Đóng góp của Chương Dụng vào nghiên cứu lịch cổ Việt Nam

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
119  
ĐÓNG GÓP CỦA CHƯƠNG DỤNG  
VÀO NGHIÊN CỨU LỊCH CỔ VIỆT NAM  
Lê Thành Lân,* Phạm Vũ Lộc**  
Rất ít người để tâm nghiên cứu lịch cổ Việt Nam. Gần đây, Tiến sĩ Yukio  
Ohashi (Nhật Bản) có gửi cho chúng tôi bài báo “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1] của  
Chương Dụng, chúng ta mới biết được Chương Dụng là người đầu tiên nghiên cứu  
lịch cổ Việt Nam. Người thứ hai nghiên cứu lịch cổ Việt Nam là Học giả Hoàng  
Xuân Hãn.  
Các cuốn lịch cổ mà ta biết tên cũng không nhiều, và gần đây nhiều cuốn bị  
thất lạc. Bài báo trên nghiên cứu cuốn Bách trúng kinh ký hiệu A2517 có lịch Việt  
Nam từ năm 1759 đến 1886 ở Viện Viễn Đông Bác cổ, mà nay đã thất lạc. Học giả  
Hoàng Xuân Hãn có nghiên cứu một cuốn Bách trúng kinh khác, có lịch Việt Nam  
từ năm 1624 đến năm 1799 để viết cuốn Lịch và lịch Việt Nam [2]. Chúng tôi ngờ  
rằng đó là bản Bách trúng kinh ở Viện Viễn Đông Bác cổ có ký kiệu A2872 mà  
nay cũng đã thất lạc. Cuốn Lịch Việt Nam 1901-2010 (LVN) [3] có dẫn cuốn lịch  
cổ Hoàng triều Minh Mệnh Khâm định vạn niên thư có lịch Việt Nam từ năm 1544  
đến 1861. Chúng tôi có hỏi ông Nguyễn Mậu Tùng, tác giả cuốn lịch trên về cuốn  
lịch cổ đó; ông nói, ông cũng không còn biết nó ở đâu nữa, tức là chỉ sau hai, ba  
chục năm cuốn lịch cổ đó đã thất lạc. May mà chúng tôi còn được đọc cuốn Khâm  
định vạn niên thư [4] có lịch Việt Nam từ năm 1544 đến 1903, nó được in lại có bổ  
sung sau 12 năm từ cuốn lịch cổ đó.  
Bài báo “Việt lịch sóc nhuận khảo” viết về cuốn Bách trúng kinh A2517 đã bị  
mất, liệu nó có thể giúp ta bù đắp được phần nào cho sự mất mát đó không?  
Theo Học giả Hoàng Xuân Hãn, trong khoảng hai trăm năm từ 1080 đến  
1300, lịch Việt Nam khác hẳn lịch Trung Quốc [2]. Theo chúng tôi, từ 1080 đến  
1945, các triều đại phong kiến đều cho soạn lấy lịch riêng của Việt Nam để sử  
dụng [5]. Song, việc tìm lại lịch cổ Việt Nam là rất khó, vì từ khi người Pháp vào  
nước ta họ cho soạn các sách đối chiếu lịch dương với lịch âm, nhưng lại dùng  
lịch âm Trung Quốc, nên hầu như mọi người quên mất rằng, lịch Việt Nam vốn  
khác lịch Trung Quốc. Chúng tôi đã khảo cứu kỹ ba cuốn lịch cổ là Bách trúng  
kinh [1624-1785] (bản in) ký hiệu A2873 ở Thư viện Viện Hán Nôm, Khâm định  
vạn niên thư [1544-1903] [4] (bản in) ký hiệu R2200 ở Thư viện Quốc gia và Lịch  
*
Viện Công nghệ thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học và Công Nghệ Việt Nam.  
**  
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công Nghệ Việt Nam.  
