Hình tượng con chó trong văn hóa

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
HÌNH TƢỢNG CON CHÓ TRONG VĂN HÓA  
TS. Lê Thị Thảo  
Tóm tắt: Trong văn hóa của nhiều quốc gia, hình tượng con chó hàm chứa những  
ý nghĩa tâm linh sâu xa, biểu tượng cho sức mạnh, sự trung thành, thông minh; là hiện  
thân của thần linh hoặc là trung gian giữa thần linh và con người. Có lẽ do gần gũi với  
con người và có những phẩm chất mà con người yêu mến, nên hình tượng con chó biểu  
hiện trong văn hóa khá đa dạng ở từng quốc gia, tộc người. Trong văn hóa Việt Nam,  
mặc dù hình tượng con chó tiếp thu nhiều triết lý từ nước ngoài nhưng lại được biểu  
hiện một cách hồn nhiên, phóng khoáng và hòa đồng, gần gũi với tâm thức dân gian  
người Việt.  
Từ khóa: con chó, di sản văn hóa, biểu tượng  
1. Đặt vấn đề  
Ở các nền văn hóa Á Đông, chó xếp thứ 11 trong 12 con giáp, với chi Tuất và một  
trong những con vật thuộc “lục súc” - 6 con vật nuôi trong nhà hoặc gần nhà. Câu  
chuyện “Lục súc tranh công2” ẩn chứa nhiều ý nghĩa giáo dục sâu xa, nhưng qua đó  
cũng cho thấy sự quen thuộc và quan trọng của con chó trong đời sống loài người. Bởi  
vậy, con người đã đem những nhận thức “mênh mông” của mình khoác lên mình nó, để  
con chó trong di sản văn hóa trở thành hiện thân của những thế lực siêu nhiên, ẩn dấu  
trong nó những niềm tin, ước vọng và cả những nỗi sợ hãi của con người. Những nhận  
thức mang tính biểu tượng đó thường bị chồng lấn dưới nhiều lớp ý nghĩa sâu xa mà  
đến ngày nay rất cần phải bóc tách, giải mã để tiệm cận với bản chất lịch sử và văn hóa  
dân tộc.  
2. Những phẩm chất tốt đẹp của con chó trong di sản văn hóa  
Chó là một trong những loài động vật được con người thuần hóa đầu tiên, giúp  
con người trong việc tìm kiếm thức ăn (săn bắt), bảo vệ và gắn bó gần gũi với đời sống  
con người. Chính vì vậy, hình ảnh con chó sớm được con người thể hiện trong di sản  
văn hóa. Trên tường của nhiều hang động và trong mộ táng ở nhiều vùng thuộc phương  
Tây, từ thời đại đồ đồng, người ta đã phát hiện nhiều hình vẽ hoặc tượng chó. Thời cổ  
đại, ở Hy Lạp và Lã Mã người ta đã ưa thích dùng chó làm vật nuôi trong nhà, nhiều khi  
con vật nuôi này trở thành sự kiêu hãnh của các gia đình giàu có. Ở Việt Nam, cách đây  
hàng nghìn năm, trên rìu đồng, trống đồng Đông Sơn và một số đồ đồng khác, con chó  
Khoa Luật và Quản lý Nhà nước, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa.  
2 Truyện “Lục súc tranh công” kể về sáu con vật nuôi: trâu, chó, ngựa, dê, gà và lợn tranh nhau công trạng  
của mình, người chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên.  
100  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đã được khắc ở nhiều tư thế và trạng thái khác nhau như: đang đuổi theo con mồi (hình  
chó săn hươu trên rìu Đông Sơn) hoặc cùng con người vượt qua muôn trùng sóng gió  
trên những con thuyền lớn (trên trống đồng Ngọc Lũ).  
