quyn, áp bc, đánh gic ngoi xâm; cn cù, sáng tạo  
trong lao động và có đời sng văn hoá tinh thn khá  
phong phú, độc đáo.  
Tại xã Yên Nguyên, Chiêm Hoá, Tuyên Quang hiện  
còn lưu giữ được tấm bia cổ Bảo Ninh Sùng Phúc2 của  
tác giả Lý Thừa Ân3 soạn vào năm 1107, do chính Thái  
phó Hà Di Khánh lệnh viết. Tấm bia cổ phần nào đã  
1 Ti cuc hi tho khoa hc vcác danh nhân hHà châu VLong  
Tuyên Quang và giá trtm bia Bo Ninh Sùng Phúc tbi đã kết lun,  
nhân vt Hà Di Khánh được khc trong văn bia Bo Ninh Sùng Phúc và  
Hà Hưng Tông được ghi trong cun Đi Vit ský toàn thư là mt.  
2 Bo Ninh Sùng Phúc tbi là 1 trong s18 tm bia ccó giá trị được  
khc dưi thi nhà Lý hin còn được lưu gi. Bia có niên đại vào loi  
sm và có giá trvnhiu mt (Lch s, Văn hóa). Nếu tính riêng các  
tnh thưng du phía Bc thì Bo Ninh Sùng Phúc tbi hin đang  
lưu giti Chiêm Hóa, Tuyên Quang là tm bia đá được khc duy  
nht dưi thi nhà Lý.  
3 Lý Tha Ân là quan văn dưới thi nhà Lý, không rõ năm sinh,  
năm mt. Đương thi, ông làm đến Triu thnh đại phu, thưng  
thư, viên ngoi lang, năm Nhâm Tý 1132, đời Lý Thn Tông, ông  
đi snhà Tng.  
H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35  
cho chúng ta những thông tin chân thực và quý báu  
[5, tr. 114]. Thân phụ Thái phó kết duyên với con gái thứ  
6 của quan Thái thú ở Phú Nghĩa và từ khi sinh người  
con trai đầu lòng đến người con trai thứ tư, cha mẹ Thái  
phó đều nuôi dậy ân cần... Con trai thì rùi mài kinh sử,  
con gái thì kim chỉ thêu thùa” [5, tr114].  
về tiểu sử và gia thế của Thái phó Hà Di Khánh.  
Bia cổ Bảo Ninh Sùng Phúc ghi chép khá rõ về quê  
hương của Thái phó Hà Di Khánh: “Thái phó Hà Hưng  
Tông, Thuỷ tổ người thôn Ca Nông, hương Thạch Bách,  
huyện Hà, thuộc Đông Đô, Châu Ung4. Cao tổ là Hà Đắc  
Trọng, xa nghe giáo hoá của vương triều, dời gót xin làm  
thần thứ, từ đó giữ gìn an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã  
ấm no; người đời tôn tưởng. Cho tới đời thứ 8, kể cả tổ  
tiên xưa có hai đời làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn  
càng thịnh; công cả càng cao. Được coi giữ 49 động, 15  
huyện, dân khuân phép chung. Trải qua 5 đời thì đến đời  
bấy giờ. Ông của Thái phó (Hà Di Khánh) giữ chức Thái  
bảo, lấy công chúa thứ 3 của của Thái Tổ Hoàng đế (Tức  
Lý Thái Tổ - 1009-1028)” [5, Tr114].  
Về năm sinh của Thái phó Hà Di Khánh, chính sử  
không thấy chép, nhưng văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc cho  
biết “ Vu Anh Vũ Chiêu Thắng, Đinh Tỵ, thời duy cửu tuế,  
tử nê phong chiếu…” - Dịch “Năm Đinh Tỵ, niên hiệu  
Anh Vũ Chiêu Thắng (1077) lúc bấy giờ, ông (tức Thái  
phó Hà Di Khánh - TG) mới chỉ có 9 tuổi” [5, Tr115].  
Ngày xưa, tính tuổi, người ta thường hay tính cả tuổi mụ2.  
Như vậy, nếu tính theo tuổi Dương lịch (tuổi Tây), vào  
năm 1077, Hà Di Khánh mới chỉ có 8 tuổi, từ đó suy ra,  
ông sinh vào năm Kỷ Dậu (1069).  