120  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] [6] (bản chép tay) ký hiệu A1237 ở Thư  
viện Viện Hán Nôm và tìm thấy lịch nước ta từ năm 1544 đến nay [5]. Lịch của  
các năm trong khoảng thời gian đó lấy từ ba cuốn lịch trên dường như có đủ cả,  
chỉ thiếu lịch của năm Quý Sửu (1793). Đặc biệt, lịch Tây Sơn từ 1789 đến 1801  
chỉ có ở 1 bản chép tay có nhiều lỗi là Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [6] và còn  
thiếu năm 1793 như vừa viết trên nên cần có chứng cứ để khẳng định thêm. Lịch  
nhà Nguyễn từ năm 1850 đến năm 1883, cũng cần có thêm cứ liệu, vì ở giai đoạn  
đó, hiện chúng tôi dựa chính vào cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (bản chép  
tay có nhiều lỗi) [6] chứ không theo cuốn Khâm định vạn niên thư [4], đây là luận  
chứng cần kiểm định lại. Chính vì vậy, chúng tôi hi vọng nhiều vào thông tin từ  
bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” của Chương Dụng, mong rằng nó có thể cung cấp  
cho ta những thông tin phong phú từ cuốn Bách trúng kinh A2517 [1759-1886] mà  
nay đã thất lạc.  
Trước tiên, chúng tôi xin viết đôi lời về Chương Dụng – một người Trung  
Hoa, là người đầu tiên nghiên cứu lịch cổ Việt Nam, ngay từ cuối thập niên 30 của  
thế kỷ trước.  
Ký giả Tiền Vĩnh Hồng gọi Chương Dụng là “công tử kỳ tài”, bởi vì ông sinh  
ra trong một gia đình danh giá và thật sự ông là một người trẻ tuổi có tài.  
Chương Dụng là con thứ hai của ông Chương Sĩ Chiêu và bà Ngô Nhược  
Nam, đều là những trí thức yêu nước rất nổi tiếng ở Trung Quốc. Chương Sĩ Chiêu  
là một nhân sĩ có nhiều góc cạnh, đa năng, đa tài, quảng giao và có tư tưởng độc  
lập, không đảng phái; ông là nhà báo, nhà văn và luật sư. Ông từng là Ủy viên Ủy  
ban Thường vụ Nhân Đại (Quốc hội) và Chính Hiệp của nước Cộng hòa Nhân dân  
Trung Hoa, và Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lịch sử và Văn học Trung ương. Ngô  
Nhược Nam là nữ đảng viên đầu tiên của Quốc dân Đảng Trung Quốc và là người  
đi tiên phong trong phong trào nữ quyền của Trung Quốc, bà rất thạo tiếng Anh,  
tiếng Nhật và tiếng Pháp. Bà là phụ nữ Trung Quốc đầu tiên đi du học ở Nhật Bản  
cũng như ở châu Âu. Bà từng làm Thư ký tiếng Anh cho Tôn Trung Sơn.  
Chương Dụng, sinh năm 1911 tại Scotland, nước Anh. Về nước, lúc đầu ông  
học hành tại nhà với mẹ. Năm 1929, ba anh em ông theo mẹ sang Anh du lịch. Sau  
đó em trai ông là Chương Nhân ở lạiAnh học tập, anh trai ông là Chương Khả sang  
Ý học nghệ thuật; ông theo mẹ sang Đức và học ở đó.  
Ở Đức, sau khi học xong phổ thông, năm 1931, ông theo học Khoa Toán của  
Đại học Göttingen, nghiên cứu vật lý, hóa học và triết học, học thêm cả tiếng Latin.  
Năm 1936, do khó khăn về kinh tế của gia đình, mẹ ông cùng ba anh em ông trở  
về Trung Quốc. Về nước, ông trở thành Giáo sư của Đại học Sơn Đông và Đại học  
Chiết Giang. Trong chiến tranh kháng Nhật, Đại học Chiết Giang phải di chuyển  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
121  
đến Giang Tây, rồi Quảng Tây. Những ngày chạy nạn và làm việc quá sức khiến  
ông bị bệnh phổi, bệnh tình ngày càng nặng, nên tháng 3 năm 1939, ông phải đi  
Hương Cảng trị bệnh phổi và mất tại đó vào ngày 16 tháng 12 năm 1939.  
Trong các di văn của ông, ngoài các bài khảo cứu về toán học và lịch sử  
toán học, chúng ta còn thấy có mấy bài viết về lịch như “Dương lịch Giáp Tý  
khảo” (Khảo về lịch Dương và lịch Giáp Tý), “Bặc Di Phật lịch giải” (Giải mã  
Phật lịch của người Bặc) và “Việt lịch sóc nhuận khảo” (Khảo về sóc nhuận của  
lịch Việt Nam).  