Trong nhiều nền văn hóa, hình ảnh con chó gắn với những đức tính tốt đẹp, tiêu  
biểu nhất là sự can đảm, lòng trung thành, đức tin và lối sống trọng nghĩa tình. Trong  
văn học Hy Lạp cổ đại, Homeros Odyssey đã kể về câu chuyện của Odysseus, người có  
một con chó gọi là Argos. Sau chuyến du lịch dài ngày, anh ta cải trang khi về nhà để  
che dấu sự xuất hiện của mình. Không ai phát hiện ra, chỉ duy nhất con chó già nhận ra  
anh ngay từ khi anh ta mới trở về. Chủ đề này thường được mô tả trong các bình gốm  
Hy Lạp cổ đại3. Có một câu thành ngữ Trung Quốc nói về lòng trung thành của loài chó  
như sau: “Cẩu bất hiềm gia bần, nhi bất hiềm mẫu xú” (Chó không chê chủ nghèo, con  
không chê mẹ xấu). Ở Việt Nam, trong truyện Sự tích chú Cuội, con chó vì chịu ơn cứu  
mạng trước đây đã tình nguyện tặng chú Cuội bộ ruột để Cuội cứu vợ4. Người ta còn tin  
tưởng chó có giác quan thứ sáu, có nhiều khả năng vượt trội như biết đường tìm về nhà  
xa cả vài trăm cây số dù đường đi chưa từng quen thuộc bao giờ. Thành ngữ dân gian  
Việt Nam có câu: "lạc nhà nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu" để biểu hiện một sự tin  
tưởng, xem trọng đối với loài chó. Truyện Chó bị đòn oan kể rằng: khi con chó bị chủ  
nhà mắng một cách vô lí, mèo đã bảo chó:  ng chủ ăn ở với mày bạc thế, mày cứ bỏ đi  
đâu thì đi có hơn không?”. Con chó đã lấy cái nghĩa làm trọng: “Chó gầy xấu mặt người  
nuôi. Ta bỏ chủ đi thì không phải nghĩa”5.  
Trong văn học dân gian của nhiều dân tộc, con chó là loài vật mang đến sự may  
mắn, hạnh phúc cho con người. Tục ngữ Việt Nam có câu “mèo đến nhà thì khó, chó  
đến nhà thì sang”. Người Trung Quốc còn lưu truyền câu truyện lý giải vì sao chó lại trở  
thành vật nuôi thân thiết của con người. Tương truyền, sau nạn đại hồng thủy, con  
người không kiếm được thức ăn nên bị chết đói rất nhiều. Các Thiên thần đã họp bàn  
nhau lại, cử Phục Hy dạy con người chăn nuôi, Thần Nông dạy con người trồng trọt, lục  
súc (trâu, ngựa, dê, gà, lợn, chó) giúp con người sản xuất và chăm lo đời sống. Trong  
đó, một nhiệm vụ khó khăn là mang hạt lúa xuống trần gian để cứu đói cho con người.  
Các hạt lúa ở thượng giới vốn mọc chi chít từ gốc tới ngọn nhưng lại rất dễ rụng, đường  
đi lại phải qua biển lớn đầy sóng gió. Các loài vật đều ngại ngùng trong việc mang hạt  
3 Kenneth Kitchell, Pets of the Ancient Greeks.  
(https://www.penn.museum/documents/publications/expedition/PDFs/53-3/kitchell.pdf)  
4
Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Huế (1995), Kho tàng thần thoại Việt Nam, Nxb Văn  
hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 217.  
5
 n Như Nguyễn Văn Ngọc (1990), Truyện cổ nước Nam, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 335-336.  
101  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
lúa đi xuống trần gian, chỉ duy nhất loài chó vì thương cảm cho loài người đang đói ăn  
nên nhận lời dính các hạt lúa khắp thân mình để mang đi. Do sóng dữ nên khi đến nơi  
chỉ còn những hạt lúa bám ở trên đuôi chó (điều này lý giải hiện tượng các hạt lúa chỉ  
mọc ở trên ngọn, giống như bám ở trên đuôi chó). Vì công lao này, trong lục súc, chỉ  
duy nhất chó được loài người cho ăn cơm. Ở Việt Nam, cư dân miền núi Quảng Nam  
còn lưu truyền một truyền thuyết: hạt lúa xưa kia to như quả dừa, đến khi chín tự động  
lăn về nhà của con người. Nhưng một lần con người làm cho hạt lúa tức giận nên bỏ đi.  
Chó sợ con người bị đói nên đã đuổi theo, cố xin được mày tấm và cám của lúa ở lại. Vì  
vậy, ngày nay hạt lúa có kích thước nhỏ bé và con người phải mất nhiều công chăm bón  
mới có được. Vào ngày lễ ăn cơm mới, cư dân nhiều tộc người ở Quảng Nam có tục cho  
chó ăn trước bát cơm mới đầu mùa cúng trong dịp lễ này để ghi nhận công ơn. Cũng ở  
miền núi Quảng Nam, do chó có công giúp người đi săn nên các phường săn luôn dành  
bộ lòng của các con thú săn được cho bầy chó săn và tuyệt đối không ai được ăn bớt  
một miếng nào.  
