Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
Bài nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai  
Đoàn Thị Mỹ Hạnh1,*, Mã Bích Tiên2  
TÓM TẮT  
Bến Tre là điểm đến mới nổi trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và được biết đến là ``Xứ Dừa  
của Việt Nam''. Số lượt khách đến Bến Tre hằng năm liên tục tăng nhưng doanh thu trung bình trên  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
lượt khách còn khá thấp so với những điểm đến khác. Hiện tại, sản phẩm du lịch của Bến Tre chủ  
yếu là Du lịch nông nghiệp (DLNN), hầu hết được cung cấp bởi các điểm sản xuất nông nghiệp  
truyền thống. Rất ít điểm DLNN thực hành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Khách DLNN  
đến Bến Tre chủ yếu là từ TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Do quy mô nhỏ các điểm kinh doanh  
DLNN hiện chưa có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn và cao cấp. Nhằm mục tiêu nhận diện các  
mô hình kinh doanh DLNN hiện tại ở Bến Tre từ đó đề xuất các mô hình liên kết kinh doanh trong  
tương lai, phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng để thực hiện nghiên cứu này. Dữ liệu  
được thu thập bằng kỹ thuật quan sát tham gia kết hợp phỏng vấn trực tiếp tại Khu du lịch Phú An  
Khang, Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn sầu riêng Bảy Thảo và Hợp tác xã Du lịch sinh  
thái cộng đồng Thạnh Phong. Nghiên cứu đề xuất trong tương lai Bến Tre nên liên kết các điểm  
DLNN theo mô hình liên kết ngang để có điều kiện thuận lợi tiến hành các hoạt động xúc tiến sản  
phẩm vào các thị trường mới có quy mô lớn và cao cấp. Mô hình liên kết ngang nên triển khai là  
mô hình Hiệp hội tương tự như "Bienvenu à la ferme" (Pháp) và mô hình Tổng công ty tương tự như  
Tổng công ty Marahastra (Ấn Độ) vì Bến Tre đang có những điều kiện tương đồng để hình thành  
và phát triển.  
Từ khoá: Bến Tre, du lịch nông nghiệp, liên kết ngang, mô hình kinh doanh  
năng tiếp cận điểm đến DLNN đã trở nên dễ dàng  
hơn và cơ sở vật chất ở nhiều vùng nông thôn đủ điều  
kiện đáp ứng yêu cầu phục vụ du khách.  
Bến Tre nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long  
GIỚI THIỆU  
Du lịch nông nghiệp (DLNN) là phân khúc thị trường  
có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng  
chung của thị trường du lịch toàn cầu, mở ra cơ hội  
1Trường Đại học Văn Hiến, Việt Nam  
2Trường Đại học Văn Lang, Việt Nam  
cách TP. Hồ Chí Minh 85 km, và cách TP. Cần ơ  
120 km nên có lợi thế về vị trí so với các điểm đến  
khác. Tuy nhiên lợi thế này sẽ dần mất đi khi hạ tầng  
giao thông của toàn vùng phát triển, khoảng cách sẽ  
không còn là rào cản đối với việc tiếp cận các điểm  
đến khác xa hơn. Điểm khác biệt độc đáo của Bến  
Tre là có không gian vườn dừa rộng lớn và ẩm thực từ  
dừa phong phú nên được mệnh danh là “Xứ Dừa của  
Việt Nam. Những năm gần đây, số lượt khách đến  
Bến Tre liên tục tăng, năm 2018 đạt 1.574.128 lượt,  
tăng 22% so với năm trước; tổng thu từ du khách đạt  
khoảng 1.329 tỷ đồng, tăng 26% so với năm trước3.  
Doanh thu trung bình trên lượt khách còn khá thấp,  
chỉ hơn 800.000 đồng/lượt trong khi con số này của  
cả nước là khoảng 6.670.000 đồng.  
cho các vùng sản xuất thuần nông chuyển dịch cơ cấu  
kinh tế. Dự báo thời kỳ 2019 - 2023 DLNN toàn cầu  
sẽ tăng trưởng với tốc độ 18%, tức tăng 1,34 tỷ USD  
và quy mô toàn thị trường sẽ đạt 54,63 tỷ USD. Năm  
2018, Bắc Mỹ là nơi dẫn đầu trên thị trường DLNN  
nhưng dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn các khu vực  
khác trong thời kỳ 2019 - 20231. Châu Âu là nơi  
DLNN phát triển từ những năm 1960, đến nay các  
quốc gia cung cấp dịch vụ này như Ý, Áo, ụy Sĩ,  
Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Bồ Đào  
Nha bắt đầu lo ngại DLNN sẽ làm ảnh hưởng đến chất  
lượng cuộc sống của cư dân2. Do đó khu vực này sẽ có  
xu hướng nhắm vào những thị trường cao cấp để hạn  
chế số lượt khách nhưng vẫn tăng được doanh thu.  
Ở khu vực châu Á, ở các quốc gia như Ấn Độ, ái  
Lan… DLNN đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm  
quốc gia và được chính phủ thúc đẩy phát triển thông  
qua các chương trình phát triển nông thôn. Ở Việt  
Nam, DLNN là một sản phẩm còn khá mới nhưng  
đang có điều kiện phát triển thuận lợi. Nhờ vào thành  
Liên hệ  
Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Trường Đại học Văn  
Hiến, Việt Nam  
Email: hanhdtm@gmail.com  
Lịch sử  
Ngày nhận: 7/7/2020  
Ngày chấp nhận: 23/12/2020  
Ngày đăng: 15/1/2020  
DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.630  
Bản quyền  
Ban đầu sản phẩm du lịch của Bến Tre chỉ là tham  
quan vườn cây ăn trái, đi tàu trên sông và nghỉ ở  
nhà dân với các điểm du lịch ở huyện Châu ành,  
Chợ Lách. Đến nay đã có thêm nhiều điểm ở các  
huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, ạnh Phú và  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
tựu của chương trình xây dựng nông thôn mới, khả sản phẩm phát triển khá đa dạng. Khách DLNN đến  
Trích dẫn bài báo này: Hạnh D T M, Tiên M B. Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và  
tương lai. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):814-822.  