Như vậy, quê gốc của Thái phó Hà Di Khánh là châu  
Ung, thuộc Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày  
nay. Theo văn bia thì từ vị cao tổ Hà Đắc Trọng đến thời  
Hà Di Khánh (cụ thể dựng bia năm 1107) là 8 đời. Như  
vậy, Họ Hà định cư tại Châu Vị Long đến đời Hà Di  
Khánh là khoảng 200 năm. Từ đó có thể thấy được rằng,  
thủy tổ của họ Hà di cư vào châu Vị Long vào đầu thế kỷ  
thứ X, tức khoảng năm 905 đến năm 920. Đó là thời kỳ  
loạn lạc ở Trung Quốc5. Vùng châu Ung, quê hương của  
họ Hà cũng không phải là ngoại lệ. “chắc hẳn là Hà Đắc  
Trọng đã di cư sang châu Vị Long vào khoảng thời gian  
này để tránh họa giặc giã tại cố hương” [6, Tr16].  
Năm 1082, vua Lý gả công chúa Khâm Thánh cho Hà  
Di Khánh và phong cho ông chức Tả Đại liêu ban3.  
Năm Ất Sửu (1085), thân phụ Hà Di Khánh qua đời,  
năm Bính Dần (1086), ông được thế tập cha giữ chức tri  
châu Vị Long. Giữ Tiết độ sứ4, Kim tử Quang lộc đại  
phu, Kiểm hiệu Thái p5, Châu mục6 châu Vị Long -  
Tức người cai quản toàn bộ công việc quân, dân, chính  
của châu Vị Long và phòng giữ vững chắc vùng biên giới  
phía Bắc của Tổ quốc.  
Theo văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc, thì tri châu Vị  
Long là Hà Di Khánh coi giữ 49 động, 15 huyện, dân  
chúng đều ấm no, thấm nhuần giáo lý tốt đẹp, hướng theo  
khuôn phép chung. Chúng ta đều biết Động là đơn vị hành  
chính ở vùng miền núi, thượng du vào thời bấy giờ, tương  
đương với đơn vị Hương ở đồng bằng, còn đơn vị hành  
chính Huyện ở vùng thượng du có lẽ nhỏ hơn đơn vị  
Huyện ở vùng đồng bằng, miền xuôi và nằm trong đơn vị  
hành chính Châu (trực thuộc Châu) thời bấy giờ.  
Họ Hà từ châu Ung (Trung Quốc) di cư sang Vị Long.  
Đến đời ông của Thái phó Hà Di Khánh được giữ chức  
Thái bảo6, lấy công chúa thứ ba của Thái Tổ Hoàng đế  
Lý Công Uẩn làm phu nhân. Nhân việc đó được vua Lý  
Thái Tổ giao giữ chức Hữu đại liêu ban1. Ông Bà nội của  
Thái phó sinh được bẩy người con, bốn con trai và ba con  
gái.  
Thân phụ của Thái phó là người chính trực, đại nghĩa,  
lấy đức trị dân. Theo văn bia viết “...Riêng thân phụ Thái  
phó là người thi hành nhân chính, làng xóm yên vui...”  
4 Châu Ung: Nay thuc tnh Qung Tây, trung Quc.  
5 Thi kNgũ đại Thp quc là thi khết sc lon lc Trung Quc,  
gic dã ni lên khp nơi.  
4
Tiết độ s: Là chc quan cao cấp đứng đầu vic quân và  
chính quyn của địa phương.  
6
Thái bo: Quan Nht phm trong hàng ngũ vó  
quan ca triu đình nhà Lý.  
1 Hu đại liêu ban: Theo quan chế triu Lý, đây là mt tưc phong cho  
các công thn ca triu đình.  
Theo văn bia, chức Tiết độ smà Thái phó Hà Di Khánh  
nm giữ được nhà Lý giao cho toàn quyn xtrí các công  
việc địa phương do mình quản gi.  
2 Tui m: Theo cách tính ctruyn, tui có ngay tlúc mi sinh ra,  
tính năm sinh đã là 1 tui.  
3
TĐi liêu ban: Là mt chc phong. Theo Lê Quý Đôn trong Kiến  
5 Kim hiu Thái phó: Là mt chc quan được phong trong thi gian  
chờ đợi được chính thc thphong.  
văn tiu lc nhng ngưi được phong tưc trên đều là nhng công thn.  
6 Châu mc: cũng tc là Tri châu.  
H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35  
Theo PSG. TS Nguyễn Minh Tường7 Châu Vị Long gồm số còn lại vội vã bỏ đồn trại tháo chạy về phía Ung Châu.  