Ngày 22 tháng 10 năm 1938, Chương Dụng sang Việt Nam, đến Viện Viễn  
Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội để tham quan và đọc các sách toán chữ Hán của Việt  
Nam. Ở đấy, ông đã lập thư mục sách riêng cho mình, chủ yếu là sách toán học và  
có sao chép một số tài liệu, ông chú ý đến các sách của các nhà toán học Việt Nam  
như Lương Thế Vinh, Nguyễn Hữu Thận, Phan Huy Khuông, Phạm Văn Dụ, Phạm  
Gia Kỷ, Phạm Hữu Trọng.  
Trong dịp đó, ông đọc cuốn lịch cổ Việt Nam là Bách trúng kinh, có ký hiệu  
A2517 ở Viện Viễn Đông Bác cổ, có lịch Việt Nam từ năm 1759 đến năm 1886 và  
viết ngay bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1] mà năm sau khi đến Hương Cảng (một  
nhượng địa thuộc Anh) chữa bệnh, ông gửi cho Tạp chí Tây Nam Nghiên cứu vào  
ngày 01 tháng 4 năm 1939, được tạp chí in vào số 01 năm 1940. Chúng tôi đã có  
dịp giới thiệu tư liệu này trong bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” – Bài viết đầu tiên  
về lịch cổ Việt Nam [7]. Trước khi về nước, ông còn được nhà nghiên cứu Trần  
Văn Giáp cho biết ở Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp còn có cuốn Bách trúng kinh  
A2873. Nếu sức khỏe và thời gian cho phép, chắc ông sẽ tiếp tục nghiên cứu cuốn  
lịch cổ này, và nhất định ông sẽ thu thêm được những kết quả phong phú hơn, vì  
cuốn Bách trúng kinh A2873 này có lịch từ năm 1624 đến 1785.  
Chúng tôi xin giới thiệu hai đóng góp chính của bài “Việt lịch sóc nhuận  
khảo” [1] của Chương Dụng.  
Một là, đóng góp của Chương Dụng cho việc khảo cứu lịch nhà Nguyễn  
Bài của Chương Dụng có 5 lỗi về “lịch pháp”, chúng như những lỗi “chính  
tả”, người có hiểu biết về lịch pháp sẽ phát hiện ngay được. Cụ thể: 2 chữ “Đại”  
(đủ) viết sai thành chữ “Tiểu” (thiếu); 1 chữ “Thìn” viết sai thành “Tuất”; 1 chữ  
“Nhuận” bị thiếu; 1 chữ “Lục” viết sai thành chữ “Bát” [7]. Điều này có thể lý giải  
được, đó là do ông viết gấp, khi ông đang ốm nặng, và khi bài được lên khuôn thì  
tác giả đã mất, tạp chí không có người giỏi lịch pháp để sửa mo-rát nên mới sai như  
vậy. Tuy thế, lỗi này không nặng.  
Loại lỗi thứ 2 nghiêm trọng hơn, chúng tập trung ở bảng 4 trong bài viết của  
ông [1], ở đó Chương Dụng nêu ra 5 trường hợp (vào các năm 1841, 1848, 1856,  
122  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
1866, 1869) trong khoảng thời gian từ 1841 đến 1869, ông cho rằng lịch ở cuốn  
Bách trúng kinh A2517 khác với Thanh vạn niên thư, và như vậy có thể làm ta  
hiểu nhầm thành “5 trường hợp này lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc”. Thực  
ra không phải thế. Sự thật là Hai lịch vẫn giống nhau. Ở đây không có sai sót về  
số liệu, mà là sai sót về thẩm định các dữ liệu. Vấn đề là, thời đó, lịch nhà Thanh  
và lịch nhà Nguyễn (từ năm 1813) đều soạn theo phép Thời Hiến, phép lịch này  
cải tiến từ phép Đại Thống bằng cách ứng dụng các kiến thức toán học và thiên  
văn của phương Tây do các Giáo sĩ đạo Cơ Đốc đưa vào Trung Quốc. Do thể thức  
biên soạn lịch của cả Trung Quốc và Việt Nam thời đó đều theo hai giai đoạn, có  
dự soạn cập nhật, nên đều có dị bản, nhưng lịch Việt Nam trong Bách trúng  
kinh A2517 là bản chính thức (đã cập nhật) được dùng ở Việt Nam thời đó, trong  
khi lịch các năm này trong cuốn “Thanh vạn niên thư” (theo cách gọi của Chương  
Dụng) lại là dị bản (bản dự soạn) của lịch Trung Quốc.  