814  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
đây thường là từ TP. Hồ Chí Minh và các địa phương hoạt động sản xuất nông nghiệp bên ngoài nông trại5.  
lân cận, thời gian lưu trú ngắn chỉ một đêm hoặc eo cách giải thích này thì DLNN và du lịch nông  
trong ngày. Sở dĩ các điểm DLNN ở Bến Tre chưa  
tiếp cận được các thị trường xa, quy mô lớn và cao  
cấp hơn là do từng điểm hoạt động riêng lẻ chưa thể  
thực hiện các chương trình xúc tiến ấn tượng. Mặt  
khác sức chứa hạn chế của từng điểm không cho phép  
đón những đoàn khách số lượng lớn. Từ thực tế đó,  
nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu nhận  
diện các mô hình kinh doanh DLNN hiện tại ở Bến  
Tre và đề xuất các mô hình liên kết phù hợp để có điều  
kiện đưa sản phẩm vào các thị trường mới xa hơn, lớn  
hơn hoặc/và cao cấp hơn với kỳ vọng DLNN Bến Tre  
tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn và nâng cao doanh  
thu trung bình/ lượt khách trong tương lai.  
trại có khác nhau về phạm vi không gian trải nghiệm.  
Mô hình kinh doanh DLNN cũng là khái niệm chưa  
đạt được sự đồng thuận. Một điểm đón khách DLNN  
phải là một nông trại đang có hoạt động sản xuất nông  
nghiệp thực s47 hay có thể là một cơ sở mô phỏng  
hoạt động sản xuất nông nghiệp? Liệu một di sản  
trang trại, một vườn ươm, một trung tâm nghiên cứu  
nông nghiệp… và thậm chí là cơ sở phi nông nghiệp  
có phải là điểm DLNN?5.  
Tương tự như những vùng sản xuất nông nghiệp khác  
ở Việt Nam, phần lớn hộ nông dân ở Bến Tre sở hữu  
đất nông nghiệp với diện tích rất nhỏ so với các nông  
trại ở châu Âu hay các quốc gia khác. Từ thực tế đó,  
nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng DLNN  
phải là chuyến đi đến những nơi có hoạt động sản  
xuất nông nghiệp thực sự được gọi chung là nông trại,  
không phân biệt DLNN với du lịch nông trại. Mục  
đích của chuyến đi là tham gia, quan sát hoặc học hỏi  
và do đó hình thành ba nhóm là khách nghỉ dưỡng,  
khách trải nghiệm và khách học hỏi8. Du khách có  
thể tiếp xúc với hoạt động nông nghiệp theo cách trực  
tiếp, gián tiếp hoặc thụ động5. Trong trường hợp tiếp  
xúc trực tiếp, du khách được trải nghiệm đích thực  
các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại khuôn viên  
dành riêng hoặc tham gia vào các công việc chung của  
nông trại. Nông trại hữu cơ có thuận lợi để cung cấp  
dịch vụ loại này vì còn có những công việc cần đến lao  
động giản đơn. Du khách có thể làm việc để có chỗ  
ở và thực phẩm và đóng góp vào kết quả sản xuất của  
nông trại. Trong thực tế khách trải nghiệm DLNN  
đích thực là khá ít, đa phần là tiếp xúc trực tiếp với  
các hoạt động nông nghiệp đích thực nhưng ít nhiều  
có dàn dựng. Du khách đến nông trại đang sản xuất  
cũng có thể chỉ tiếp xúc với hoạt động nông nghiệp  
thụ động như ngắm cảnh quan nông trại, nghỉ đêm và  
ăn sáng. Trường hợp du khách tiếp xúc gián tiếp với  
các hoạt động nông nghiệp là qua di sản nông nghiệp  
hay hình ảnh còn đang tranh luận là liệu đây có phải  
là DLNN hay là du lịch nông thôn.  
CƠ SỞ LÝ THUYẾT  
Du lịch nông nghiệp và các mô hình kinh  
doanh  
Du lịch nông nghiệp (agritourism) xuất hiện từ đầu  
thế kỷ XX và đã nhanh chóng lan rộng trên toàn thế  
giới4. Ở châu Âu, DLNN xuất hiện từ những năm  
1960, qua quá trình 60 năm phát triển đến nay đã hình  
thành những mạng lưới rộng lớn, mỗi mạng lưới tập  
hợp đến vài ngàn điểm đón khách là các trang trại hay  
nông trại được gọi chung là nông trại trong nghiên  
cứu này. Trong vòng 10 năm gần đây, DLNN phát  
triển mạnh mẽ ở các vùng còn lại trên thế giới, được  
coi là cách để xóa đói giảm nghèo. Tuy vậy DLNN là  
thuật ngữ vẫn còn nhiều tranh luận trong giới nghiên  
cứu du lịch.  
Những điểm còn đang tranh luận liên quan đến các  
thành phần trong sản phẩm, mô hình kinh doanh và  
cả về thuật ngữ du lịch. Liệu du lịch có nhất thiết  
phải là thực hiện một chuyến đi khỏi nơi cư trú hay  
không? Liệu các hoạt động trải nghiệm tại nơi cư trú  
như tham gia các lễ hội truyền thống, các hoạt động  
ẩm thực có thể được xem là trải nghiệm du lịch hay  
không? Cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,  
hành vi tiêu dùng của du khách cũng thay đổi và hình  
thành nên những xu hướng thị trường mới nên định  
nghĩa du lịch cũng cần được mở rộng hơn cho phù  
hợp với sự thay đổi đó.  
Mô hình kinh doanh DLNN trước đây hầu như phải  
gắn với cộng đồng dân cư địa phương vì DLNN không  
thể tách rời văn hóa nông nghiệp và văn hóa làng quê.  