49 động và 15 huyện như văn bia ghi chép chắc hẳn phải Âm mưu tiến đánh Đại Việt của nhà Tống bị phá sản.  
rộng hơn huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ngày nay  
Trong bia Bảo Ninh Sùng Phúc cũng viết rõ “Năm Ất  
khá nhiều” PGS cũng cho rằng: “Phạm vi châu Vị Long  
Mão, niên hiệu Thái Bình (1075), Thân phụ Thái phó chỉnh  
do Tri châu Hà Di Khánh Quản lý có thể bao gồm 3 huyện  
đốn vương sự, đánh sang ải Bắc. Vây thành Ung cho bỏ  
Chiêm Hóa, Na Hàng, Yên Sơn, một phần huyện Hàm Yên  
giận; bắt tướng võ, dâng tù binh. Do đó thân phụ Thái phó  
và Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày nay. Chỉ đứng đầu  
được vua ban chức Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ” [6,  
một vùng đất rộng như vậy thì Thái phó Hà Di Khánh mới  
tr73-74].  
được vua Lý Nhân Tông coi trọng và gả công chúa Khâm  
Với chiến công ấy, phụ thân ông được giữ chức Hữu  
Thánh, em gái vua, phong làm Phò Mã”[6, tr13].  
đại liêu ban, Đoàn luyện sứ. Có thể thấy, trong cuộc kháng  
2.2. Đóng góp của Hà Di Khánh đối với lịch sử dân  
chiến chống Tống, bên cạnh sự đóng góp của họ Thân, họ  
tộc thế kỷ XI - XII  
Vi ở Lạng Châu thì họ Hà ở Vị Long - Chiêm Hóa Tuyên  
Công lao đầu tiên và lớn nhất của Thái phó Hà Di  
Quang đã tích cực đóng góp công sức cho cuộc chiến.  
Khánh đối với lịch sử dân tộc và với vùng đất Vị Long  
Công lao thứ hai của Hà Di Khánh và cũng là cơ sở để  
(Chiêm Hóa, Tuyên Quang) là giữ vững và góp phần ổn  
tạo điều kiện cho ông góp phần giữ vững vùng biên ải phía  
định vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc.  
Bắc của Tổ quốc đó là ổn định về tình hình chính trị và  
Vào thời Lý, vùng biên cương phía Bắc nước ta là một  
vùng đất rộng, dài, suốt dải biên giới dài hơn 1000 km8 ấy chỉ  
phát triển kinh tế, nông nghiệp trong phạm vi châu Vị Long  
lúc bấy giờ.  
có đoạn Cao Bằng sang phía Đông là khá rõ ràng, còn về  
Do tư liệu chính thống đề cập đến quá ít ỏi, nhất là  
phía Tây thì chưa thật ổn định.  
những tư liệu ghi chép về lĩnh vực kinh tế của các vùng  
Nhận thức được tầm quan trọng của vùng đất biên  
biên viễn nói chung và vùng châu Vị Long nói riêng dưới  
viễn, khối đoàn kết dân tộc, trong lịch sử, các triều đại  
thời cai quản của Hà Di Khánh. Tuy vậy, thông qua những  
phong kiến Việt Nam luôn có những chính sách dân tộc  
tư liệu được ghi lại trong văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc, cho  
đối với các vùng, các dân tộc khác nhau, nhằm duy trì và  
phép chúng ta phần nào phác họa được đôi nét về đời sống,  
khẳng định quyền lực của nhà Vua đối với các dân tộc  
kinh tế của châu Vị Long dưới thời kỳ cai quản của Thái  
phó Hà Di Khánh trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ  
XI, đầu thế kỷ XII.  
thiểu số. Hướng tới mục đích củng cố và tăng cường nền  
thống nhất quốc gia.  
Năm Ất Mão đời Thái Ninh (1075), Trong cuộc kháng  
chiến chống quân xâm lược Tống của Lý Thường Kiệt,  
Mở đầu văn bia đã giới thiệu về vùng châu Vị Long  
phụ thân của Hà Di Khánh đã cầm quân sang đánh thành tri Vị Long châu, phụ ký lang, đô tri tả vũ vệ Đại tướng  
Ung Châu và lập công lớn, bắt được tướng giặc và tù binh.  
