Hoằng Hóa - Đất học xưa và nay

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
HOẰNG HÓA - ĐẤT HỌC XƯA VÀ NAY  
TS. Tạ Thị Thủy 1  
ThS. Trần Thị Thanh 2  
Tóm tắt: Nằm ở hạ lưu sông Mã, Hoằng Hóa mang trong mình nhiều nét văn hóa  
truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, vùng đất này luôn được nhắc đến như là cái nôi của đất  
học, là vùng đất mà ở đó sự học luôn được tôn vinh, đề cao và ca ngợi. Nơi đây, mỗi gia đình,  
dòng họ đều ý thức sâu sắc vai trò của học vấn. Vùng quê này đã sản sinh ra nhiều nhân tài  
mà tên tuổi, sự nghiệp của họ được sử sách ghi danh, được nhân dân ngưỡng mộ. Truyền  
thống hiếu học đã được người Hoằng Hóa ra sức gìn giữ tạo thành một dòng chảy liên tục  
nối tiếp từ đời này sang đời khác.  
Từ khóa: Hoằng Hóa; truyền thống văn hóa; đất học; khoa bảng.  
1. Đất khoa bảng từ xa xưa  
Nếu như người xứ Thanh có quyền tự hào là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, tự hào là  
vùng đất sinh ra những vị trạng nguyên, nhân tài của đất nước thì đó chính là nhờ truyền  
thống hiếu học của người dân nơi đây. Do vậy, nhà sử học Lê Văn Lan đã đúc kết “Thanh  
Hóa là đất hiếu học”.  
Nói về truyền thống hiếu học của người xứ Thanh không thể không nhắc đến Hoằng  
Hóa - nơi được xem là trung tâm của sự học, của truyền thống trọng học.  
Hoằng Hóa là mảnh đất gắn bó máu thịt với tỉnh Thanh Hóa, với tổ quốc Việt Nam  
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Vùng đất ấy có những nét văn hóa truyền thống đặc  
trưng của dân tộc; mỗi khúc sông, mảnh ruộng, thửa vườn… đều in đậm dấu ấn lịch sử và văn  
hóa với những kỳ tích hào hùng của cha ông trong công cuộc xây dựng và đấu tranh giữ nước  
nhưng đồng thời cũng ẩn chứa những sắc thái riêng của một miền quê. Trong đó, hiếu học,  
trọng học đã trở thành một truyền thống văn hóa tốt đẹp mà mọi người dân Hoằng Hóa đều có  
quyền tự hào.  
Truyền thống hiếu học và khuyến học ở Hoằng Hóa đã hình thành nên những vùng đất  
học, những dòng họ khoa bảng, những danh nhân, những hiền tài của đất nước. Nơi đây có  
những vùng đất trở thành làng đại khoa như làng Nguyệt Viên, làng Bột Thượng, làng Bột  
Thái, làng Phượng Đình, làng Cát Xuyên, làng Quỳ Chữ… Đặc biệt, hai anh em Lưu Miễn và  
Lưu Diễn ở làng Nguyệt Viên cùng đỗ học vị cao, anh là Trạng Nguyên, em là Bảng Nhãn.  
Do vậy, dân gian Hoằng Hóa hiện nay còn lưu truyền câu phương ngôn:  
Nguyệt Viên mười tám ông nghè  
Ông cưỡi ngựa tía ông che tán vàng  
Có thể nói từ xưa đến nay, việc coi trọng sự học đã tạo nên bản sắc riêng cho làng  
Nguyệt Viên. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, hiếm có một làng quê nào trên dải đất  
hình chữ “S” lại có tới 18 người đỗ đầu trong các kỳ thi. Để có thể đỗ đại khoa là việc vô  
1 Khoa Văn hóa - Thông tin, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
2 Phòng Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
97  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
cùng khó khăn. Do vậy, làng chỉ cần có một người đỗ đại khoa đã là vinh dự. Tuy nhiên,  
nhiều làng ở Hoằng Hóa được mênh danh là “cái rốn của đại khoa” với nhiều người đỗ cao.  