Những năm gần đây xuất hiện mô hình DLNN dựa  
vào vốn. Đó là các nông trại nông nghiệp công nghệ  
cao, với kỹ thuật và công nghệ sản xuất khác với nông  
nghiệp truyền thống. Du khách đến các điểm này  
được tiếp xúc trực tiếp với hoạt động nông nghiệp  
thường là có dàn dựng vì có đông người tiếp xúc khó  
DLNN là một trong những sản phẩm đáp ứng nhu  
cầu của thị trường khách chọn lọc. Trong khi Du  
lịch nông thôn và DLNN được phân biệt rõ ràng thì  
DLNN và du lịch nông trại có khác nhau hay không  
vẫn còn là vấn đề đang tranh luận. Du lịch nông thôn  
bao gồm tất cả các hoạt động trải nghiệm diễn ra ở  
vùng nông thôn có thể là rừng, núi, biển trong khi du  
lịch nông trại chỉ giới hạn các hoạt động trong khuôn tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật canh tác, ảnh hưởng đến  
viên của nông trại và DLNN bao gồm cả trải nghiệm các tiêu chuẩn chất lượng và sản lượng.  
815  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
Trong nghiên cứu này DLNN là chuyến đi đến nơi có Mạng lưới “Bienvenue à la ferme” ở Pháp là một  
hoạt động sản xuất nông nghiệp để tiếp xúc trực tiếp trường hợp thành công của mô hình liên kết ngang  
theo cách chủ động hoặc thụ động với các hoạt động dạng Hiệp hội. Mạng lưới này do Phòng Nông nghiệp  
đó nhằm trải nghiệm nghề nông và cuộc sống của nhà Pháp thành lập vào năm 1988 với 83 thành viên. Đến  
nông. Điểm du lịch nông nghiệp là nơi có hoạt động  
sản xuất nông nghiệp thật sự, có nông sản bán ra thị  
trường không phân biệt là nông nghiệp truyền thống  
hay công nghệ cao và không bao gồm hình thức tiếp  
xúc gián tiếp. Do đó các khu vui chơi giải trí ở đô thị  
có mô phỏng hoạt động sản xuất nông nghiệp, các di  
sản nông nghiệp, các cơ sở nghề truyền thống chế biến  
nông sản hay nhà dân ở nông thôn chỉ kinh doanh  
dịch vụ lưu trú và ăn uống không thuộc phạm vi của  
nghiên cứu này.  
năm 2018, mạng lưới đã có hơn 8.000 nông trại thành  
viên, trong đó 20% là nông trại DLNN, 53% bán trực  
tiếp sản phẩm cho khách du lịch và 27% vừa cung cấp  
dịch vụ DLNN vừa bán trực tiếp sản phẩm cho khách  
du lịch. Sau 30 năm hình thành và phát triển “Bienv-  
enue à la ferme” là mạng lưới số 1 về số lượng thành  
viên ở Pháp với doanh số đạt gần 1 tỷ euro và có 43%  
nông trại thành viên đạt 75% thu nhập từ hoạt động  
cung cấp dịch vụ cho mạng lưới11. am gia mạng  
lưới các nông trại thành viên được yêu cầu gắn logo  
của mạng lưới như là cam kết với du khách về chất  
lượng các dịch vụ được cung cấp. Mỗi thành viên  
phải ký cam kết chỉ bán những sản phẩm chất lượng  
hàng đầu, cung cấp cho du khách sự tiếp đón riêng  
và chuyên nghiệp, duy trì tốt môi trường xung quanh  
và đồng ý trở thành đại sứ của nông nghiệp có trách  
nhiệm và bền vững bắt nguồn từ sự tôn trọng trái đất.  
Các Ủy viên hội đồng chính quyền địa phương hỗ trợ  
và quản lý các nông trại hoạt động theo chuẩn chất  
lượng quy định. Mạng lưới đã thiết lập một trang web  
cho phép người tiêu dùng tìm kiếm để mua các sản  
phẩm hoặc đặt chỗ và một ứng dụng di động sử dụng  
GPS để giúp người dùng tìm vị trí, sản phẩm và dịch  
vụ của nông trại. Mạng lưới cũng tham dự nhiều triển  
lãm thương mại nông nghiệp và thực phẩm, xuất bản  
tờ rơi và tổ chức thăm nông trại12. Như vậy, sự hỗ trợ  
của chính quyền địa phương là rất cần thiết để phát  
triển mô hình liên kết dạng Hiệp hội.  
Tổng công ty DLNN Maharashtra, ở Ấn Độ được  
thành lập vào tháng 7/2005 với dự án DLNN thí điểm  
tại Baramati. Sau khi dự án thành công Tổng công ty  
đã mở rộng hoạt động bằng cách cho các chủ trang  
trại ở Maharashtra đăng ký tham gia cung cấp dịch vụ  
DLNN theo chuẩn của Tổng công ty. Đến nay Tổng  
công ty đã xây dựng được mạng lưới 152 nông trại  
được gọi là Trung tâm DLNN. Các Trung tâm được  
cung cấp các hướng dẫn và chương trình đào tạo để  
điều hành hoạt động. Tổng công ty bán tour và giữ lại  
30% doanh thu để trang trải chi phí quản lý, quảng cáo  
và khuyến mãi13. Vi mô hình Tổng công ty những  
người quản lý có trình độ quản lý chuyên nghiệp, có  
tầm nhìn rộng, tự nguyện dấn thân vào lĩnh vực kinh  
doanh DLNN nên điều hành hiệu quả hoạt động của  
mạng lưới liên kết. Vtính cộng đồng thì đây có thể  
coi là mô hình nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng  
Liên kết kinh tế và mô hình liên kết Du lịch  
nông nghiệp  
Liên kết kinh tế có ba kiểu là liên kết theo chiều ngang,  
chiều dọc và khối hay vùng lãnh th9,10. Liên kết theo  
chiều ngang là trường hợp các doanh nghiệp kinh  
doanh cùng loại sản phẩm liên kết với nhau trong  
tiêu thụ sản phẩm. Liên kết theo chiều dọc là khi các  
doanh nghiệp trong cùng một ngành liên kết để thực  
hiện từng phần của sản phẩm. Liên kết khối hay vùng  
lãnh thổ là liên kết không nhất thiết phải cùng loại sản  
phẩm hay cùng ngành.  