Đính chính sai sót về nhận dạng lịch Trung Quốc của Chương Dụng, ta sẽ  
hiểu được thực trạng lịch Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn đó, và do đó khẳng  
định lịch chính thức của Việt Nam và nêu được đóng góp của cuốn Bách trúng kinh  
A2517 cho việc khảo lịch nhà Nguyễn, cũng là đóng góp của Chương Dụng. Để  
làm việc này, chúng tôi lập Bảng 1 về lịch Việt Nam và Trung Quốc ở giai đoạn này.  
Bảng 1: Tình trạng lịch Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn 1840 đến 1883.  
Năm  
Ngày sóc (theo lịch dương)  
Trung Quốc Việt Nam  
Chương A2517 LDNK VNT  
Tháng  
âm  
Dương Can chi  
Chính thức  
4
Đạo  
5
1
2
3
6
7
8
9
1841  
1848  
1856  
1866  
1869  
Tân Sửu  
Chạp  
11-1  
12-1  
25-12  
27-11  
15-5  
11-5  
12-1  
25-12  
27-11  
15-5  
11-5  
11-1  
11-1  
11-1  
Mậu Thân Chạp  
26-12  
28-11  
14-5  
26-12 26-12 26-12  
28-11 28-11 27-11  
Bính Thìn  
Bính Dần  
Kỷ Tị  
Một  
Tư  
14-5  
12-5  
14-5  
12-5  
15-5  
11-5  
Tư  
12-5  
Ghi chú:  
+ Cột 4: Lịch “Chính thức” của Trung Quốc, chúng tôi lấy từ 4 cuốn lịch của Hoàng Bá  
Lộc [8], Trần Viên [9], Tiết Trọng Tam và Âu Dương Di [10], và cuốn Vạn niên lịch (Tân bản) [11],  
chúng đều giống nhau.  
+ Cột 5: “Đạo” là Đạo Quang vạn niên thư [12] là lịch được dư soạn của vua Đạo Quang.  
Cuốn lịch này chúng tôi đọc trên mạng.  
+ Cột 6: “Chương” là lịch do Chương Dụng lấy từ “Thanh vạn niên thư” theo cách gọi của ông [1].  
+ Cột 7: “A2517” là lịch Việt Nam do Chương Dụng lấy từ Bách trúng kinh A2517 [1].  
+ Cột 8: “LDNK” là lịch lấy từ Lịch đạt niên ký bách trúng kinh [6].  
+ “VNT” là lịch lấy từ Khâm định vạn niên thư [4].  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
123  
Về tư liệu lịch Trung Quốc: Các cuốn lịch của họ Hoàng, họ Tiết và họ Âu  
ghi lịch Trung Quốc cho hàng ngàn năm, và cuốn Vạn niên lịch (tân bản) được  
biên soạn sau này có lịch các năm ta cần dùng, chúng đều giống nhau và là lịch  
chính thức được dùng đương thời ở Trung Quốc.  
Dường như ở Trung Quốc thời nhà Thanh không có sách nào có tên gọi cụ  
thể là “Thanh vạn niên thư”, vì mỗi hoàng đế khi lên ngôi, gọi năm sau theo niên  
hiệu của mình, đều cho biên soạn lại Vạn niên thư gắn với niên hiệu đó và khởi từ  
đấy đến 200 năm sau, cứ lấy niên hiệu đó đặt tên cho cuốn Vạn niên thư của mình.  
Cho nên có nhiều bản Vạn niên thư: Gia Khánh vạn niên thư (1796-1995), Đạo  
Quang vạn niên thư (1821-2020), Hàm Phong vạn niên thư (1851-2050). Các Vạn  
niên thư này được “dự soạn” rất nhanh chóng nên độ chính xác không được cao;  
để sử dụng thật sự, thì hàng năm đều có “cập nhật” bằng cách tính lại lịch năm tới  
với độ chính xác cao hơn để cuối năm nhà vua ban phát thành lịch cho năm sau.  
Lịch “cập nhật” đó mới là lịch được dùng chính thức ở đương thời. Khi đó, nếu có  
khác với lịch dự soạn, thì thường chỉ lệch 1 ngày sóc (từ đó làm thay đổi tính thiếu  
đủ của 2 tháng liền nhau).  