Theo thống kê đỗ đại khoa nhiều nhất ở các làng sau:  
- Nguyệt Viên: 11 người;  
- Vĩnh Trị: 7 người  
- Bột Thái: 7 người  
- Bột Thượng: 5 người  
- Phù Quang: 3 người” [2; 254].  
Đỗ đại khoa, thì trong một gia đình, một làng (làng Nguyệt Viên) trong thời gian 7 năm  
có 2 hai anh em ruột Lưu Miễn và Lưu Diễn đều đỗ đạt học vị cao. Lưu Diễm đỗ thứ nhì đệ  
nhất giáp (tức Bảng Nhãn) khoa thi Thái học sinh năm Nhâm Thìn (1232) đời Trần Thái  
Tông. Bảy năm sau, năm Kỷ Hợi (1239) đời Trần Nhân Tông anh ruột ông là Lưu Miễn đỗ  
Đệ nhất giáp khoa thi Thái học sinh. Truyền thống kế thế đăng khoa ở đây vẫn được tiếp nối  
với các khoa thi sau. Năm Hồng Đức thứ 12 (1481) đời Lê khoa Tân Sửu, Hoằng Hóa có hai  
người cùng đỗ tiến sĩ là Nguyễn Nhân Lễ ở Bột Thượng (Hoằng Lộc) và Lê Duy Hàn ở Bái  
Cầu (Hoằng Tân). Tiếp đó, khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) có Trường Đức  
Quang ở xã Ngọc Quyết (Hoằng Tiến) và Lê Nhân Tế ở xã Đại Nhuệ nay là thôn Hồng Nhuệ  
xã Hoằng Thắng cùng đỗ tiến sĩ. Đặc biệt, ở Bột Thái (xã Hoằng Lộc) có hai cha con đỗ đại  
khoa đó là Nguyễn Sư Lộ đỗ tiến sĩ khoa Giáp Dần (1554) và con là Nguyễn Thứ đỗ Hoàng  
Giáp khoa Mậu Thân (1598).  
Ở Hoằng Hóa, số người đỗ đạt khi còn trẻ (dưới 18) rất nhiều như Lê Thiều ở Từ Minh  
đỗ khoa Canh Tý, niên hiệu Thái Bảo 1 (1720) đời Lê Dụ Tông; Lê Thúc Điền ở Sơn Trang  
(Hoằng Trung) cũng đỗ khoa trên; Nguyễn Lê Dược ở Vĩnh Trị (Hoằng Quang - nay thuộc về  
thành phố Thanh Hóa) và Nguyễn Đăng Doanh ở Đại Trung (tổng Bái Trạch) đỗ khoa Nhâm  
Tý, niên hiệu Long Đức 1 (1732) đời Lê Thuần Tông)… và còn rất nhiều những tên tuổi khác  
được xem như thần đồng của xứ Thanh.  