Mỗi kiểu liên kết đều mang lại lợi ích cho các thành  
viên tham gia mà lợi ích cơ bản là có lợi thế hơn  
các doanh nghiệp riêng lẻ. Liên kết dọc giúp doanh  
nghiệp thành viên tiết kiệm chi phí đầu vào. Liên kết  
ngang giúp doanh nghiệp thành viên được hưởng lợi  
nhờ hiệu quả theo quy mô và nâng cao khả năng tiếp  
cận thị trường. Liên kết khối hay vùng lãnh thổ sẽ  
giúp doanh nghiệp được hưởng lợi ích của cả liên kết  
dọc và liên kết ngang10. Do đó liên kết giữa các nhà  
sản xuất nhỏ được khuyến khích ở nhiều quốc gia.  
Trong lĩnh vực DLNN, trên thế giới đã có nhiều hình  
thức liên kết khác nhau từ đơn giản đến rất tiên tiến.  
Mạng lưới DLNN dạng Hiệp hội là một hình thức liên  
kết tiên tiến theo chiều ngang hoạt động vì lợi ích của  
nông dân tham gia kinh doanh DLNN. Một mạng lưới  
như vậy có thể chỉ thực hiện một vài hoạt động như  
quảng cáo trên mạng internet, qua tờ rơi, tạo cơ hội  
hợp tác, đào tạo và thu thập thông tin, tổ chức hội nghị  
hoặc tiến hành nghiên cứu chung10. Đó là những  
hoạt động mà một điểm DLNN riêng lẻ với quy mô  
nhỏ khó tự triển khai vì không đủ khả năng tài chính  
và nhân lực. Tuy nhiên để mạng lưới liên kết ngang  
hoạt động thành công, thực sự mang lại lợi ích cho  
các thành viên thì điều quan trọng là phải xây dựng đồng. Mặc dù hình thức là Tổng công ty nhưng đây  
được đội ngũ quản lý chuyên nghiệp áp dụng phương cũng là mô hình liên kết ngang do tư nhân quản lý  
pháp quản lý tiên tiến và sử dụng hiệu quả các công điều hành kinh doanh. Một Tổng công ty có thời gian  
cụ quản lý hiện đại.  
hoạt động chỉ 15 năm đã xây dựng được hệ thống tiêu  
816  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
chuẩn sản phẩm, tỷ lệ phân chia thu nhập, phát triển  
được mạng lưới với 152 nông trại thành viên và thị  
trường tiêu thụ tương ứng với năng lực cung cấp là  
một trường hợp thành công có thể được coi là một  
mô hình liên kết kinh doanh DLNN thành công.  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Mặc dù là điểm đến DLNN mới nổi nhưng mô hình  
điểm DLNN ở Bến Tre khá phong phú. Các mô hình  
điểm DLNN dựa vào cộng đồng có thể chia thành ba  
loại là cả cộng đồng tham gia, một vài hộ trong cộng  
đồng tham gia và nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng  
đồng. Mô hình DLNN dựa vào vốn hoạt động không  
gắn với cộng đồng nhưng vẫn là một nông trại thật  
sự. Hai điểm khác biệt cơ bản giữa nông trại nhà đầu  
tư bên ngoài dựa vào cộng đồng và nông trại dựa vào  
vốn là từ kỹ thuật công nghệ sản xuất và nguồn nhân  
lực.  
Điểm du lịch theo mô hình dựa vào vốn vận hành quy  
trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng lao  
động chuyên nghiệp có thể từ nơi khác đến. Khu du  
lịch Phú An Khang là một điểm như vậy. Dưa lưới,  
rau củ quả được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, vừa  
bán trực tiếp cho du khách vừa bán ra thị trường TP.  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Phương pháp phân tích định tính được sử dụng để  
thực hiện nghiên cứu này. Dữ liệu được thu thập  
trong năm 2019 bằng kỹ thuật quan sát kết hợp phỏng  
vấn sâu một đối một tại bốn điểm kinh doanh DLNN  
đại diện cho bốn kiểu mô hình vận hành. Đó là Khu  
du lịch Phú An Khang (xã Bình Phú, TP. Bến Tre),  
Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ (xã Tân Mỹ,  
huyện Bình Đại), Vườn sầu riêng Bảy ảo (xã Vĩnh  
ành, huyện Chợ Lách), Hợp tác xã Du lịch sinh  
thái cộng đồng ạnh Phong (xã ạnh Phong, huyện  
ạnh Phú). Bốn điểm này được chọn qua tham khảo  
tổng quan tài liệu của Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh  
Bến Tre, các trang giới thiệu của các điểm du lịch và Hồ Chí Minh. Du khách đến đây được tiếp xúc trực  
khảo sát thực địa sơ bộ. Quan sát được thực hiện tại  
mỗi điểm ít nhất hai lần, một lần trong vai du khách  
quan sát không để quản lý và nhân viên biết đang thực  
hiện nghiên cứu và một lần cho đối tượng được quan  
sát biết đang thực hiện nghiên cứu. Số lần quan sát  
và trình tự tùy vào thực tế tiếp cận từng điểm. Dù  
quan sát có cho biết hay không cho biết đang thực  
hiện nghiên cứu, phỏng vấn một đối một quản lý và  
nhân viên tại điểm đều được tiến hành nhằm thu thập  
thông tin về cách thức vận hành điểm du lịch. Do  
đặc thù của DLNN coi giao lưu giữa chủ nhà/quản  
lý/nhân viên với khách du lịch là một hoạt động trong  
sản phẩm được cung cấp nên việc thu thập thông tin  
qua kênh này là khá dễ dàng.  