Năm năm được đề cập đến ở Bảng 1 chỉ có ở các Vạn niên thư sớm như Đạo  
Quang vạn niên thư hay Gia Khánh vạn niên t. Từ Hàm Phong vạn niên thư đã  
không có các năm 1841 và 1848 nữa. Như thế ta có thể đoán rằng Chương Dụng  
đã dùng một trong hai cuốn Vạn niên thư kể trên. Chúng tôi suy luận rằng, ngày đó  
ở Viện Viễn Đông Bác cổ có 1 trong 2 cuốn đó, Chương Dụng dùng nó và gọi luôn  
Thanh vạn niên thư để chỉ rõ ông chép lịch nhà Thanh.  
Phải nói thêm rằng, sở dĩ ông nhanh chóng viết được bài này, vì ông được  
đào tạo rất cơ bản và toàn diện ở Đức, và vì ông đã từng nghiên cứu lịch pháp, đã  
viết hai bài về lịch, ông nắm vững phép làm lịch, nhưng ông chưa khảo cứu cụ thể  
lịch của nhà Thanh Trung Quốc, và khi ở Hà Nội ông không có đủ tư liệu để tham  
khảo, nên không biết rằng, lịch nhà Thanh có những dị bản. Và ở Viện Viễn Đông  
Bác cổ chắc cũng chỉ có một bản Vạn niên thư dự soạn đó của nhà Thanh.  
Tư liệu về lịch Việt Nam giai đoạn này, chúng ta có ở 2 cuốn lịch cổ. Trong  
đó, theo chúng tôi, Khâm định vạn niên thư [1544-1903] [4] được in năm 1850,  
lịch trước năm 1850 là lịch chính thức, lịch sau năm đó là lịch dự soạn, chỉ để tham  
khảo. Lịch trong Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] [6] là lịch được  
chép lại sau (có thể sau năm 1904 [5] (trang 98), nó tập hợp các lịch đã ban hành  
chính thức trước đó.  
Nhận định từ Bảng 1:  
1) So sánh cột 5 và 6, ta thấy rõ ràng Thanh vạn niên thư mà Chương Dụng  
dùng giống với Đạo Quang vạn niên thư [12] – một cuốn lịch dự soạn, đó là sai  
124  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
lầm của ông. So sánh 2 cột trên với cột 4, ta thấy lịch dự soạn khác với lịch chính  
thức, bởi thế không dùng được.  
2) Lịch các năm 1841, 1848 của Việt Nam ở cả 3 cuốn lịch (cột 7, 8, 9) đều  
giống nhau, đều là lịch chính thức. Ba năm sau (1856, 1866, 1869), lịch ở Khâm  
định vạn niên thư (cột 9) [4] khác với lịch Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột  
8) [6], theo cách giải thích của chúng tôi, thì lịch ở cuốn sau (cột 8) là lịch chính  
thức [5]. Ta thấy, theo Chương Dụng: lịch trong Bách trúng kinh A2517 (cột 7)  
giống với lịch trong Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột 8); như vậy chứng tỏ: a)  
Lịch trong Bách trúng kinh A2517 là lịch chính thức của nước ta. b) Quyết định  
dùng lịch ở cuốn lịch Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột 8) [6] làm lịch chính  
thức của chúng tôi [5] là đúng.  
3) Trong giai đoạn này, lịch chính thức của Việt Nam giống lịch chính thức  
của Trung Quốc, chúng đều được in đậm, nghiêng.  
Hai là, đóng góp của Chương Dụng cho việc khảo lịch Tây Sơn  
Như chúng tôi đã viết, cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883]  
A1237 hiện còn là cuốn lịch duy nhất có lịch Tây Sơn, nhưng có nhiều lỗi, chúng  
tôi đã vận dụng lý thuyết mã sửa sai đính chính được gần 80 lỗi khác, nhưng còn  
lịch 2 năm Mậu Dần (1758) và Quý Sửu (1793) có lỗi quá lớn, không sửa được.  
Cụ thể, người chép đã sơ ý lấy nhầm lịch năm Đinh Sửu (1757) chép vào năm Mậu  
Dần, lịch năm Canh Tuất (1790) chép vào năm Quý Sửu. Như vậy, lịch Tây Sơn  
còn thiếu năm Quý Sửu. Nay có bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1], ta biết chắc  
được lịch năm đó của Tây Sơn giống lịch Trung Quốc [7]. Đó là đóng góp quan  
trọng nhất. Ngoài ra “Việt lịch sóc nhuận khảo” còn cho ta đầy đủ 13 năm lịch Tây  
Sơn rút ra từ Bách trúng kinh A2517. Như vậy đây là phiên bản thứ hai về lịch Tây  
Sơn, nó giống như phiên bản thứ nhất lấy từ Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [6]  
trong khi phiên bản thứ nhất này phải qua hiệu đính mới có.  
