Bài học lịch sử về đối thoại liên tôn giáo từ mối quan hệ Lão - Phật - Nho - Tôn giáo tín ngưỡng bản địa miền Trung thời Chúa Nguyễn

TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN GIÁO  
TỪ MỐI QUAN HỆ LÃO - PHẬT - NHO - TÔN GIÁO  
TÍN NGƯỠNG BẢN ĐỊA MIỀN TRUNG THỜI CHÚA NGUYỄN  
TS. Trần Đình Hằng∗  
Tóm tắt: Từ nội tình dòng họ Trịnh - Nguyễn đã dẫn đến một cơ duyên lịch sử của  
cả dân tộc sau sự kiện vào Nam của chúa tôi Nguyễn Hoàng năm Mậu Ngọ (1558).  
Điểm đặc biệt cần chú ý là từ một vùng tử địa, lại dẫn đến sinh lộ độc đạo đi về phương  
Nam để kiến tạo hoàn chỉnh một đất nước Đại Nam hùng mạnh về sau, trong đó đáng  
chú ý là chiến lược nhân tâm trên cơ sở phát huy hài hòa, dung dưỡng tinh hoa của Lão  
- Phật - Nho - tôn giáo tín ngưỡng bản địa để cố kết cộng đồng. Tư tưởng “đồng  
nguyên” trong tôn giáo tín ngưỡng truyền thống đó thể hiện rõ nét chiến lược nhân tâm  
sâu sắc, là bài học hữu hiệu trong việc cố kết cộng đồng, kiến tạo nên bản sắc văn hóa,  
bản lĩnh quốc gia dân tộc thời chúa Nguyễn và cũng đậm tính thực tiễn trong giai đoạn  
hiện nay.  
1. Mở đầu  
Thời chúa Nguyễn - Đàng Trong đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử và  
văn hóa miền Trung, miền Nam nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung. Từ nội  
tình một dòng họ đã dẫn đến cơ duyên mới, tạo nên một sinh lộ mới về phương Nam  
trong quá trình kiến tạo lãnh thổ quốc gia lẫn ý thức, bản lĩnh dân tộc. Sẽ có nhiều  
nguyên nhân lý giải điều này nhưng trước hết cần chú ý đến vấn đề chiến lược nhân tâm  
của các chúa Nguyễn, trên cơ sở dung dưỡng và phát huy tối đa di sản tôn giáo tín  
ngưỡng từ bên ngoài lẫn bản địa nhằm mục tiêu cố kết cộng đồng, phát huy nội lực để  
ươm mầm một thế lực mới trên chính trường đương thời, đủ sức đối trọng với Đàng  
Ngoài và tiếp tục hành trình về Nam một cách hữu hiệu.  
“Tam giáo (Lão, Phật, Nho) đồng nguyên” thường được các nhà nghiên cứu nhấn  
mạnh khi đề cập đến tôn giáo và chính sách an dân thời chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chúng  
tôi nhận thấy, gắn liền với các giai đoạn lịch sử, các chúa Nguyễn chủ trương chú trọng  
xiển dương các tôn giáo cụ thể khác nhau, gắn liền xu hướng “bản địa hóa” rồi “Việt  
hóa” dần theo hướng Phật giáo hóa, Nho giáo hóa về sau. Cụ thể, (1) gắn liền với thời  
kỳ đầu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tôn giáo tín ngưỡng bản địa đặc biệt được tôn  
Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế  
69  
 
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
trọng, (2) sau đó đến quá trình Phật giáo hóa từ mốc tái lập Thiên Mụ tự và (3) sau cùng  
là quá trình Nho giáo hóa. Chính môi trường xã hội đó đã dung dưỡng, định hình nên  
cốt cách con người xứ Thần kinh một thuở có sự ảnh hưởng sâu sắc, hòa quyện đến mức  
khó tách bạch của tư tưởng Tam giáo. Điều đó có thể được nhìn nhận trong những con  
người cụ thể gắn liền với chu kỳ đời người (tuổi trẻ, trung niên, về già khi qua ngưỡng  
“tri thiên mệnh”), thậm chí chỉ trong khoảng thời gian một ngày đêm (sáng sớm, ban  
ngày làm việc, ban đêm).  