Tại HTX Du lịch sinh thái cộng đồng ạnh Phong,  
có bốn lần quan sát đã được thực hiện ở hai nhà là nhà  
chị Bảy và nhà chị Nga theo trình tự lần một tự tiếp  
cận trong vai khách du lịch và lần hai tiếp cận qua giới  
thiệu của Ban quản lý Khu du lịch di tích đường Hồ  
Chí Minh trên biển huyện ạnh Phú và cán bộ văn  
hóa xã ạnh Phong. Tại điểm Vườn sầu riêng Bảy  
ảo cũng theo trình tự như ở ạnh Phong nhưng  
cả hai lần đều tự tiếp cận. Vi Khu du lịch Phú An  
Khang trình tự ngược lại do có cơ hội tiếp cận phỏng  
vấn Giám đốc điều hành Khu du lịch tại một hội thảo  
xúc tiến du lịch của địa phương nên quan sát thực địa  
trong vai khách du lịch kết hợp với phỏng vấn nhân  
viên được tiến hành sau. Tại Nông trại Hải Vân – Sân  
chim Vàm Hồ thông tin thu thập được từ các lần trực  
tiếp tư vấn chiến lược phát triển cho Giám đốc công  
ty TNHH Du lịch sinh thái Hải Vân là công ty sở hữu  
điểm du lịch này và những lần đưa khách đến đây  
trải nghiệm trong khoảng thời gian từ khi mở cửa vào  
tháng 3 năm 2016 đến cuối năm 2019.  
tiếp với hoạt động nông nghiệp theo cách chủ động  
qua các hoạt động hướng dẫn kỹ thuật trồng rau sạch,  
trái cây sạch theo kỹ thuật hiện đại, được tự tay trồng  
cây, hái trái cây. Ngoài ra còn có “Vườn cây online” để  
du khách theo dõi từ xa quá trình sinh trưởng những  
cây thuộc quyền sở hữu của mình.  
Điểm du lịch theo mô hình nhà đầu tư bên ngoài  
dựa vào cộng đồng vận hành quy trình sản xuất nông  
nghiệp truyền thống, sử dụng lao động là cư dân trong  
cộng đồng. Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ  
hoạt động theo mô hình này. Các loại cây trái như  
Bưởi da xanh, mít, đu đủ, thanh long, mận, ổi… và rau  
được trồng sạch theo cách truyền thống. Sản phẩm  
thu hoạch được phần lớn dùng phục vụ bữa ăn và bán  
cho du khách mang về, phần còn lại bán ra thị trường.  
Những loại thực phẩm nông trại không tự sản xuất  
được mua từ các nhà dân lân cận như gà, tôm, cá,  
hến… Nhà đầu tư trực tiếp quản lý điều hành và tất  
cả nhân viên làm việc trong nông trại đều là cư dân tại  
chỗ. Một số là giáo viên trường tiểu học, trung học cơ  
sở tại địa phương luân phiên tham gia vào quy trình  
cung cấp sản phẩm du lịch giáo dục cho du khách là  
sinh viên, học sinh.  
Mô hình một hoặc một vài hộ trong cộng đồng tham  
gia có khá nhiều điểm ở huyện Châu ành, Chợ Lách  
và vùng ven TP. Bến Tre. Trong đó Vườn sầu riêng Bảy  
ảo ở xã Vĩnh ành huyện Chợ Lách đã hoạt động  
hơn 10 năm. Ở đây không chỉ có vườn sầu riêng lâu  
năm mà còn trồng thêm kiểng lá, các loại cây công  
trình và có ao nuôi cá tai tượng, có trại nuôi gà nòi.  
Nông sản ở đây không chỉ bán trực tiếp cho du khách  
mà còn bán online. Do quy mô nhỏ, lao động chính  
là người trong gia đình, những khi đông khách chủ  
817  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
nhà gọi thêm lao động láng giềng phụ giúp hoặc mua hơn và thực hiện quy trình cung cấp dịch vụ chuyên  
giúp khách những loại nông sản của nhà láng giềng nghiệp hơn. Tuy nhiên quản lý mạng lưới liên kết  
sản xuất. ngang các điểm DLNN đòi hỏi phải áp dụng phương  
Mô hình cả cộng đồng tham gia ở Bến Tre có Hợp pháp quản lý hiện đại và đây là một thách thức lớn đối  
tác xã Du lịch sinh thái cộng đồng ạnh Phong với mô hình cả cộng đồng tham gia. Bởi vì, thực tế là  
(huyện ạnh Phú) được thành lập vào năm 2015 từ hiện nay ở nông thôn không riêng gì Bến Tre, số người  
tài trợ của Chương trình Rừng ngập mặn cho tương có trình độ đã và đang di chuyển về thành thị để sinh  
lai (Mangrove for the Future, MFF), thuộc Quỹ bảo sống và làm việc. Việc đào tạo đòi hỏi phải có thời  
tồn thiên nhiên quốc tế (International Union for Con- gian và người được đào tạo phải có trình độ học vấn  
servation of Nature, IUCN) (Hình 1). Dự án “Hỗ trợ nhất định còn thu hút nhân lực ngoài cộng đồng cũng  
xây dựng và phát triển mô hình du lịch sinh thái dựa không phải là dễ dàng vì họ phải rời xa môi trường  
vào cộng đồng tại khu vực Bảo tồn thiên nhiên và Bảo sống quen thuộc. Chính vì “hạn chế về năng lực tổ  
vệ môi trường vùng ven biển, thuộc xã ạnh Phong” chức quản lý mà Hợp tác xã Du lịch sinh thái cộng  
do Trung tâm chuyển giao công nghệ dịch vụ và phát đồng ạnh Phong qua gần 5 năm hoạt động không  
triển cộng đồng nông ngư nghiệp Việt Nam tổ chức phát triển được” là nhận định của một lãnh đạo Phòng  
triển khai thực hiện trong 18 tháng. Sau khi dự án kết Văn hóa thông tin huyện ạnh Phú. Trong trường  
thúc vào tháng 5 năm 2015, Hợp tác xã Du lịch sinh hợp thu hút được nhân lực quản lý thì cũng có nguy cơ  
thái cộng đồng ạnh Phong do Ban Điều hành và 4 xảy ra bất đồng lợi ích giữa người chủ và người quản  
Tổ chuyên trách vận hành. Mặc dù đã có các chương lý điều hành. Mô hình DLNN cả cộng đồng tham gia  
trình đào tạo kiến thức du lịch cộng đồng cho các với mô hình HTX đòi hỏi phải có thời gian để giải  
xã viên, nhưng do hạn chế về khả năng tiếp cận thị quyết vấn đề nhân lực quản lý nên trong nghiên cứu  
trường, tổ chức thực hiện quy trình cung cấp dịch vụ, này chỉ đề xuất hai mô hình là Tổng Công ty và Hiệp  
nên đến nay Hợp tác xã vẫn chưa khẳng định được vị hội.  