Nhân đây, chúng tôi lập Bảng 2, để ta có một cái nhìn tổng quan về lịch  
Tây Sơn.  
Từ Bảng 2, ta thấy: Lịch Tây Sơn (TS) trong 13 năm từ 1789 đến 1801 khác  
hẳn với lịch của chúa Nguyễn (CN) 5 lần, ở các trường hợp 1, 2, 3, 5, 6, trong đó  
có 3 lần khác nhau về nhuận là 1, 2, 5, tức là khác nhau lớn. Thậm chí ở trường  
hợp 2, khác nhau cả ngày Tết, tức là Tết năm đó, dân ở 2 vùng đất do hai thế lực  
cai quản ăn Tết không cùng ngày. Lịch Tây Sơn khác lịch Trung Quốc ít, chỉ có  
3 lần, và đều là khác nhau nhỏ, tức là về ngày sóc (ngày mồng 1) ở các trường  
hợp 3, 4, 6.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
125  
Bảng 2: Lịch Tây Sơn (TS) so với lịch chúa Nguyễn (CN) và lịch Thanh (TQ).  
Năm  
Can chi  
Sóc ghi bằng ngày dương  
TS khác  
Thứ  
tự  
Tháng  
âm  
Dương  
TS  
CN  
6
TQ  
với  
về  
1
2
3
4
Hai N  
Ba  
5
7
8
9
23-3  
21-4  
21-5  
23-3  
21-4  
21-5  
23-3  
21-4  
21-5  
1
1792  
1794  
Nhâm Tý  
CN  
N
Tư  
Tư N  
Một N  
Chạp  
Giêng  
Hai  
22-12  
21-1  
19-2  
21-3  
22-12  
21-1  
19-2  
21-3  
12-11  
6-6  
22-12  
21-1  
19-2  
21-3  
11-11  
5-6  
2
Giáp Dần  
CN  
N&T  
Hai N  
Mười  
Năm  
Sáu N  
Bảy  
3
4
1795  
1796  
Ất Mão  
11-11  
6-6  
CN&TQ  
TQ  
S
S
Bính Thìn  
24-7  
22-8  
24-7  
22-8  
5
6
1797  
Đinh Tị  
24-7  
22-8  
24-5  
CN  
N
S
Bảy N  
1800  
Canh Thân Tư N  
23-5  
24-5  
CN&TQ  
Ghi chú cho cột cuối N là nhuận. T là Tết. S là Sóc (ngày mồng 1).  
Lịch chúa Nguyễn trong thời gian đó khác hẳn lịch Thanh 3 lần ở số 1, 2, 5,  
tức là khác nhau về nhuận và 1 lần khác nhau nhỏ ở số 4, tức là khác nhau về sóc.  
Những điểm khác nhau của lịch Tây Sơn với lịch Thanh theo Chương Dụng  
khi ông đối chiếu lịch ở bản Bách trúng kinh A2517 với lịch Thanh (TQ) [1] cũng  
trùng với chúng tôi sau khi hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [5].  
Ta biết, lịch Thanh theo phép Thời Hiến, lịch chúa Nguyễn theo phép Đại  
Thống, nên khác nhau nhiều. Lịch Tây Sơn gần với lịch Thanh, ta có thể đoán  
rằng, lịch Tây Sơn dùng phép Thời Hiến như lịch Thanh, nhưng tính toán kém  
chính xác hơn.  
Kết luận lại, chúng ta thấy Chương Dụng qua bài “Việt lịch sóc nhuận khảo”  
[1] đã có những đóng góp đáng ghi nhận.  
Đầu tiên ta có thể nhận thức được, trong một thế giới đa văn hóa, người nước  
ngoài, như Chương Dụng xưa, hay Yukio Ohaschi nay rất chú ý đến hiện tượng:  
lịch Việt Nam từ xa xưa đã khác với lịch Trung Hoa.  