Đặc biệt có nhiều gia đình, anh em ruột cùng tham gia thi hương và cùng đỗ cử nhân  
cùng khoa như Vũ Duy Đoàn và Vũ Duy Hoàn ở Tử Đà nay là Cự Đà (Hoằng Minh) đỗ khoa  
Đinh Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh 15 (1717) đời Lê Dụ Tông; anh em nhà Nguyễn Bá Khải và  
Nguyễn Trọng Hoành ở Bột Thái (Hoằng Lộc) đỗ khoa Ất Mão, niên hiệu Long Đức 4 (1735)  
đời Lê Thuần Tông…  
Sách Địa chí văn hóa Hoằng Hóa: Đời Nguyễn theo Quốc triều khoa bảng lục của Cao  
Xuân Dục “có 38 khoa thi, Hoằng Hóa có 11 người đỗ tiến sĩ và phó bảng trong số toàn quốc  
558 người thi đậu. So với cả tỉnh, Hoằng Hóa có 48 người đỗ đại khoa trong số 204 người”  
[2; 247]. Về các kỳ thi hương số người đỗ của Hoằng Hóa luôn chiếm 1/3 và có đến 6 khoa  
thi, sĩ tử Hoằng Hóa đã chiếm ½ số người đỗ cử nhân tại trường thi Thanh Hóa. Có nhiều kỳ  
thi mà số giải người Hoằng Hóa chiếm phần lớn. Tính từ khi nhà Lý mở khoa thi đầu tiên cho  
đến hết thời Lê (1789) Hoằng Hóa có 37 người đỗ đại khoa so với cả tỉnh có 187 người. Còn  
về các kỳ thi hương “Trước năm Chính Hòa thứ 23 đời vua Lê Huy Tông thì không phân biệt  
được những ai đậu khoa nào. Còn từ khoa Nhâm Ngọ, niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702) cho  
98  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đến khoa Quý Dậu niên hiệu Tự Đức thứ 26 (1873), có 27 khoa thi trường thi Thanh Hóa gồm  
cả Ninh Bình lấy đỗ 1030 người thì Hoằng Hóa đã có 294 người trúng bảng chiếm gầm 1/3”  
[2; 246]. Không những vậy, có nhiều khoa thi, thí sinh Hoằng Hóa đậu cử nhân tỉ lệ rất cao.  
Cũng theo sách Địa chí văn hóa Hoằng Hóa thống kê: “Khoa Nhâm Ngọ (1702) lấy đỗ 43  
người, Hoằng Hóa trúng 13; Khoa Ất Dậu (1705) lấy đỗ 56 người, Hoằng Hóa trúng 13; Khoa  
Tân Mão (1711) lấy đỗ 12 người, Hoằng Hóa trúng 9; Khoa Bính Ngọ (1714) lấy đỗ 9 người  
Hoằng Hóa trúng 6…” [2; 247].  
Ở Hoằng Hóa, Hoằng Lộc còn được gọi bằng cái tên khác là vùng đất Trạng Quỳnh,  
việc học ở đây cũng được người dân niệm là một “nghề”: “Trai thời chiếm bảng đề danh/ Gái  
thời dệt vải vừa lanh vừa tài”. Với miền quê “phát tích” truyện Trạng Quỳnh và truyền thống  
hiếu học lâu đời, Hoằng Lộc gắn với nhiều tên gọi như “Đất Trạng Quỳnh”, “Đất hiếu học”…  
Gắn với truyền thống hiếu học của Hoằng Lộc là “Bảng Môn Đình”. Bảng Môn có nghĩa là  
cửa vào của các nhà khoa bảng. Bảng Môn Đình được xây dựng từ thời Lê (khoảng cuối thế  
kỷ XV). Đây không chỉ là nơi thờ Thành Hoàng làng mà còn là nơi quy tụ, vinh danh những  
người đỗ đạt thành tài của làng. Trở thành biểu tượng thiêng liêng của đất học, nơi hội tụ và  
biểu dương thành tích học tập của các sĩ tử nho sinh. Thời phong kiến, Hoằng Lộc có 12 vị  
tiến sĩ được đề danh trên bảng vàng đại khoa, trong đó có 7 vị được khắc tên tại Văn Miếu  
Quốc Tử Giám Hà Nội. Chúng ta cũng thấy có nhiều làng, nhiều dòng họ có truyền thống  
hiếu học đã được sử sách và gia phả lưu danh tương truyền. Thậm chí, có những làng còn có  
hương ước khuyến khích việc học của các con em trong làng.  
Với tinh thần “trọng khoa hơn trọng hoạn” (trọng đỗ đạt hơn trọng chức tước), vùng đất  
Hoằng Hóa đã tạo dựng được truyền thống khoa bảng thi thư độc đáo mà hiếm có vùng đất  
nào có. Do vậy, “kế thế đăng khoa” cha trước con sau, anh trước em sau, nhà nối nhà, dòng  
nối dòng khoa bảng không còn là chuyện lạ ở vùng đất này.  