Từ mô hình mạng lưới “Bienvenue à la ferme” ở Pháp  
cho thấy Bến Tre có thể áp dụng mô hình liên kết dạng  
này trong tương lai gần vì đã có những điều kiện tiền  
đề thuận lợi. Đó là sự quan tâm phát triển DLNN của  
chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch  
từ tỉnh đến huyện. Tuy vậy, hiện các hoạt động liên  
quan đến liên kết và hợp tác chỉ là “trao đổi thông  
tin trong công tác quản lý nhà nước, công tác xúc  
tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du  
lịch, tổ chức các đoàn tham quan, học tập, khảo sát  
mô hình phát triển du lịch; phối hợp các tỉnh trong  
cụm phía Đông ĐBSCL tham gia gian hàng chung tại  
các sự kiện, hội chợ, triển lãm du lịch trong nước3.  
Sở Văn hóa, ể thao và Du lịch hoàn toàn có khả  
năng làm cầu nối để tổ chức mạng lưới trong toàn tỉnh  
thông qua mạng lưới Phòng Văn hóa các huyện như  
thế trên thị trường. Tuy vậy vẫn có một vài hộ duy trì  
tiếp đón khách dù không thường xuyên như nhà chị  
Bảy và chị Nga.  
Do mô hình kinh doanh khác nhau nên sản phẩm  
của các điểm du lịch cũng khác nhau. Mỗi điểm có  
khúc thị trường riêng, hoạt động độc lập, tự thân phát  
triển nên không là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với  
nhau. Tuy vậy mỗi điểm với quy mô nhỏ khó phát  
triển nhanh vì không đủ năng lực đáp ứng nhu cầu  
của các thị trường khách cao cấp nội địa và quốc tế  
cũng như khó dành những khoản chi phí lớn để xúc  
tiến, quảng bá sản phẩm. Do đó nguồn khách chủ  
yếu của các điểm DLNN này là từ TP. Hồ Chí Minh  
và vùng lân cận.  
THẢO LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT  
Trong nền kinh tế thị trường, những mô hình kinh cách tổ chức của mạng lưới “Bienvenue à la ferme”  
doanh hiệu quả sẽ phát triển, mô hình kém hiệu quả do đã có kinh nghiệm tổ chức Hiệp hội Du lịch của  
sẽ phải mất đi. Tuy nhiên nhà nước sẽ hỗ trợ những tỉnh. Mô hình này nên ưu tiên tập hợp các điểm du  
nhóm yếu thế vì những lợi ích khác như ổn định xã lịch cộng đồng quy mô nhỏ và sản xuất nông nghiệp  
hội, hạn chế di dân, giảm cách biệt thu nhập của dân truyền thống. ời gian đầu xây dựng mạng lưới có  
cư ở nông thôn và thành thị… Phát triển du lịch nông thể tìm nguồn kinh phí từ các chương trình tài trợ của  
nghiệp dựa vào cộng đồng nên ưu tiên phát triển các chính phủ hoặc của chính quyền địa phương chẳng  
nông trại quy mô nhỏ do người địa phương sở hữu và hạn như kết nối những điểm đã từng nhận được tài  
điều hành sẽ tối ưu hóa được chi phí nhờ tự sản xuất trợ từ các dự án như dự án “ích ứng với biến đổi khí  
nguyên liệu và vận hành quy trình cung cấp dịch v14  
.
hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Bến Tre”  
Nhưng quy mô nhỏ sẽ bị bất lợi vì không có được sức (Adaptation to climate change in the Mekong Delta in  
mạnh thị trường, khó tiếp cận được những thị trường Ben Tre Province, AMD). Sản phẩm DLNN của các  
lớn. Vì vậy, liên kết ngang là cách để tăng sức mạnh thành viên trong mạng lưới nên chọn thành phần cốt  
thị trường, để có điều kiện quảngbá sảnphẩm rộng rãi lõi là các hoạt động ở các vườn cây đã có danh tiếng  
818  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
Hình 1: Các mô hình vận hành điểm DLNN hiện tại ở Bến Tre  
như “Dừa xiêm xanh, Bưởi da xanh, sầu riêng Cái đồng. Công ty Hải Vân với thương hiệu Nông trại Hải  
Mơn, (Chợ Lách), “xoài Tứ Quý” (ạnh Phú), … và Vân - Sân chim Vàm Hồ hiện đã có mạng lưới cung  
ẩm thực đặc trưng xứ dừa để tạo ra sự khác biệt. Khi cấp thực phẩm và nguồn nhân lực tại chỗ cũng có khả  
xây dựng được các tiêu chuẩn chất lượng nội bộ và năng phát triển thành công theo mô hình Tổng công  
thương hiệu sản phẩm thì tổ chức gắn logo cho sản ty. Như vậy, Mekong Travel và Hải Vân hiện đang có  
phẩm của các thành viên như là một cam kết cung mạng lưới liên kết dọc hoạt động tốt. Từ kinh nghiệm  
cấp sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn chất lượng của tổ chức mạng lưới liên kết dọc, hai công ty này có  
mạng lưới. ông qua mạng lưới triển khai những nhiều khả năng phát triển thành công mạng lưới liên  
hoạt động xúc tiến, ứng dụng công nghệ nhận đặt kết ngang với thương hiệu riêng như trường hợp của  
chỗ, thanh toán… nhằm tăng tiện ích cung cấp cho Tổng Công ty Maharashtra nếu lãnh đạo địa phương  
du khách. Khi mạng lưới đã vận hành tốt, các thành có chủ trương và hỗ trợ cách làm Hình 2.  