Thứ nữa, khi so sánh các kết quả nghiên cứu của Chương Dụng, ta thấy:  
Lịch ở Bách trúng kinh [1759-1886] A2517, hoàn toàn trùng lịch ở Lịch đại niên  
126  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
kỷ bách trúng kinh [1740-1883], A1237 mà chúng tôi đã khảo cứu [5]. Nó cho ta  
tin vào việc hiệu đính lịch cổ theo phương pháp mã sửa sai mà chúng tôi đã dùng.  
Tiếp theo, ta biết rằng, cuốn Bách trúng kinh [1758-1886] A2517 mà Chương  
Dụng khảo sát không còn nữa, nhưng bằng bài viết của ông, chúng ta có được nội  
dung của nó, nghĩa là bài viết đã giữ được hồn cốt của Bách trúng kinh A2517.  
Trong khi, cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] A1237 mà chúng tôi  
nghiên cứu có quá nhiều lỗi (khoảng 80 lỗi), phải dùng mã sửa sai để hiệu chỉnh  
lại, nhưng vẫn còn 2 lỗi không sửa được vào năm Mậu Dần (1758) và năm Quý  
Sửu (1793) [5]. Với khoảng thời gian có lịch của 2 cuốn gần tương đương nhau,  
bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” cho phép ta nhận định việc hiệu đính cuốn Lịch đại  
niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] A1237 mà chúng tôi đã làm [5] là đáng tin  
cậy và hoàn toàn có thể sử dụng được.  
Đóng góp cụ thể: Lịch các năm Tân Sửu (1841), Mậu Thân (1848), Bính  
Thìn (1856), Bính Dần (1866), Kỷ Tỵ (1869) ở Bảng 1 đã củng cố các nhận định  
về lịch nhà Nguyễn giai đoạn 1840 đến 1870 mà chúng tôi đã khảo sát trước đây  
nêu ở [5].  
Lịch Tây Sơn ở năm Quý Sửu (1793) trong cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng  
kinh là một trường hợp không hiệu chỉnh được, nghĩa là trước đây chúng ta còn  
thiếu lịch năm đó, thì nay nhờ “Việt lịch sóc nhuận khảo” cho ta biết được lịch năm  
đó có trong Bách trúng kinh A2517 giống lịch nhà Thanh và như thế là đã bổ sung  
lịch năm đó vào kết quả khảo cứu của chúng tôi trước đây [5], để chúng ta có đủ  
toàn bộ lịch Tây Sơn trong khoảng 1789 đến 1801.  
Bài báo này như một nén hương tưởng niệm TS. Yukio Ohashi, người đã  
đột ngột ra đi vào cuối tháng Mười năm 2019, sau khi kịp cung cấp cho chúng bài  
“Việt lịch sóc nhuận khảo”. Chúng tôi vô cùng thương tiếc và biết ơn Tiến sĩ, người  
rất yêu mến nền thiên văn, lịch pháp Việt Nam và đã ra sức quảng bá nó qua nhiều  
tác phẩm của mình.  
Ngày 10 tháng 6 năm 2020  
L T L, P V L  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
127  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Chương Dụng (章用). (1940). “Việt lịch sóc nhuận khảo” 越曆朔閏. Tây Nam Nghiên cứu  
西南研. 1, tr.25–35.  
2. Hoàng Xuân Hãn. (1982). Lịch và lịch Việt Nam. Phụ trương Tập san Khoa học Xã hội. Paris.  
3. Nguyễn Mậu Tùng. (1992). Lịch Việt Nam 1901-2010. Nxb Khoa học và Kỹ thuật.  
4. Khâm định vạn niên thư 欽定萬年書 [1544-1903]. Ký kiệu R 2200 ở Thư viện Quốc gia Việt Nam.  
5. Lê Thành Lân. (2010). Năm trăm năm lịch Việt Nam (1544-2043). Nxb Hà Nội.  
6. Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh 曆代年紀百中經 [1740-1883]. Ký hiệu A.1237. Thư viện Viện  
Nghiên cứu Hán Nôm.  
7. Lê Thành Lân, Phạm Vũ Lộc. (2018). “Việt lịch sóc nhuận khảo” – Bài viết đầu tiên về lịch cổ  
Việt Nam. Trong Nghiên cứu Hán Nôm năm 2018. Nxb Thế giới, tr. 691-699.  
8. Hoàng Bá Lộc. 黃伯祿. (1910). Trung Tây niên nguyệt thông khảo 中西年月通考 (Pièrre  
Hoang: Concordance des chronologies néoméniques Chinoise et Européenne). Thượng Hải.  