Nhiều dân tộc trên thế giới đã tôn loài chó thành vật tổ. Ngày nay người Dao ở  
Việt Nam và phía Nam Trung Quốc vẫn coi mình là con cháu của Bàn Hồ6 (một con  
long khuyển, từ trên trời giáng xuống trần). Do đó, họ có tục thờ chó, trang phục mô  
phỏng chó hay trang trí hình chó và để tóc kiểu chó. Người Dao đỏ trong ngày cưới còn  
đội một chiếc mũ hình đầu chó, mặc váy có hình đuôi chó… Trên trang phục người Dao  
còn bắt gặp hình ảnh đôi chó ngộ nghĩnh quay lưng lại nhau. Truyền thuyết về ông tổ  
chó cũng còn thấy ở nhiều dân tộc khác ở Việt Nam như Xơ - đăng, S’tiêng, Giẻ Triêng,  
Chăm, Lô Lô, Cơ - tu…  
3. Những năng lực của con chó trong văn hóa tâm linh  
3.1. Năng lực thông linh, dẫn dắt linh hồn  
6 Truyền thuyết về Bàn Hồ được ghi lại trong Quá Sơn bảng văn (hay Bảng Văn, Bình Hoàng khoán điệp)  
bằng chữ Nôm Dao. Nội dung có thể tóm tắt lại như sau: Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước,  
lông đen vằn vàng, mướt như nhung, từ trên trời giáng xuống trần, được Bình Vương yêu quý, nuôi trong  
cung vua. Một hôm Bình Vương nhận được chiếu thư của Cao Vương liền hội triều đình lại để bàn cách  
đánh lại Cao Vương. Trong khi mọi người còn đang yên lặng vì chưa tìm ra được kế gì, thì Bàn Hồ nhảy  
ra phủ phục trước nhà vua xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ đi, vua hứa nếu Bàn Hồ giết được  
Cao Vương thì sẽ gả công chúa cho. Thực hiện được nhiệm vụ được giao, Bàn Hồ được Bình Vương gả  
con gái cho. Sau lễ cưới, Bàn Hồ mang vợ về núi Cối Kê (Chiết Giang), rồi sinh được 6 con trai và 6  
người con gái. 12 người con của Bàn Hồ đều được Bình Vương ban sắc thành 12 họ. Con cháu Bàn Hồ  
sinh sôi ra ngày một nhiều. Tới thời Hồng Vũ (1368-1398), bị hạn ba năm liền không có gì ăn, nhà vua  
cung cấp cho mỗi người một cái búa, một con dao để đốn rừng làm rẫy. Con cháu Bàn Hồ phát hết rừng  
núi của Bình Vương, khiến cho nhà vua phải cấp cho Quá Sơn bảng văn để phân tán đi các nơi tìm đất  
sinh sống (Theo Wikipedia).  
102  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Trong lĩnh vực tâm linh, con người đã từ chỗ quan sát những đặc điểm, khả năng  
thật của con chó mà gán cho nó những năng lực tương ứng. Do hung dữ, có sức mạnh,  
nên con chó được quan niệm có sức mạnh vũ trụ vô biên. Người Trung Quốc giải thích  
hiện tượng nhật thực, nguyệt thực là do “Thiên Cẩu” (Con chó của trời) thỉnh thoảng  
đói bụng rồi nuốt chửng cả mặt trời, mặt trăng. Để cứu mặt trời, mặt trăng, Trương  
Tiên7 đã dùng cây cung của mình đuổi bắn Thiên Cẩu, buộc nó phải nhả mặt trăng, mặt  
trời ra.  