viên sẽ được hưởng lợi trước hết là tiếp cận nguồn  
KẾT LUẬN  
khách và các tiện ích kết nối với du khách nên họ sẽ  
sẵn lòng đóng góp chi phí vận hành mạng lưới. Mạng Bến Tre có tài nguyên DLNN phong phú và hiện đã  
lưới cũng cần phải thể hiện trách nhiệm chia sẻ lợi ích hình thành nhiều điểm cung cấp dịch vụ trải nghiệm  
với cộng đồng qua một khoản trích để hỗ trợ những đáp ứng được nhu cầu của du khách. Tùy theo điều  
nhóm yếu thế trong cộng đồng, xây dựng các công kiện và năng lực của từng nơi, các điểm DLNN vận  
trình chung phục vụ cộng đồng, xây dựng mối quan hành theo nhiều mô hình khác nhau nhưng có thể  
hệ tốt đẹp trong cộng đồng… để nhận được sự ủng hộ chia thành hai nhóm là dựa vào cộng đồng và dựa  
của cộng đồng.  
vào vốn. Khác biệt giữa hai mô hình này là các điểm  
theo mô hình dựa vào cộng đồng vận hành với nông  
nghiệp sạch truyền thống trong khi các điểm dựa vào  
vốn vận hành với nông nghiệp công nghệ cao. Mô  
hình DLNN dựa vào cộng đồng gồm ba nhóm là cả  
cộng đồng tham gia, một hoặc vài hộ trong cộng đồng  
Bến Tre hiện cũng đã có một vài công ty kinh doanh  
DLNN hoạt động hiệu quả, tăng trưởng tốt nên có  
thể phát triển mô hình liên kết kiểu mô hình của  
Tổng công ty DLNN Maharashtra, ở Ấn Độ. Công ty  
Mekong Travel với thương hiệu Út Trinh homstay đã  
thành công với cụm homstay ở cồn An Bình (Vĩnh tham gia và nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng.  
Long), được chứng nhận danh hiệu “Homestay đạt Hiện tại mô hình cả cộng đồng tham gia đang phải  
chuẩn Asean” năm 2017 – 201915. Công ty Mekong đối mặt với nhiều thách thức trong khi các mô hình  
Travel đã mở điểm homstay Út Trinh ở cồn Tam Hiệp khác phát triển thuận lợi hơn. Tuy vậy dù vận hành  
(Bình Đại, Bến Tre), không chỉ cung cấp các dịch vụ theo mô hình nào tất cả đều bị hạn chế do quy mô  
trong phạm vi homstay như nghỉ đêm, ẩm thực địa nhỏ nên cần có sự liên kết thành một mạng lưới rộng  
phương mà còn liên kết với các hộ dân ở cồn Tam lớn để có thể cùng tiến hành các hoạt động marketing  
Hiệp để đưa khách trải nghiệm ở những nhà dân có chuyên nghiệp đến những thị trường mới và cung cấp  
hoạt động sản xuất nông nghiệp như vườn lá sâm, trại sản phẩm đáp ứng được mong đợi của khách hàng.  
nuôiong, vườn cây ăntrái… để chia sẻ lợi ích cho cộng Nghiên cứu đã đề xuất nên ưu tiên phát triển hai kiểu  
819  
 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
Hình 2: Mô hình liên kết DLNN trong tương lai ở Bến Tre  
liên kết ngang theo mô hình Tổng công ty du lịch nông  
nghiệp Maharashtra (Ấn Độ) và Mạng lưới “Bienv-  
enue à la ferme” (Pháp) là hai mô hình liên kết đã rất  
thành công trong thực tế phát triển DLNN và Bến Tre  
đang có những điều kiện phù hợp.  
• u thập dữ liệu tại HTX Du lịch sinh thái cộng  
đồng ạnh Phong: Bích Tiên  
• u thập dữ liệu tại Khu du lịch Phú An Khang,  
Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn  
sầu riêng Bảy ảo: Mỹ Hạnh  
2. u thập và xử lý dữ liệu thứ cấp tiếng Việt và tiếng  
Anh: Mỹ Hạnh & Bích Tiên  
LỜI CẢM ƠN  
- Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn Sở Văn hóa, ể  
thao và Du lịch tỉnh Bến Tre, UBND và Phòng Văn  
hóa – ông tin huyện ạnh Phú, UBND xã ạnh  
Phong và ạnh Hải, Ban Quản lý Khu du lịch Di  
tích đường Hồ Chí Minh trên biển huyện ạnh Phú,  
Công ty TNHH Du lịch sinh thái Hải Vân đã nhiệt  
tình hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện nghiên  
cứu này.  
- Đây là sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước ”Phát triển  
chuỗi giá trị du lịch nông nghiệp tại Đồng bằng sông  
Cửu Long trong bối cảnh mới. Mã số: KX.01.52/16-  
20  
• Xử lý các tài liệu tiếng Việt: Mỹ Hạnh  
• Xử lý các tài liệu tiếng Anh: Bích Tiên  
3. Viết bài công bố kết quả nghiên cứu  
• Viết tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh, phần  
phương pháp nghiên cứu: Bích Tiên  
• Các nội dung còn lại của bài: Mỹ Hạnh  
ĐÓNG GÓP VỀ MẶT KHOA HỌC  
Bài viết cung cấp kết quả nghiên cứu đạt được về các  
mô hình kinh doanh DLNN tại tỉnh Bến Tre – một  
điểm đến mới nổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.  