2. Một số tấm gương hiếu học tiêu biểu - niềm tự hào của nhân dân Hoằng Hóa  
Truyền thống hiếu học có mặt ở nhiều nơi song ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có  
biểu hiện, mức độ khác nhau. Tuy có khác nhau như thế nào chăng nữa thì các thế hệ sĩ tử  
hiếu học cũng có điểm giống nhau, ở đấy, con đường tiến thân không xa rời lý tưởng của Nho  
giáo là giúp nước, giúp đời. Cái khác là ở chỗ: Hoằng Hóa việc học đã được nâng lên thành  
một triết lý đổi đời, thành tiêu chuẩn thiêng liêng đặc trưng cho gia đình, dòng tộc, xóm làng  
và phiên trấn. Nó trở thành động lực nâng đỡ cho các nỗ lực cá nhân để thành đạt bằng học  
vấn, vì thế, hiếu học dần dần trở thành một giá trị ở nơi đây.  
Ngoài 48 người đỗ đại khoa có tên trong bảng vàng, có học vị Bảng nhãn, Hoàng giáp,  
Tiến sĩ, Cử nhân… còn rất nhiều người học vấn uyên thâm nhưng họ không đi hoặc thi không  
đỗ bởi các lý do trường quy nên chỉ là ông đầu xứ, ông đồ dạy học… nhưng vẫn được nhân  
dân mến phục, ngợi ca. Có thể nói, những tấm gương hiếu học điển hình của Hoằng Hóa  
không kể hết, chúng tôi xin đưa ra một số tấm gương tiêu biểu mà tên tuổi của họ mỗi khi  
được nhắc tới luôn là niềm tự hào của người dân nơi đây.  
Lưu Diễm (có sách chép là Lưu Bính): ông là người mở đầu cho nền khoa bảng ở  
Hoằng Hóa và của cả Thanh Hóa. Ông quê làng Vĩnh Trị , tổng Từ Minh nay là thôn Vĩnh  
99  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Trị, xã Hoằng Quang (nay thuộc về thành phố Thanh Hóa). Ông đỗ thứ hai đệ nhất giáp (tức  
Bảng nhãn) khoa thi Thái học sinh năm Nhâm Thìn, niên hiệu Kiến Trung 8 (1232) đời vua  
Trần Thái Tông. Sách Luyệt huyện đăng khoa bị khảo ghi ông đỗ năm 22 tuổi, làm quan đến  
chức Đông các đại học sĩ. Ông là người thông minh, học giỏi, sách vở chỉ cần đọc lướt qua là  
có thể nhớ được.  
Lưu Miễn: quê Vĩnh Trị, phủ Hoằng Hóa nay là thôn Vĩnh Trị, xã Hoằng Quang (ông là  
anh trai của Lưu Diễm). Bảy năm sau khi em trai thi đỗ, Lưu Miễn lại thi đỗ đệ nhất giáp  
khoa thi Thái học sinh (tức Trạng nguyên) năm Kỷ Hợi niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 8  
(1239) đời vua Trần Thái Tông. Ông làm quan đến chức Tử Mã, An phủ xứ lộ Thanh Hóa,  
được nhà vua giao cho bồi đắp đê sông của các xứ Thanh Hóa. Đê sông Mã là do ông chỉ huy  
việc đào đắp. Các sách cũng đều chép lại ông là người sáng dạ, thông minh tài trí tuyệt vời.  
Lương Đắc Bằng: tên húy là Lương Ngạn Ích, tên chữ là Tử Lãng do ông có công trạng  
lớn lao nên được vua đổi thành tên Lương Đắc Bằng. Ông sinh năm 1475 ở xã Trác Vĩnh nay  
làng Hội Triều xã Hoằng Phong. Năm 1499 niên hiệu Cảnh Thống 2 đời vua Lê Hiến Tông,  
thi đình ông đậu Bảng nhãn sau đó làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các đại  
học sĩ.  