Hình ảnh con chó phổ biến nhất trong đời sống tâm linh ở khắp nơi trên thế giới  
gắn với thế giới bên dưới và bóng tối, nói chung là của thế giới âm, đối lập với chim,  
tượng trưng cho trời, cho mặt trời và ánh sáng, tượng trưng cho thế giới bên trên, nói  
chung là thế giới dương8. Năng lực cai quản cõi chết hoặc dẫn dắt linh hồn người chết  
có lẽ gắn với đặc điểm của loài chó trong đời sống là canh giữ nhà cửa và là bạn đường  
của con người. Thần Anubis trong thần thoại Ai Cập cổ đại (vị thần gắn với việc ướp  
xác, có nhiệm vụ dẫn dắt linh hồn người chết về thế giới âm phủ hoặc tái sinh) được  
miêu tả dưới hình dạng thân người đầu chó rừng, cánh tay gắn một dải băng, một tay  
cầm móc, một tay cầm néo9. Trong thần thoại Hy Lạp, Ceberus là con chó ba đầu vô  
cùng hung dữ của thần cai quản địa ngục Hades. Ceberus có nhiệm vụ chính là canh gác  
cánh cửa dẫn vào địa ngục, ngăn không cho bất cứ linh hồn nào thoát ra. Ở các bộ tộc  
Đức cổ, có một con chó khủng khiếp tên là Garm, chuyên gác lối vào Niflheim, vương  
quốc của những người chết, xứ sở của băng giá và bóng tối10. Người Mexico cổ nuôi  
những con chó màu lửa để chôn cùng với người quá cố, thực hiện nhiệm vụ hộ vệ người  
quá cố ở thế giới bên kia, cũng như Xolotl - chó thần đã từng hộ vệ Mặt Trời trong cuộc  
du hành dưới lòng đất. Thời trung cổ ở phương Tây, chó cũng được hiến sinh trên mộ  
chủ nó, để giúp chủ sau cuộc hành trình dài vượt qua được 9 con sông lớn ngăn lối lên  
bầu trời thứ 9 - nơi cư ngụ vĩnh hằng của linh hồn người quá cố11. Trong truyện của  
Phật giáo, chó ngao là con vật canh giữ hai đầu cầu Nại Hà, sẵn sàng cắn xé những linh  
hồn tàn ác bị trượt ngã. Trong truyện Tây Du Ký của Trung Quốc nhắc đến Hao Thiên  
7 Trương Tiên còn gọi là Trương Tiên Đại Đế, Trương Viễn Tiêu, là một vị thần của Đạo giáo, người ban  
phước lành và bảo hộ cho trẻ em hay những hài nhi còn chưa ra đời.  
8 Trong khi ở hầu hết các nền văn hóa, con chó đại diện cho thế giới âm ở dưới lòng đất, thì ở một số nền  
văn hóa, con chó lại đại diện cho sức mạnh và dương tính. Con chó trong văn hóa một số tộc người ở  
Nam Mỹ là vị thần giữ lửa, đem lửa về cho con người hoặc giúp con người chế tạo ra lửa.  
9 Các loại dụng cụ được sử dụng trong quá trình ướp xác.  
10 Jean Chevalier, Alain Cheerbrant (2014), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr.182.  
11 Jean Chevalier, Alain Cheerbrant (2014), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr.181.  
103  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Khuyển, là con chó thần của Nhị Lang thần, phò trợ cho Nhị Lang thần diệt trừ yêu ma,  
quỷ quái.  
Theo tư liệu của Nguyễn Duy Thiệu (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)12, trong  
đám tang của người Mường có lễ thức nhòm họ (nhìn họ) - với sự dẫn dắt bằng lời của  
ông mo, linh hồn người chết được nhìn lại gia đình, họ hàng ở mường người lần cuối để  
từ biệt những gì thân thuộc trước khi sang thế giới bên kia - mường ma. Trong lễ thức  
này, ta thấy xuất hiện hình tượng con chó là biểu tượng cho mường ma. Ở cộng đồng  
người Mường huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, khi làm lễ thức Kẹ (cắt mối liên hệ bình  
thường giữa linh hồn người đã chết - ma với cõi sống), người ta đặt trên ban thờ của  
người chết một con gà luộc, còn trên quan tài bày một con chó (nguyên vẹn cả con đã  
luộc). Chó được nối với con gà bằng một sợi chỉ. Khi đọc hết đoạn mo đưa người chết  
sang thế giới bên kia, ông mo cắt bỏ sợi dây nối con gà với con chó, với ý nghĩa hồn  
người chết sẽ thành ma bị chia tách với thế giới dương, với trần gian để về với thế giới  
âm, thế giới ma, mà con chó là tượng trưng. Trong quan niệm của người Xinh Mun,  
người chết muốn lên được với tổ tiên ở mường Trời phải qua hai cửa ải khó khăn nhất  
và phải nhờ sự trợ giúp của con chó. Cửa ải đầu tiên ở Phiêng Luông, tại đây có con chó  
to, màu vàng đưa người chết tắm sạch sẽ ở một mó nước rồi mới đi tiếp. Cửa thứ hai,  
sau khi lên đến tầng thứ ba của mường trời, phải qua một cây cầu có nhiều mỡ rất trơn,  
hồn ma không thể đi được, thầy mo phải gọi con chó đến để chó ăn hết mỡ trơn cho  
người chết có thể đi được.  