Sự chuyển hóa vai trò của tôn giáo tín ngưỡng ở Đàng Trong luôn nổi bật tính chất  
hài hòa, dung dưỡng trên cơ sở tôn trọng hệ giá trị đặc trưng của từng tôn giáo tín  
ngưỡng đương thời, nhằm phát huy tối đa chức năng nhân tâm, cố kết cộng đồng để xây  
dựng một vùng trời mới Đàng Trong. Có lẽ chính vì vậy mà kể cả khi Nho giáo được  
triều đình phong kiến (từ chúa Nguyễn đến vua Nguyễn) xiển dương, Lão giáo và Phật  
giáo vẫn có sự chi phối đời sống xã hội một cách sâu sắc theo dạng phân định đời và  
đạo. Trong phủ chúa Nguyễn vẫn hiện hữu những cơ quan Lão giáo và đến thời  
Nguyễn, các vị sư Phật giáo vẫn đóng vai trò chi phối đời sống lễ nghi, kể cả Nho giáo  
lẫn Đạo giáo, ở chốn cung nội.  
2. Tôn giáo tín ngưỡng ở vùng trời mới Đàng Trong trên con đường đi về  
phương Nam của người Việt, từ thế kỷ XVI  
Đất nước Vit Nam hin nay về cơ bản là mt dải đất hp hình chS, ni lin hai  
châu thBc bvà Nam b, nm kp gia vùng cao nguyên - đi núi phía Tây và bin  
cả ở phía Đông. Có được thành quả đó, cần có snhìn li những bước tiến đầu tiên ca  
các cộng đồng cư dân Việt tmiền ngoài đi về phương Nam, đặc bit là du n thi  
chúa Nguyễn, cho đến skin thng nhất đất nước Đại Nam năm 1802 thời Nguyn.  
Chính thc từ đó, “các cộng đồng dân cư đông đúc và canh tác nông nghip lúa nước  
rng ln ca hai vùng châu thổ được ni bi hàng ngàn cây sbbin hp vn khó  
khăn trong việc liên lc giao tiếp bằng đường bộ”. Cũng chính khát vọng thng nhất cơ  
bn ca lãnh thổ và con người như vậy, đã khắc phục, vượt qua được vô vàn khó khăn,  
trngi, phát xut tvị trí địa lý của vùng đất, lãnh th, kéo theo nhiu hly vnhân  
qun xã hi sut chiu dài lch sdân tc.1  
1
Xem thêm phần Dẫn nhập, trong Li Tana, Anthony Reid (Edited,.), Southern Vietnam under the  
Nguyẽ̂n: documents on the economic history of Cochinchina (Đàng Trong), 1602-1777, Pasir Panjang,  
Singapore: Institute of Southeast Asian Studies (Sources for the economic history of Southeast Asia,  
No. 3), 1993.  
70  
 
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Khong trống đóng vai trò kết nối đó là dải đất min Trung. Sni liền như vậy  
không chdin ra thun túy vvtrí, khoảng cách hay đặc tính địa lý mà quan trng  
hơn, chính là sự tiếp xúc, tương tác, hóa giải mi sdbit vnn tng kinh tế, cơ tầng  
xã hội và văn hóa các địa phương, vùng miền, kiến tạo nên vùng đất mới Đàng Trong.  