Bùi Khắc Nhất: quê xã Bột Thái nay là xã Hoằng Lộc, ông sinh năm 1533 là con trai cả  
của giám sinh Bùi Doãn Hiệp. Năm ông 25 tuổi thi đậu tam trường, 32 tuổi đậu hương cống,  
33 tuổi (1567) đậu tiến sĩ làm quan qua ba đời vua Lê Trung Hưng. Ông là người văn võ song  
toàn, từng đóng góp nhiều công sức cho triều đình. Với bốn mươi năm làm quan, trải qua tam  
triều lục bộ, ở ông luôn khẳng định một nhân cách lớn, luôn giữ trọn thanh danh bậc tôi trung.  
Nhiều việc làm của ông để lại danh tiếng muôn đời như cùng Phùng Khắc Hoan đi xứ Trung  
Quốc, dẹp giặc cướp bóc ở Nghệ An… Ông được nhân dân tôn làm phúc thần và sau được  
truy tặng Thượng đẳng thần và được phối thờ tại Bảng Môn Đình.  
Lê Viết Tạo: Nếu như Lưu Diễm là vị đại khoa đầu tiên của Thanh Hóa thì Lê Viết Tạo  
là vị đại khoa cuối cùng của tỉnh. Ông sinh năm Bính Tý (1876), người làng Nguyệt Viên, xã  
Hoằng Quang, đỗ giải nguyên khoa Kỷ Dậu (1909) triều vua Nguyễn Vĩnh San 3, niên hiệu  
Duy Tân 3. Đến năm 1919 khi 44 tuổi ông đỗ phó bảng khoa Kỷ Mùi dưới triều đại Nguyễn  
Hoằng Tông 4, niên hiệu Khải Định năm thứ 4, làm Thừa phái bộ hình và đây là khoa thi cuối  
cùng ở nước ta.  
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, giai đoạn nào ở vùng đất này cũng xuất hiện những  
hiền tài hiếu học, họ dấn thân vào chốn quan trường để hiến kế, lăn lộn ở chốn biên thùy để  
bảo vệ tổ quốc và đánh dẹp phản loạn ở trong nước. Các học trò học tập, dùi mài kinh sử để  
hy vọng có ngày đổi đời, vinh quy bái tổ. Ở mảnh đất này, học tập không hoàn toàn mang ý  
nghĩa là một nỗ lực của cá nhân người đi học mà là một kỳ vọng, mong chờ, là nỗ lực của cả  
công đồng. Cho nên, một người đỗ đạt thường làm rạng danh cho cả gia đình, dòng tộc, xóm  
làng. Dân gian có thể bảo học trò nghèo nhưng không bao giờ khinh dẻ, dè bỉu họ, vẫn có  
những cụ đồ nghèo mở lớp dạy tư với một tâm nguyện duy nhất là đời sau sẽ có những đồ đệ  
hơn mình, thi đỗ đạt làm quan, “hậu sinh khả úy”.  
100  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
3. Tiếp nối mạch nguồn hiếu học ngày nay  
Hoằng Hóa là một trong những vùng đất học tiêu biểu của xứ Thanh. Nơi đây, từ xưa đã  
có biết bao người vươn lên trên đói nghèo để theo đuổi sự học, trở thành những nhân tài hào  
kiệt, đóng góp công sức để xây dựng quê hương, đất nước. Truyền thống ấy cho tới nay càng  
được khơi dậy và phát huy, tạo thành một phong trào thi đua trên địa bàn toàn huyện. Phong  
trào thi đua xây dựng gia đình và dòng họ học từ lâu đã trở nên sôi nổi. Đặc biệt, từ khi huyện  
Hoằng Hóa có chủ trương về tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã  
hội học tập thì phong trào ngày càng có điều kiện lớn mạnh. Dù mỗi gia đình một hoàn cảnh  
khác nhau nhưng lại đều có chung một quan điểm, đó là sẵn sàng khắc phục khó khăn để nuôi  
dạy con cháu ăn học trưởng thành.  