Ở nhiều tộc người thiểu số, thầy cúng đã dùng chó để mang lại sức khỏe hoặc dẫn  
các linh hồn xấu làm hại đến sức khỏe của con người ra khỏi cơ thể. Cũng theo ghi chép  
của Nguyễn Duy Thiệu (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), tộc người Akha (còn gọi là  
người Kọ) ở miền Bắc nước Lào khi tiến hành lễ cúng sức khỏe cho gia đình, thầy cúng  
phải dùng một con chó nhỏ chừng 3 - 4 tháng tuổi, buộc vào cột lễ dựng ở ngoài sân,  
bên cạnh cột lễ đốt một đống lửa. Trước ngày tế, sau khi tâu trình các vị thần linh,  
người ta thui con chó để hiến tế. Điều đặc biệt là, trong đêm trước hôm tế, thầy cúng  
phải ăn hết thịt con chó, đặc biệt là cái đầu, có thế thì ngày mai pháp thuật của ông ta  
mới cao cường để làm lễ thức chính. Trong nghi thức phép thuật chữa bệnh của người  
Thái ở Điện Biên, thầy cúng cũng dùng con chó con để cúng tế thần linh, sau đó úp lên  
bụng người bệnh để lấy hết bệnh tật ra ngoài cơ thể. Tuy thực hư chưa rõ về khả năng chữa  
bệnh bằng pháp thuật dùng đến chó làm vật hiến tế, nhưng những chi tiết này khẳng định  
vai trò quan trọng của con chó trong tâm thức cộng đồng cư dân một số dân tộc.  
12  
Nguyễn Duy Thiệu (2006), Chó trong pháp thuật chữa bệnh, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 1(14) năm  
2006, tr.90.  
104  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Loài chó cũng được coi là cầu nối giữa thế giới của con người với thế giới của  
thần linh. Đối với người Iroquois (châu Mỹ), chó là sứ giả của con người với thần linh.  
Hằng năm, vào những ngày Tết năm mới, theo truyền thống người ta hiến tế một con  
chó trắng. Con chó được xem như một sứ giả mang lên trời những lời cầu nguyện của  
con người13. Trong truyện cổ tích Việt Nam Chàng học trò và con chó đá, con chó đá  
có sự giao tiếp thường xuyên với các vị thần trên thượng giới, do đó nắm bắt được các  
sự việc sẽ diễn ra trong tương lai, báo trước người học trò có thể thi đậu hay không.  
3.2. Năng lực trấn giữ, bảo vệ  
Từ đặc tính trung thành, có sức mạnh, có tiếng sủa lớn, có khả năng tinh tường  
phát hiện ra người hoặc vật thể lạ, trong đời sống tâm linh, con chó được gán cho chức  
năng canh giữ không cho ma quỷ làm hại đến cuộc sống của con người hoặc làm tổn hại  
đến linh hồn người đã khuất.  
Hình thức chôn chó đá ở đầu làng khá phổ biến ở nông thôn Trung Quốc và Việt  
Nam xưa kia với mục đích canh giữ, xua đuổi những thế lực xấu xa vào quấy nhiễu dân  
làng. Chó đá là con vật linh thiêng của người dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn, Cao Bằng.  
Người dân địa phương quan niệm chó đá sẽ đem lại may mắn, vì vậy, họ không bao giờ  
ăn thịt chó và luôn coi chó là con vật thiêng liêng để tôn thờ. Họ có tục chọn ngày tốt để  
đặt con chó đá trước cửa nhằm trừ tà và giúp trông nom nhà cửa, gọi chó đá một cách  
kính cẩn là “cụ Thạch”. Theo tư liệu của Nguyễn Phương (Báo Dân tộc và Miền núi), ở  
bản Boong Dưới, xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, có 273 hộ, tới 90%  
số hộ thờ chó đá14 (năm 2017). Chó đá được tạc to như chó thật. Hai chân trước đứng  
hiên ngang, hai chân làm trụ theo thế đứng bệ vệ, mồm và mắt hướng thẳng ra phía  
trước, sẵn sàng tư thế tấn công.  