Nhng lý do chính tr, quân sự, như sau này là chiến cuộc Đàng Trong - Đàng Ngoài,  
gii tuyến sông Gianh... suy cho cùng, li càng cng c, tht chặt hơn cho lý do đoạn  
tuyt, xa rời đất Bc trong những con người tha hương Nam tiến, vốn luôn được csúy,  
đng lõa bi khoảng cách địa lý ln nhng nét dbiệt trong văn hóa phương Nam so với  
cố hương. Do vậy, khát vọng định hình bn sc, khẳng định mình trên vùng đất mi  
phương Nam của lp lớp cư dân Việt, ca chính thmi hNguyễn càng đưc thôi thúc  
trên nn tng hành trang từ đất Bc, tích hp vi di sản văn hóa bản địa phương Nam  
mt cách hài hòa, thiết thc, phù hp nhất. Có như vậy, sc sng Việt nơi đây mới có  
thể đứng vng, khẳng định ngày càng mnh m, hóa gii mọi nguy cơ xung đột, tng  
bước Vit hóa các yếu tố văn hóa bản địa phi Vit.2  
Có thcoi cái nôi châu thBc Blà một tâm điểm, ht nhân chi phi xuyên sut  
lch sử văn hóa Việt Nam, gn lin truyn thng nông nghiệp lúa nước được phát huy  
tối đa. Do vậy, vùng châu thổ đó trở nên quá cht hp, bi rừng núi và đế chế Trung  
Hoa vphía bc, phía tây, bin cả phía đông. Người Vit vùng châu thổ đối din vi  
biển nhưng cũng với một thái độ rất đặc thù, là “quai đê lấn bin”, nhờ vào phương thức  
ci tạo điều kin tnhiên hu hiệu: “cây cói đi trước, lúa nước theo sau”3. Do vậy, đi về  
phương Nam, trt sm trong lch sdân tộc, đã trở thành sinh lộ độc đạo, định hướng  
chủ đạo sut quá trình kiến to quc gia lãnh th. Xem xét trong bi cảnh đó, có thể  
nhn thy rõ ý nghĩa đặc bit trong cái nhìn chiến lược về phương Nam của nhà Trn,  
gii quyết dứt điểm nút thắt Hoành Sơn - Hải Vân Sơn cho công cuộc Nam tiến, qua  
cuc hôn nhân lch sca Huyn Trân công chúa năm Bính Ngọ (1306).4  
Xem xét shin din và mi quan hgia các yếu tVit mang theo tmin  
ngoài và yếu tphi Vit bản địa, là vấn đề đặc bit quan trng trong việc xác định hệ  
2
Trần Đình Hằng (2009), “Của Người, Của Ta: Thần điện làng Việt miền Trung”, Văn hóa nghệ thuật miền Trung - Hành trình 10 năm tiếp cận  
[HTKH], Huế, Phân Viện VHNTVN tại Huế.  
3
- Từ Chi, Phạm Ðức Dương (1996), “Vài nhận xét về cách ứng xử của người Việt trước biển”, T/c Thông tin KH CN Thừa Thiên Huế, số 1, tr. 24.  
- Gourou, P. (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (Nguyễn Khắc Ðạm, Ðào Hùng, Nguyễn Hoàng Oanh d.), H.: Hội KHLSVN, Viện Viễn Ðông  
Bác Cổ Pháp, Nxb Trẻ, tr. 38, 74 - 86, 121.  
- Viện Đông Nam Á (1996), Biển với người Việt cổ (Chủ nhiệm: Phạm Đức Dương; Ch.b: Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ), H.: Nxb. VHTT, tr. 43-92.  
4
- Cao Huy Thuần (2005), “Vạn đại dung thân”, trong Nhiều tác giả, Tiếp tục đổi mới kinh tế và xã hội để phát triển, Kỷ yếu Hội thảo Mùa Hè, Đà  
Nẵng (28 - 30/7). T/c Thời Đại Mới, số 6 (2005).  
- Nguyên Ngọc (2005), “Quảng Nam, đôi suy nghĩ về một bước đi độc đáo trên hành trình dân tộc”, trong Từ Đông sang Tây (tập biên khảo về khoa  
học xã hội và nhân văn), Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính Ch.b, Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng, tr. 151 - 166.  