Không phải ngẫu nhiên mà từ xa xưa đã lưu truyền câu thơ:  
“Hoằng Hóa diệu tham thiên chi bán  
Hội triều lưu vạn cổ chi phương”  
(Huyện Hoằng Hóa nổi tiếng giỏi nửa trời  
Đất hội triều hương thơm lưu muôn thuở)  
Qua thời gian, truyền thống hiếu học vẫn như một mạch nguồn xuyên suốt nhiều thế hệ  
người dân Hoằng Hóa. Ngày nay, truyền thống hiếu học trọng khoa bảng, trọng người tài vẫn  
được nhân dân Hoằng Hóa giữ gìn và phát huy cao độ trong các dòng họ. Đến nay, có hơn 10  
nhà giáo được nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú.  
Nhiều đơn vị được nhà nước tặng thưởng huân chương và bằng khen của chính phủ. Những  
thế hệ trẻ hôm nay của Hoằng Hóa vẫn luôn tiếp bước cha anh, phát huy truyền thống chói  
ngời trong học tập. Điều đáng tự hào là trong số các giải học sinh giỏi trong các kỳ thi quốc tế  
luôn xướng danh học sinh Hoằng Hóa với 5 học sinh đạt giải cao (Em Lê Ngọc Chuyên - xã  
Hoằng Anh giải ba cuộc thi Toán quốc tế tại Áo; Em Nguyễn Duy Hùng - xã Hoằng Thắng  
giải ba cuộc thi Hóa học quốc tế tại Cộng hòa Liên bang Nga năm 1996; Em Nguyễn Ngọc  
Hưng - xã Hoằng Phúc huy chương Đồng tại cuộc thi Olympic châu Á Thái Bình Dương năm  
1997; Em Nguyễn Phi Lê - xã Hoằng Lộc giải Nhì cuộc thi Olympic Toán quốc tế tại Hàn  
Quốc năm 2000; Em Lê Đình Hùng - xã HoằngTrạch giải Ba cuộc thi Toán quốc tế tại Mỹ  
năm 2001). Ngoài ra, còn hàng trăm học sinh khác đoạt giải quốc gia trong các kỳ thi chọn  
học sinh giỏi.  
Các thế hệ học sinh Hoằng Hóa hôm nay đang nối tiếp nhau, đều ý thức được truyền  
thống hiếu học là tài sản quý mà lớp người đi trước đã truyền lại. Các trường ở địa phương  
phấn đấu và đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài, đã chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục  
toàn diện với phương châm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Các ngôi trường như Trường  
Trung học Cơ sở Nhữ Bá Sĩ đã làm trọn vai trò là vườn ươm tài năng cho thế hệ trẻ nơi đây.  
Trường Trung học Phổ thông Lương Đắc Bằng và Trường Trung học Phổ thông Lê Viết Tạo  
nỗ lực vươn lên để khẳng định vị thế của một vùng đất học, đồng thời xứng danh là ngôi  
trường mang tên các danh nhân Hoằng Hóa. Tinh thần hiếu học trong gia đình, dòng họ tạo  
thành truyền thống hiếu học của cả huyện. Tinh thần hiếu học đó đã đi vào ca dao thành lời  
ru, điệu hát qua bao thế hệ, truyền tụng đến ngày nay: “Trai mỹ miều gắng công đèn sách/  
101  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Gái thanh tân chăm mạch cửi canh” làm động lực thôi thúc thế hệ trẻ giữ vững truyền thống  
ông cha.  