9. Trần Viên. 陈垣. (1962). Nhị thập sử sóc nhuận biểu 二十史朔閏表. Trung Hoa thư cục xuất bản.  
10. Tiết Trọng Tam, Âu Dương Di 薛仲三,歐陽頤. (1956). Lưỡng thiên niên Trung Tây lịch đối  
chiêu biểu 两千年中西曆對照表 (A sino-western calendar for two thousand years 1-2000  
AD). Sinh hoạt, độc thư, tân trí tam liên thư điếm.  
11. Vạn niên lịch biên tả tổ 万年历编写组. (1991). Vạn niên lịch (tân bản) (1841-2060). 万年历  
新版 (1841-2060)). Khí tượng xuất bản xã 气象版.  
12. Đạo Quang vạn niên thư 道光万年书,中國哲學書電子 計劃 Trung Quốc triết học thư điện  
TÓM TẮT  
Chương Dụng là người Trung Hoa được sinh ra ở Anh (1911) và được học thành tài tại  
Đức (1929-1936). Ông tới Hà Nội (1938) đọc sách ở Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, ông đã đọc  
cuốn lịch cổ của Việt Nam là Bách trúng kinh A2517 (nay đã thất lạc) và viết ngay bài “Việt lịch  
sóc nhuận khảo”. Năm 1939, Chương Dụng đi Hương Cảng (một nhượng địa thuộc Anh) chữa  
bệnh, rồi mất tại đó. Ông còn kịp gửi bài báo trên cho tạp chí Tây Nam Nghiên cứu để xuất bản  
vào số 01 năm 1940.  
Với bài báo trên, Chương Dụng – một người nước ngoài – trở thành người đầu tiên nghiên  
cứu lịch cổ Việt Nam và có đóng góp quan trọng. Bài báo trên đã bảo lưu được hồn cốt của cuốn  
Bách trúng kinh (1758-1886) A2517. Nó cho thấy cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (1740-  
1883) A1237 sau hiệu đính giống Bách trúng kinh A2517 hoàn toàn, và như vậy phép hiệu đính  
của chúng tôi là đáng tin cậy. Bài viết của Chương Dụng đã giúp ta tìm được lịch nhà Tây Sơn  
của năm Quý Sửu (1793) mà trước đây chưa khẳng định được. Quan trọng là nhờ có Chương  
Dụng, chúng ta có được một phiên bản thứ hai về lịch Tây Sơn (từ 1789 đến 1801) cũng như  
phiên bản thứ hai về lịch chính thức của nhà Nguyễn giai đoạn 1851-1886 qua cuốn Bách trúng  
kinh A2517 để tăng thêm độ tin cậy của các kết luận khảo cứu.  
128  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020  
ABSTRACT  
ZHANG YONG’S CONTRIBUTION TO THE STUDY OF VIETNAMESE ANCIENT CALENDARS  
Zhang Yong is a Chinese who was born in England (1911) and studied in Germany (1929-  
1936). He went to Hanoi (1938) and read the books in École française d’Extrême-Orient. He reads  
the ancient Vietnamese calendar Bách trúng kinh A2517 (which is now lost) and shortly after  
wrote an article Study on the first days of month and bissextile months of Vietnamese Calendar.  
In 1939 Zhang Yong went to Hong Kong (a ceded land to England) for illness treatment, then died  
there. He also promptly submitted the above article to the Journal Study Southwest to publish in  
the first issue of 1940.  
With the above article, Zhang Yong - a foreigner - became the first person to study the  
ancient Vietnamese calendar and made some important contributions. The above article has  
preserved the essence of the book Bách trúng kinh A2517. The article shows that the edited Lịch  
đại niên kỷ bách trúng kinh (1740-1883) A1237 is completely similar to the Bách trúng kinh A2517  
(1758-1886), and our editing method is reliable. The article of Zhang Yong helped us find the Tây  
Sơn calendar of the year of Gui Chou (1793), which was previously not confirmed. It is important  
that thanks to Zhang Yong’s article, we have a second version of the Tây Sơn Dynasty calendar  
(from 1789 to 1801) as well as a second version of the official Nguyễn Dynasty calendar from  
1851-1886 via Bách trúng kinh A2517 to increase the reliability of research conclusions.  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 940
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của Chương Dụng vào nghiên cứu lịch cổ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_chuong_dung_vao_nghien_cuu_lich_co_viet_nam.pdf