71  
     
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
giá trbn sc và bản lĩnh Việt trên vùng đất mới phương Nam, hình thành sc thái  
riêng của văn hóa miền Trung, văn hóa miền Nam. Chính thc từ năm 1306, người Vit  
đã hiện din ti tn bbc sông Thu Bn. Tuy nhiên, yếu tVit vn còn mnht bi  
tính cht “thiu s”, thm chí cả hơn trăm năm sau, khi vua Lê Thánh Tông nam chinh  
năm 1470 - 14715 và hu hết nhng ngôi làng cca xThun - Qung vn chỉ được  
ghi nhn mt cách rõ nét trong Ô Châu cn lc (1553 - 1555).6  
Tni tình mt dòng h, dẫn đến cơ duyên lịch strọng đại là hNguyn vnam  
(Đoan Quận công Nguyn Hoàng, Mu Ng- 1558), ươm mầm mt thế lc chính trị  
mới đương thời. Rõ ràng, hTrnh mun dn cu em vvào tử địa Thuận Hóa (sơn lam  
chướng khí, nơi tụ hp, n náu ca các thế lc nhà Mc, tù ti tnạn…) nhưng có thể  
nói, xu thế Nam tiến khách quan ca lch sử và tài năng lỗi lc của Đoan Quận công đã  
dn xoay chuyn tình thế, biến tltrthành sinh l7. Tt c, cộng hưởng vi tính cht  
cách mạng tiên phong trong con người Thanh - Nghệ “cương cường”8 dũng cảm ri bỏ  
quê hương bản quán để ra đi tìm đất mi, những “Trung nghĩa quân” theo chúa Tiên  
buổi đầu đầy cam go, góp phần ươm mầm thành công mt chính thmới Đàng Trong  
phía nam Hoành Sơn.  
Tvic cng cố vùng đất đứng chân buổi đầu sut dải đất Hoành Sơn - Hi Vân  
Sơn vốn có smnh chính trị tư tưởng nhưng lại nghèo tiềm năng kinh tế, phải đến lúc  
5
Bùi Trành, Thuỷ thiên bản, lưu giữ tại Nhà thờ họ Bùi làng Câu Nhi (Hải Lăng, Quảng Trị), khởi viết  
năm Thuận Thiên 2 (1429), qua sáu lần sao lục, bản gần đây thời Tự Đức, Khải Định. Bản dịch của Bùi  
Hoành, không đề năm dịch.  
6
Vô danh thị (2001), Ô châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc, tập thành, Trần Đại Vinh, Nguyễn Văn Phước  
n dịch, hiệu chú, Huế: Nxb Thuận Hóa.  
7 - Bản sớ của Trịnh Kiểm gửi vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa nhấn mạnh: “Thuận Hóa  
là nơi quan trọng, quân và của do đấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn  
tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, ví không được tướng tài trấn thủ vỗ  
yên thì không thể xong. Đoan Quận công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai đi trấn ở đấy, để  
cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền nam”. Vua nghe theo và trao  
cho họ chúa trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi (QSQ triều Nguyễn,  
2002, Đại Nam thực lục, tập I, bản dịch Viện Sử học, H.: Nxb Giáo dục, tr. 29).  
- Trần Ðình Hằng (2008), “Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử (Quảng Trị) đến Bà Trời Áo Đỏ ở Thiên Mụ  
(Huế): Sinh lộ tư tưởng của vùng đất mới Nam hà”, trong UBND tỉnh Thanh Hoá - Hội KHLS Việt  
Nam, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, H.:  
Nxb Thế giới, tr. 524 - 532 (Kỷ yếu HTKH, Thanh Hoá, 18 - 19/10).  
8
“Dư địa chí”, trong Nguyễn Trãi (1978), Toàn tập, in lần thứ 2, có sửa chữa và bổ sung, H.: Nxb  
KHXH, tr. 231 - 234.  
72  
       
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
nhãn quan chính trca các chúa Nguyễn vượt qua Hi Vân, thì xQuảng “là nơi giàu  
có nht thiên hạ”, có thương cảng Hi An hoạt động nhn nhịp điển hình, mi thc sự  
bổ sung được ngun lc kinh tế cho chính thmi Nam hà9. Các chúa Nguyn làm chủ  
trng trn Qung Nam vi nhiu ngun li nông nghip vùng châu thdọc lưu vc sông  
Thu Bn cùng vô vàn ngun li lâm thsn có giá trhàng hóa quc tế. Tuy nhiên, đích  
hướng đến có tính chiến lược trên con đường Nam tiến của người Việt lúa nước thc sự  
mở ra khi đến với Đồng Nai - Gia Định “đất rộng người thưa” thẳng cánh cò bay, mt  
hậu phương vững chc.  