Việc thờ chó đã xuất hiện từ rất sớm. Thời vua Lý Công Uẩn (thế kỷ XI) đã cho  
dân lập đền thờ Cẩu Nhi ở hồ Trúc Bạch (Tây Hồ, Hà Nội) để thờ thần chó (Cẩu Mẫu  
và Cẩu Nhi) với công lao giúp vua lên ngôi và định đô ở Thăng Long15. Nhiều người đã  
nghĩ tới mối liên hệ giữa năm sinh của Lý Thái Tổ (năm Tuất) với sự trợ giúp của 2 con  
chó trong truyền thuyết này.  
13 Jean Chevalier, Alain Cheerbrant (2014), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr.183.  
14  
Nguyễn Phương, Người dân bản Nùng thờ chó đá, Báo ảnh Dân tộc và Miền núi online, ngày  
10/3/2017. (http://dantocmiennui.vn/54-dan-toc-viet-nam/nguoi-dan-ban-nung-tho-cho-da/118604.html)  
15 Vấn đề có tồn tại đền thờ Cẩu Nhi ở hồ Trúc Bạch còn chưa thống nhất trong các nhà nghiên cứu lịch  
sử, văn hóa Việt Nam. Việc xây dựng đền thờ này được ghi chép lại trong tác phẩm Tây Hồ chí biên soạn  
cuối thế kỷ XIX.  
105  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Nhiều tài liệu lịch sử cũng ghi chép việc thờ cúng chó đá của người Việt với chức  
năng trấn trạch, trừ tà. Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, học giả Đào Duy Anh  
đã viết: “Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người  
ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không để cho có  
con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không  
tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là treo  
một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí”16. Trong tác phẩm Văn hóa, tín ngưỡng  
và thực hành tôn giáo người Việt của L. Cadière ghi lại việc ở phía Nam thành cổ  
Quảng Trị có quan đường đam thẳng (dù hơi chéo) vào phía Đông của thành cổ và còn  
đâm vào nhà quan Tổng đốc. Để chống đỡ những ảnh hưởng tai hại của con đường, ông  
Tổng đốc đã cho chôn một hòn đá ở chỗ bẻ quặt của con đường và đặt một con chó vôi  
trên lũy thành, thẳng trục với viên đá trấn và nhà quan17. Làng Nam Phổ Đông (nay  
thuộc xã Phú Thượng, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) có thờ hai con chó đá, đặt trên bệ  
gạch, gọi là Thần Cẩu. Một con để hóa giải những ảnh hưởng xấu do nóc đình làng Phú  
Khê bên kia con kênh đâm qua, con còn lại để chắn hướng một con đường chạy qua bãi  
tha ma18. Cả hai con chó đá này đều được người dân đặt bát hương thờ cúng. Trong  
sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Dư địa chí, khi chép về  
trấn Thanh Hóa có ghi rõ: “Cửa nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất  
thiêng19.  
Ở một số nơi chó đá được thờ như thần. Làng Địch Vĩ (xã Phương Đình, huyện  
Đan Phượng, Hà Nội) hiện còn một con chó đá rất to, dưới chân là một đàn chó nhỏ,  
người dân gọi là Quan lớn Hoàng Thạch. Trước đây, người dân thờ chó đá ở mô đất  
thấp, sau này, dân làng xây bệ thờ ở bên cạnh đình và chùa Địch Vĩ, không xây tường  
bao để đến ngày lễ ai cũng có thể đến thắp hương cầu bình yên, may mắn. Người dân  
làng Phù Trung (xã Thượng Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội) lại gọi chó đá là thần cẩu  
hay hoàng thạch cẩu. Con chó đá được đặt ở trên bệ cao trong đình làng, được người  
dân thờ cúng một cách kính cẩn. Trước đây, con chó đá này được thờ ở một gò đất đầu  
làng, sau được rước về đình và thờ ở trên bệ cao20.  
16 Đào Duy Anh (1985), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Đông Nam Á tái bản, tr.179.  
17 Leopold Cadiere (2015), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, tập 2, Nxb Thuận Hóa,  
tr. 136.  