Trong chiến dịch Tiên phát chế nhân, nhà Lý đã huy động  
quân đội các dân tộc thiểu số sang đánh bằng đường bộ.  
Trong khi đại quân của triều đình do Lý Thường Kiệt chỉ  
huy đi thuyền, đổ bộ lên Liêm Châu, tiến đánh mặt sau  
Ung Châu. Ngày 27-10-1075 cuộc tiến công bắt đầu. Đạo  
quân của châu Vị Long cùng với quân đội của các vùng  
khác do các thủ lĩnh các dân tộc thiểu số chỉ huy chia thành  
nhiều mũi, phối hợp với quân đội triều đình bất ngờ tiến  
công vào toàn bộ đồn, trại của quân Tống dọc biên giới.  
Trước sự tấn công bất ngờ, táo bạo của quân ta, quân Tống  
không sao chống đỡ nổi, hàng ngũ rối loạn, số thì bị giết,  
quân, Kim tử quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Thái phó đồng  
Trung thư môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến  
nông sự, Thượng trụ quốc, thực ấp tam thiên cửu bách hộ,  
thực thực phong cửu bách hộ” [5, Tr. 109]. Dịch rằng “Tri  
7 PGS. TS Nguyn Minh Tưng hin công tác ti Vin Shc Vit  
Nam  
đường biên gii dưi nưc là 383.914 km (Theo Vũ Dương Ninh (2010),  
Đường biên gii trên đất lin gia Vit Nam và Trung Quc, Nxb Công  
an Nhân dân,H).  
8 Đường biên gii hin nay gia Vit Nam và Trung Quc có tng chiu  
dài là 1.449.566 km, trong đó đường biên gii trên blà 1.065.652 km,  
H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35  
châu Vị Long, Phò ký lang9 Đô tri tả vũ vệ Đại tướng quân, sự. Thượng trụ quốc, thực ấp 3.900 hộ, hưởng thực phong  
Kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó, Đồng trung 900 hộ” [5, Tr113].  
thư môn hạ Bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông  
Như vậy, qua văn bia cho chúng ta biết, ngoài việc  
được triều đình nhà Lý tin tưởng đặt nhiều chức quan, Hà  
Di Khánh còn được trao thêm chức Kiêm quản nội khuyến  
nông sự đó là chức quan trông coi công việc nông nghiệp  
tại Vị Long. Trong thời kỳ cai quản của mình, ông đã “cho  
dân cầy cấy theo phép Tỉnh điền10, thóc lúa ùn ùn như núi,  
khách khứa ba nghìn đông đúc, cửa nhà nhộn nhịp phố  
phường” [5,Tr115]. Trong văn bia, tác giả Lý Thừa Ân  
cũng ca ngợi Thái phó Hà Di Khánh thu thuế của dân rất  
nhẹ nên đã đóng góp cho việc kích thích kinh tế nông  
nghiệp phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng thịnh  
vượng. Cũng vì vậy mà Thái phó rất được lòng dân tại  
châu Vị Long.  
3. Kết luận  
Thái phó Hà Di Khánh, có thể nói là một nhà chính trị  
có tâm, ông đã có cái nhìn rộng và chiến lược khi dựa vào  
các nhà sư, mở mang Phật học đến dân chúng trong vùng  
và dạy chữ cho dân. Ông đã góp phần ổn định về tình hình  
chính trị và phát triển kinh tế nông nghiệp trong phạm vi  
Châu Vị Long lúc bấy giờ. Vì thế, trong thời kỳ cai quản  
của Thái phó Hà Di Khánh, đời sồng nhân dân bình yên và  
no đủ.  
Như vậy, có thể thấy rằng, Thái phó Hà Di Khánh  
có một sự nghiệp lớn lao, có công lao lớn đối với vùng  
châu Vị Long nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.  
Ông xứng đáng được tôn vinh là Danh nhân lịch sử của  
dân tộc Việt Nam nói chung và Tuyên Quang nói riêng.  
Công lao thứ 3 của Thái phó Hà Di Khánh chính là góp  
phần truyền bá văn hóa Phật giáo vào vùng Vị Long nói  
riêng và vùng biên viễn phía Bắc của Tổ quốc nói chung.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh Triều Lý, các vị vua  
tôn sùng đạo Phật. Nhiều lần vua Lý cho người sang nhà  
Tống xin kinh Phật. Số lượng chùa tháp được xây dựng  
tương đối lớn cũng đủ để thấy đạo Phật đã thấm sâu và rộng  
thế nào trong dân chúng.  