Có lnn tng kinh tế là mt trong nhng vấn đề then cht chi phi trli cho  
mt kết cu quyn lc trong bc tranh chính trị Đại Việt giai đoạn tthế kXVI vsau,  
dẫn đến skhác bit giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở đây, yếu tbin quyết định ti  
trình độ phát trin ca kinh tế ngoại thương gắn lin ngành hàng hi thịnh đạt... đã đem  
li ngun lc mnh mcho chính thNam hà. Stái phc hi cng thHi An là mt  
điển hình cho nhãn quan chính trị thông thương, mở ca ca các chúa Nguyn, trong  
mi quan hệ xuôi ngược ca nội thương và ngoại thương sầm uất. Hơn nữa, xứ Đàng  
Trong là một vùng đa dân tộc, mang đậm bn sắc văn hóa tộc người vn còn ít chu nh  
hưởng Nho giáo như Đàng Ngoài. Trên một nn tng kinh tế - xã hội đặc trưng như vậy,  
có thnhn thy: “Theo nhiu khía cạnh, nhà nước phía nam Vit Nam thuc về ‘Đông  
Nam Á’ nhiều hơn so với nhà nước đối đầu ở phương bắc”.10  
Đặt trong bi cnh lch schính trxã hi Vit Nam tgia thế kỷ XVI đầy biến  
đng, stn ti ca thế lc Nguyn Hoàng tht quá cam go. Nhãn quan chính trli lc  
ca ông sm nhận ra phương Nam đầy sc sng tim tàng, vượng khí bao trùm nhưng  
phải đi qua tử lÔ - Rí phía nam Hoành Sơn. Để thoát him, hầu như ông chỉ còn li  
phương cách duy nhất là thoát khi lòng cho Bc bộ để đi về phương nam. Nhìn nhận  
vấn đề mt cách sâu rộng hơn thì có lnó li trở thành đại biu cho việc khơi nguồn gii  
quyết nn nhân mãn châu thsông Hng, qua vic thc hin li sm truyn “Hoành  
Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, tương truyền là ca Trng Trình Nguyn Bnh Khiêm,  
nhm gim thiu cnh nhi da xáo tht, là gii pháp chiến lược gii quyết nn “nhân  
9 Lê Quý Đôn (1977), Toàn tập, T.1. Phủ biên tạp lục, H.: Nxb. KHXH, tr. 240, 337.  
10 Li Tana, Anthony Reid (Edited, .), 1993, phần Dẫn nhập, Tlđd,.  
73  
   
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
mãn”. Qua Hoành Sơn trở thành sinh lộ “độc đạo” trên chính trường đương thời, khả dĩ  
không btiêu dit.11  
Từ đó, có thể thấy được tm vóc ca chúa Tiên trong vic kiến thiết nn tng  
dng nghip buổi đầu. Mưu đồ cát c, vi những bước đi chắc chn, thm chí là “khổ  
nhc kế12 nhưng không có con đường nào khác, ông vẫn giương cao ngọn c“phù Lê  
dit Trnh” bi không mun mang tiếng “soán nghịch”, “vô đạo”. Mc dù xã hi Lê mt  
rối ren nhưng ngọn ctrung quân truyn thống và tư tưởng Nho giáo vn chính danh.  
Vấn đề có tính chiến lược tbuổi đầu ca hNguyn là phi xác lp nn tảng tư tưởng  
thng nhất để ckết xã hi, làm cht keo kết dính cộng đồng, định hướng tinh thn cho  
quc gia lãnh thmà vẫn không vượt khi, không rp khuôn máy móc “khuôn vàng  
thước ngọc” định chuẩn Nho giáo đương thời tmin Bc. Pht giáo từng bước đảm  
đương được smng cao cả đó trên vùng đất mới Đàng Trong.  