Hiếu học không hề tách rời tinh thần “Quân - Sư - Phụ”, “Muốn sang thì bắc cầu kiều/  
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Học trò cho dù đỗ đạt vinh quy hay trượt ngã trên con  
đường thi cử đều chí khí ngang tàng, kính thầy và trọng đồng môn. Tiếp nối truyền thống của  
cha ông, lớp con cháu Hoằng Hóa vẫn giữ tinh thần tôn sư trọng đạo. Bên cạnh các nhà giáo  
được phong tặng các danh hiệu cao quý thì cũng có những thầy giáo đem cả trí lực và tâm  
huyết của mình ra dạy học trò để có những giải thưởng tại các kỳ thi quốc tế như thầy giáo Lê  
Văn Hoành (xã Hoằng Trạch) có học sinh đạt giải học sinh giỏi Vật lý quốc tế (1987). Thầy  
giáo Nguyễn Văn Hưng (Hoằng Lộc) có học sinh đạt giải tại kỳ thi học sinh giỏi Toán  
quốc tế… Ngoài ra, còn nhiều thầy giáo có học sinh đoạt giải tại các kỳ thi học sinh giỏi  
quốc gia.  
Danh xưng Hoằng Hóa - đất học thực sự đã trở thành nguồn động lực thôi thúc để lớp  
lớp con cháu mãi phát huy truyền thống rạng danh này. Với 48 gương sáng của các vị đại  
khoa, 470 vị trung khoa (thời phong kiến) và hiện nay với hàng trăm người có học vị tiến sĩ,  
học hàm PGS, GS là những minh chứng cho truyền thống hiếu học nơi đây. Tại Bảng Môn  
Đình vẫn còn lưu bức đại tự lớn với dòng chữ “Địa linh nhân kiệt” đề cao truyền thống văn  
hiến của làng, nhắc nhở kẻ sĩ giữ vững khí tiết:  
Địa vị quân tử hương, thanh danh sở tụy  
Nhân tại văn hiến ấp, phong tiết từ trì”.  
(Đất sinh người quân tử tiếng tăm tụ hội  
Người ở làng văn hiến khí tiết vững bền).  
Trải qua hàng nghìn năm lao động sáng tạo, xây dựng xóm làng quê hương của bao thế  
hệ người Hoằng Hóa đã hun đúc những giá trị lịch sử văn hóa giàu bản sắc. Cũng như bao giá  
trị truyền thống khác, tinh thần hiếu học cần được quan tâm và gìn giữ để hướng tới một xã  
hội học tập. Đặc biệt, tinh thần hiếu học không mâu thuẫn với đổi mới giáo dục đào tạo hiện  
đại, với định hướng xây dựng các cộng đồng học tập, các cá nhân học tập suốt đời, vì bao giờ  
chân lý “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh và thịnh,  
nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy” luôn đúng.  
Hiếu học, trọng học là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tục ngữ Việt Nam có câu “Cho  
ruộng cho tiền không bằng cho nghiên cho bút”. Như vậy, tinh thần hiếu học chính là sản  
phẩm phản ánh quá trình các cá nhân, xã hội trong những giai đoạn lịch sử đề cao việc học và  
con đường tiến thân bằng học vấn. Cùng với những người con ưu , Hoằng Hóa đã hun đúc  
nên truyền thống hiếu học - một biểu hiện của sự khát khao tri thức rất tự nhiên của con người  
và là một trong những đức tính cao quý nhất của con người.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. Đào Duy Anh (1962), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Sử học, Hà Nội  
[2]. Ninh Viết Giao (2000), Địa chí văn hóa Hoằng Hóa, Nxb Khoa học Xã hội.  
[3]. Nguyễn Văn Năm (2007), Đạo học với truyền thống tôn , Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
102  
pdf 6 trang yennguyen 21/04/2022 1640
Bạn đang xem tài liệu "Hoằng Hóa - Đất học xưa và nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoang_hoa_dat_hoc_xua_va_nay.pdf