18 Leopold Cadiere (2015), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, tập 2, Nxb Thuận Hóa,  
tr. 148.  
19 Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, tr.44.  
20  
Hoàng Phương (2014), Người Việt xưa đã thờ chó đá, VnExpress ngày 24/8/2014  
(https://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nguoi-viet-xua-da-tho-cho-da-3035161.html).  
106  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Trong các di tích của người Việt ngày nay vẫn còn lại nhiều chó đá. Hầu hết các  
con chó đá được tạc và chạm khắc mộc mạc trong tư thế ngồi xổm, hai chân trước duỗi  
thẳng trong tư thế canh gác, cổ đeo lục lạc, đặt ở bên ngoài cổng di tích với nhiệm vụ  
canh gác và kiểm soát tư cách kẻ hành hương. Với chức năng canh giữ, chó đá được đặt  
quay ra chứ không chầu vào như một số linh vật có bốn chân khác.  
Thế kỷ XVII, XVIII, với sự nở rộ của loại hình đền thờ, lăng mộ quận công,  
quan tướng có công lao với triều đình, chó đá được sử dụng như linh vật canh giữ lăng,  
nhiều khi được tạc với kích thước to lớn, tinh tế, thể hiện địa vị của người được thờ, như  
ở đền thờ Quận công Nguyễn Ngọc Trì (Phúc Thọ, Hà Nội), lăng quận Vân (Thường  
Tín, Hà Nội), lăng quận công Phạm Mẫn Trực (Hoài Đức, Hà Nội), lăng Đề đốc Phạm  
Nguyễn Công (Hoài Đức, Hà Nội), đền thờ Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi  
(Đông Sơn, Thanh Hóa), đền thờ Hoàng Bùi Hoàn (Quảng Xương, Thanh Hóa), lăng  
Đoan Quận công Bùi Thế Đạt (Diễn Châu, Nghệ An)…  
Ở đền thờ Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi (xã Đông Thanh, huyện  
Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) còn 2 đôi chó đá. Đôi chó đá ở bên ngoài, (tượng bên trái  
cao 0,80m, tượng bên phải cao 0,97m), dáng nhìn ngước đầu cao, hai tai cụp, dáng vẻ  
chăm chú như nhắc nhở kẻ hành hương ý thức chuẩn bị bước vào vùng đất thiêng.  
Tượng hai chó đá ở đầu dãy tượng hai bên linh đạo, (tượng bên phải 0,77m, tượng bên  
trái cao 0,70m) dáng hiền lành, tĩnh lặng. Con chó đá bên phải mình phủ đầy hoa văn  
vân xoắn, đao mác hình tia lửa, ngay cả đuôi cũng xoắn lại đầy tính biểu tượng. Có thể  
nhìn nhận nó không còn mang tư cách là con vật canh giữ mốc giới giữa trần gian và thế  
giới tâm linh, kiểm soát tư cách kẻ hành hương như hai con chó đá ở vòng ngoài. Ở đây,  
bằng các biểu tượng được khắc trên thân, nó đã được thiêng hóa để trở thành linh vật  
của thế giới tâm linh. Tuy nhiên, ở đầu thế kỷ XVII vẫn còn mang đậm tính dân gian,  
bởi hai tượng chó đá được phân biệt rõ chó đực và chó cái qua bộ phận sinh dục. Ngay  
trong thế giới thiêng ấy, qua hình ảnh con chó, người ta vẫn nghĩ đến sự sinh sôi phát  
triển, hay những biểu hiện của hạnh phúc nông nghiệp, của âm dương đối đãi.  
Ở lăng Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung (xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh  
Thanh Hóa) có đôi chó đá ngồi ở hai bên thần đạo, cao tới 1,40m. Mặc dù, kích thước to  
lớn nhưng đôi chó đá này được tạc với dáng vẻ hồn nhiên, nhiều nét dân gian, quanh cổ  
có dây xoắn thừng để treo chiếc lục lạc lớn, chân vẫn còn được tạc liền với khối đá dưới  
bụng. Ở Từ chỉ họ Đặng (Quế Võ, Bắc Ninh) cũng có đôi chó to lớn cùng phong cách  
như ở đây. Có lẽ đây là những con chó đá lớn nhất trong mỹ thuật truyền thống của  
người Việt.  