Nhiu nghiên cứu đánh giá cao thời Đàng Trong trong diễn trình lch sử và văn  
hóa Đại Vit khi chỉ ra điểm đặc bit ở trường hp Vit Nam, ddàng có thkể đến  
nhiu skin cthể đã đem lại cho xsnày 3/5 din tích nhvào quyết định ri khi  
kinh đô Thăng Long của chúa Tiên Nguyn Hoàng, những tưởng là một nước cthí. Từ  
ý tưởng tng khmột địch th, Trnh Kiểm đã đi sai nước cbi không nhng không  
thành công mà còn trao cho Nguyn Hoàng một vương quốc. Không chdng li ở đó,  
11  
Thiên tai, địch họa, mất mùa đói kém cùng nạn cường hào nhũng nhiễu ở miền Bắc càng làm tăng  
cường độ di cư và “chẳng có con đường nào về phía Tây và thật quá khó khăn, không thể đi về phương  
Bắc. Vì vậy chúng ta nên cố hết sức mình để tiến về phía Nam” (Nguyễn Cư Trinh, Sãi Vãi).  
12 Tháng 5/Nhâm Thìn (1592), chúa Tiên mang binh quyền ra Đông Đô yết kiến, vua Lê yên ủi: “Ông làm  
trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”, phong Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng  
phủ sự Thái úy Đoan Quốc công. Sau 8 năm đánh đông dẹp bắc “phò Lê”, tháng 5/Canh Tý (1600),  
chúa Tiên mới trở về nam nhân sự kiện các tướng nhà Lê là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga  
làm phản ở cửa biển Đại An (thuộc Nam Định). Cho dời dinh phủ sang Dinh Cát. Đến tháng 10, mới gả  
công chúa Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả của Trịnh Tùng) và “từ đấy, chúa không ra Đông Đô nữa”  
(QSQ triều Nguyễn,2002, Thực lục, Tlđd, tr. 33-35).  
Ngay khi còn ở Đông Đô, chúa Tiên vẫn dõi theo hành trình nam tiến, trong việc khai hoang vỡ đất.  
Lệnh truyền của Tổng trấn Thuận Quảng năm 1597 cho Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh nói rõ rằng:  
“...Hãy liệu đem số dân xã Bà Thê đã trục vào hạng dân và các thôn phường khách hộ theo hầu công  
việc, lấy riêng số dân khách hộ đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà Niễu, trên từ nguồn mọi,  
dưới đến cửa biển, kết lập gia cư địa phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho tới khi thành thục sẽ nộp thuế  
như lệ thường...” (Trần Viết Ngạc, 1999, “Về một công văn của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng  
năm 1597”, Nghiên cứu Huế, tập I, Trung tâm Nghiên cứu Huế, tr. 306).  
74  
   
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
din tiến ca câu chuyn vnam ca ông và hu duệ đã góp phần quan trng trong vic  
làm thay đổi toàn blch sVit Nam và thm chí, ca cả Đông Nam Á13.  
Trong htham chiếu ca lý thuyết vmột khu trung tâm, Thăng Long mang đậm  
du ấn văn minh Đại Vit tthi Lý - Trn - Lê. Tthế kXVI, Thun Quảng đã ươm  
mm mt thế lc chính trmi ca hNguyn ngày càng hùng mnh, to nên bc tranh  
lãnh thvà lch s- văn hóa Đàng Trong hoàn bị trong sự đa dạng, mang nhiu dáng  
dp khác bit và ni trội, năng động hơn Đàng Ngoài. Tất c, chính là tiền đề căn bản  
cho stái lập vương triều Nguyễn đầu thế kXIX. Ở đây, Li Tana đã rất chú trng ti  
skhác bit gia hai xsở, đặc bit là xut phát tý thc hlàm nn tảng tư tưởng, khi  
mà Nho giáo đã thống trị Đàng Ngoài suốt mt thi kdài, còn ở Đàng Trong, lại chưa  
được đề cao, thậm chí chưa được biết đến14.  