1. Đào Duy Anh (1983), Đất nước Việt Nam qua các  
đời, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.  
2. Bảo tàng Tuyên Quang, Lý lịch di tích chùa Bảo  
Ninh Sùng Phúc thôn Làng Tạc, xã Yên Nguyên, Chiêm  
Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lần thứ nhất ngày 22 - 2- 1997  
(Lí lịch di tích I) và lần 2 ngày 29 - 11- 2005 (Lí lịch di  
tích II).  
Sự tôn sùng đạo Phật của các vua nhà Lý cũng đã ảnh  
hưởng và có sức lan tỏa rất lớn đến tầng lớp quan lại và  
dân chúng. Phần lớn các chùa đều do vua, quan đứng lên  
xây dựng. Trong bối cảnh đó, Thái phó Hà Di Khánh cho  
xây dựng ngôi chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ngay tại châu Vị  
Long. Ông xây dựng chùa vào năm 1107. “Hẳn là vị tri  
châu Thái phó Hà Di Khánh thấy cần phải xây dựng chùa  
tháp để nhờ các nhà sư truyền dậy đạo Phật cho người  
dân trong bản châu mà ông cai quản” [6, tr21], vì ông biết  
3. Nguyễn Thị Phương Chi (2012), “Vai trò của  
những thủ lĩnh họ Hà đối với vùng đất Chiêm Hóa, Tuyên  
Quang”, Hội thảo Hội thảo khoa học về các danh nhân họ  
Hà châu Vị Long, Tuyên Quang và giá trị tấm bia Bảo  
Ninh Sùng Phúc, tr. 61-70.  
4. Ngô Sĩ Liêm (1981), Đại Việt sử ký toàn thư (tập  
rằng “Nước xây dựng trên đạo thì vững như cột đá; Dân 1), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.  
hấp thu giáo hóa thì xuôi như dòng sông” [6, tr115-116].  
5. Thích Đức Thiện, Đinh Khắc Thuân (2011), Văn  
Vào thế kỷ XI, XII, triều đại nhà Lý chỉ quan tâm đến bia chùa Phật thời Lý, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà  
giáo dục ở khu vực kinh thành. Giáo dục ở các địa phương Nội.  
không được Nhà nước quan tâm. Vì vậy, các ngôi chùa  
6. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2012), Hội  
của các làng ở nông thôn đồng bằng miền xuôi và những  
thảo khoa học về các danh nhân họ Hà châu Vị Long,  
ngôi chùa ở vùng miền núi đóng vai trò như một trung tâm  
Tuyên Quang và giá trị tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc. Kỷ  
văn hóa, giáo dục. Nhiều nhà sư mở lớp dậy chữ cho các  
yếu Hội thảo khoa học.  
tăng nhi và dân chúng ngay tại các chùa.  
9
Phò ký lang: Tc là chc Phò mã sau này, dùng để pong cho con rể  
hoc em rvua.  
còn khu ngoài để cho 8 nhà cày cy, 8 nhà này phi chung sc cy cy  
khu rung gia. Còn về đánh phép thuế thì c100 mu thì phi np  
thuế 10 mu (thuế thp nht).  
10  
Tnh đin: phép cy rung và phép đánh thuế ca nhà Chu (Trung  
Quc). Theo Đinh Khc Thuân trong Văn bia chùa Pht thi Lý: vcày  
rung thì đem 900 mu rung chia thành 9 khu, khu gia là rung công,  
Contribution of Thai Pho Ha Di Khanh  
for national history from the 11th to 12th century  
Hoang Thi Thu Dung,  
Tran Minh Tu  
Article info  
Abstract  
At persent, Bao Ninh Sung Phuc pagoda (Chiem Hoa district, Tuyen Quang province)  
is preserving the only ancient stele which belongs to to the northern mountainous  
provinces with era from the Ly dynasty. The stele contents are about Ha clan and  
their contributions for Vi Long in particular and the country in general from the 11th  
to 12th century, espeacially the great merit of historical hero Ha Di Khanh.  
Recieved:  
26/2/2020  
Accepted:  
10/6/2020  
Keywords:  
Contribution, Ha Di  
Khanh, national history  
pdf 6 trang yennguyen 21/04/2022 1000
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI-XII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_thai_pho_ha_di_khanh_doi_voi_lich_su_dan_toc_th.pdf