Đóng góp về khoa học của bài viết là:  
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  
DLNN : Du lịch nông nghiệp  
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long  
HTX : Hợp tác xã  
• Phát triển khái niệm DLNN và điểm DLNN, mô  
hình liên kết DLNN  
• Chỉ ra bốn kiểu mô hình kinh doanh DLNN ở  
Bến Tre là (1) dựa vào vốn, (2) cả cộng đồng  
tham gia, (3) một/một vài hộ tham gia, (4) nhà  
đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng  
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Bài báo này không có xung đột lợi ích.  
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
1. Tạo lập cơ sở dữ liệu sơ cấp bằng kỹ thuật quan sát  
kết hợp phỏng vấn một đối một tại 4 điểm DLNN của  
tỉnh Bến Tre trong năm 2019.  
• Đề xuất hai kiểu mô hình liên kết ngang trong  
kinh doanh DLNN là Tổng công ty và Hiệp hội.  
820  
 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
8. Lago NAA. Tourism Demand and Agriculture Supply: Basis  
for Agritourism Development in Quezon Province. Asia Pacific  
Journal of Multidisciplinary Research. 2017;5(3).  
9. Baye MR. Managerial Economics and Business Strategy. 7e ed.  
Mc GrawHill. 2010;p. 249.  
10. Sznajder M, Przezbórska L, Scrimgeour F. Cooperation of agri-  
tourist entities in Agritourism book, CABI. 2009;p. 122. Avail-  
11. Dossier de presse 2018 [online];Available from:  
1. Technavio. Global Agritourism Market 2019-2023. 2019;.  
2. Ciolac R, Adamov T, Iancu T, Popescu G, Lile R, Rujescu C at al.  
Agritourism-A Sustainable Development Factor for Improving  
the ’Health’ of Rural Settlements, Case Study Apuseni Moun-  
tains Area. Sustainability. 2019;11:14–67. Available from:  
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Báo cáo Tổng kết tình hình  
hoạt động du lịch năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm  
2019;.  
4. Arroyo CG, Barbieri C, Rich SR. Defining agritourism: A com-  
parative study of stakeholders’ perceptions in Missouri and  
North Carolina. Tourism Management . 2013;37(C):39–47.  
5. Phillip S, Hunter C, Blackstock K. A typology for defining agri-  
tourism. Tourism Management, Elsevier. 2010;31:754–758.  
6. Broccardo L, Culasso F, Truant E. Unlocking Value Creation Us-  
ing an Agritourism Business Model. Sustainability. 2017;9:16–  
18. Available from: https://doi.org/10.3390/su9091618.  
7. Kizos T, Iosifides T. The contradictions of agrotourism devel-  
opment in Greece: evidence from three case studies. South  
European Society and Politics. 2007;12:59–77. Available from:  
12. Chaire de Tourisme Transat. Agritourism Development - Pre-  
liminary Report. ASG UQÀM. 2018;31:22.  
13. Ingavale D. Agri Tourism - A Business Model of Agri Tourism  
Development Corporation. Management. 2015;4(1).  
14. Khamung R. Analysis of Aptitudes, Aspirations, Capacities,  
and Resources for a Community-based Agritourism Establish-  
ment. Silpakorn University Journal of Social Sciences, Human-  
ities, and Arts. 2015;15(2):25–57.  
15. Trảng N, Thúy P.  
Homestay - niềm vui và những trăn  
trở. Vĩnh Long online [06/02/2018] ;Available from:  
821  
                           
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 4(4):814-822  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
Agritourism business model in Ben Tre – Present and future  
Doan Thi My Hanh1,*, Ma Bich Tien2  
ABSTRACT  
Ben Tre is an emerging destination in the Mekong Delta and known as ``Vietnam's coconut king-  
dom''. The number of visitors to Ben Tre has been continuously increased, but the revenue per vis-  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
itor is still quite low compared with other destinations. In the current, the tourism product of Ben  
Tre is mainly agritourism which mostly supplied by traditional agricultural production sites. Very  
few agritourism practice hi-tech agricultural productions. Most visitors visit Ben Tre are from HCMC  
and neighboring provinces. Due to the small scale of agritourism business sites, they have not  
been reached the large and high-end markets. This study aims to identify the current agritourism  
business models and then proposed future business linkage models. Qualitative method is used  
to conduct this study. Data is collected through observation techniques and combined with face-  
to-face interviews at Phu An Khang Tourist, Hai Van Farm- Van Ho Bird Sanctuary, Bay Thao Durian  
Garden, and Ecotourism cooperation of Thanh Phong community. This study proposes that in the  
future, Ben Tre should link agritourism business sites based on horizontal integration model to pro-  
mote tourist products into a new market with large scale and high-end customers. The models of  
horizontal integration should be implemented as the association model as similar to "Bienvenu à  
la ferme" (France) and the corporation model as similar to Marahastra Corporation (India) because  
Ben Tre has the similar conditions conduct and develop these models.  
Key words: agritourism, Ben Tre, business model, horizontal integration  
1Van Hien University, Vietnam  
2Van Lang University, Vietnam  
Correspondence  
Doan Thi My Hanh, Van Hien University,  
Vietnam  
Email: hanhdtm@gmail.com  
History  
Received: 7/7/2020  
Accepted: 23/12/2020  
Published: 15/1/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.630  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article : Hanh D T M, Tien M B. Agritourism business model in Ben Tre – Present and future.  
Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):814-822.  
822  
pdf 9 trang yennguyen 16/04/2022 4800
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_du_lich_nong_nghiep_o_ben_tre_hien_tai_va_tuong_lai.pdf