107  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Năng lực trấn giữ, trừ ma quỷ của con chó được biểu hiện đậm nét trong văn hóa  
Nhật Bản. Ở chùa Cầu (Hội An, Quảng Nam), tượng chó được đặt cùng tượng khỉ với  
chức năng ngăn không cho thủy quái gây lụt lội. Ở đây tượng chó và tượng khỉ đã được  
tôn thành Linh Hầu và Linh Cẩu - hai vị thần bảo hộ trong quan niệm của người Nhật21.  
Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An có ghi lại cặp câu đối như sau (nguyên câu  
đối được đắp bằng sứ ở mặt phía Đông Chùa Cầu, hiện nay không còn nữa) :  
Thiên cẩu song tinh an Cấn thổ  
Tử vi lưỡng tướng định Khôn thân  
(Tạm dịch: Hai sao Thiên cẩu trấn an đất Cấn / Hai tướng Tử vi định giữ cung Khôn).  
Trong dòng chảy của thời gian, ở Việt Nam, ở khía cạnh chức năng trấn giữ, do  
ảnh hưởng từ nhiều luồng văn hoá tín ngưỡng khác nên chó dần bị thay thế bằng kỳ lân,  
sư tử, hổ, các thứ bùa chú và các loại môn thần, thần trấn trạch khác, phần nhiều chịu  
ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Do vậy, nét đẹp văn hóa đậm tính dân tộc này rất  
cần được nghiên cứu, bảo tồn, phát huy.  
4. Thay lời kết  
Những hình tượng con chó trong văn hóa Việt Nam trên đây khi đối chiếu với  
hình tượng con chó trong văn hóa nước ngoài khiến chúng tôi nhớ tới nhận định của nhà  
nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền: Trải qua nhiều thời kì, giai đoạn lịch sử, văn hóa  
Việt Nam có giao thoa, học tập nhiều nét từ văn hóa nước ngoài song về cơ bản, linh vật  
của Việt Nam luôn giữ nét hiền hòa, cân bằng tạo cảm giác yên bình chứ không có tính  
chất áp chế, đe dọa như linh vật nước ngoài…  
Trên đây là một số tư liệu chúng tôi thu thập được trong sự liên tưởng về những ý  
nghĩa văn hóa tốt đẹp gắn với con chó, để gửi tới bạn đọc với lời chúc năm Tuất mọi sự  
tốt lành.  
Tài liệu tham khảo  
[1].  n Như Nguyễn Văn Ngọc (1990), Truyện cổ nước Nam, Nxb Khoa học Xã hội.  
[2]. Jean Chevalier, Alain Cheerbrant (2014), Từ điển biểu tượng văn hóa thế  
giới, Nxb Đà Nẵng.  
[3]. Nguyễn Duy Thiệu (2006), Chó trong pháp thuật chữa bệnh, Tạp chí Di sản  
Văn hóa, số 01(14) năm 2006.  
21 Lý giải về tượng thờ chó và khỉ tại Chùa Cầu, có nhà nghiên cứu lý giải thêm: việc cân xứng 2 bên đầu  
cầu hai con linh vật trên là để ngụ ý về thời gian xây dựng công trình kéo dài 3 năm, bắt đầu động thổ từ  
năm Thân (con khỉ) và hoàn thành năm Tuất (con chó).  
108  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
[4]. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Huế (1995), Kho tàng thần  
thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
[4]. Nguyễn Phương, Người dân bản Nùng thờ chó đá, Báo ảnh Dân tộc và Miền  
[5].Kenneth Kitchell, Pets of the Ancient Greeks.  
THE SYMBOL OF THE DOG IN CULTURE  
Le Thi Thao, Ph.D  
Abstract: In different cultures, the image of the Dog presents contains deep a  
spiritual meaning, a symbol of strength, the loyalty and the intelligence. The dog is the  
embodiment of the God or the mediator between the God and the Human. Being close to  
people and having the qualities that people love, the dog is quite diverse in different  
cultures. In Vietnamese culture, although the image of the dog has been set up from  
many international philosophical perspectives, it is always close to the folk  
consciousness of the Vietnamese.  
Key words: the dog, culture, symbol  
(Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Dũng; ngày nhận bài: 16/11/2017; ngày gửi phản biện  
18/11/2017; ngày duyệt đăng 30/12/2017)  
109  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 1300
Bạn đang xem tài liệu "Hình tượng con chó trong văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhinh_tuong_con_cho_trong_van_hoa.pdf