Tuy nhiên, điểm khác bit mà chúng tôi nhn thy là quan nim về Tam giáo đồng  
nguyên trong xã hội Đàng Trong, hoàn toàn chưa hẳn là mt xã hi có shin hu, chi  
phối đồng thi ca cả Đạo giáo, Pht giáo và Nho giáo; hoc mt xã hi “hu Pht, phi  
Nho” theo cách nói ca Li Tana15.  
Chúng tôi mun nhn mạnh, đi sâu phân tích khía cạnh tư tưởng ca chính thNam  
hà qua ba giai đoạn: (1) tvic chú trng các truyn thống văn hóa bản địa (quá trình bn  
địa hóa) thi kỳ đầu; (2) chuyn hóa vai trò ni bt ca các vnthn - Bà MXSở  
thành Pht Bà mang dáng dấp Quan Âm để định hình vai trò chủ đạo, đảm đương vai trò  
hệ tư tưởng chính thng ca Pht giáo ở giai đoạn gia; (3) và sau cùng, là sni tri ca  
Nho giáo, một khi Đàng Trong đã có sự hoàn b, kin toàn theo hướng tp quyn, phong  
kiến hóa theo mô hình thiên triều phương Bc.  
Một điều như có vẻ ngu nhiên khi ssách nói vic Nguyn Hoàng cho tái xây  
dng chùa Thiên M(1601)16. Tín ngưỡng thnthn rt phbiến đương thời nhưng  
13 Li Tana (1999), Xứ Ðàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Tp. HCM: Nxb.  
Trẻ, Dẫn nhập, tr. 15.  
14 Li Tana, Xứ Ðàng Trong…, Tlđd, tr. 16.  
15  
Li Tana (2001), “Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII. Một mô hình khác của Việt Nam”, trong  
Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, H.: Nxb. Trẻ - Xưa & Nay, tr. 186.  
16  
Bấy giờ chúa dạo xem hình thế núi sông, thấy trên đồng bằng xã Hà Khê (thuộc huyện Hương Trà),  
giữa đồng bằng nổi lên một gò cao, như hình đầu rồng quay lại, phía trước nhìn ra sông lớn, phía sau có  
hồ rộng, cảnh trí rất đẹp. Nhân thế hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò này rất thiêng, tục  
truyền rằng: Xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng: 'Sẽ có vị chân  
chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho bền long mạch'. Nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân  
đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho nơi ấy có linh khí, mới dựng chùa, gọi là chùa Thiên Mụ” (QSQ  
triều Nguyễn, 2002, Thực lục, Tlđd, tr. 35).  
75  
       
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
điểm đáng bàn là tài năng chính trnhy bén xut chúng của chúa Tiên đã kịp thi nm  
bắt, khai thác và hướng tt cvào mc tiêu bình ổn nhân tâm. Điểm đáng chú ý là trước  
thi chúa Tiên Nguyễn Hoàng, người Việt di cư đã “Việt hóa” vnthn Bà MXSở  
này bng cách phiên âm, chuyn hóa Bà trthành bà Thiên Mqua cmt chng  
đường dài đầy cam go, tPoh Inư Nagar [Bà MXS] thành Thiên Y A Na [theo âm  
Hán Việt] có nghĩa là Bà MTrời Đất/XS, lại được cô đọng thành Thiên Mu, và dân  
gian thường gi là Thiên M. Từ đó, Phật giáo trthành hệ tư tưởng chính thng, trên  
cơ sở tích hợp tín ngưỡng bản địa, thông qua vic tái lp chùa Thiên M, tmt giai  
thoi, truyn tích Bà Trời Áo Đỏ17. Cũng trên phông nền chung đó, có lhiện tượng/sự  
kiện Đức Mhin ra La Vang (Qung Tr) hi cui thế kỷ XVIII, cũng là một phương  
thc tiếp nhn, tiếp cn và vn dụng quá trình thiêng hóa tín ngưỡng nthn bản địa  
dưới góc độ tôn giáo.  
Điều đó lại thêm phần ý nghĩa khi trước đây, Nguyễn Hoàng tng rất ghét đạo  
Phật: “Ngày trước, khi còn ở Trung đô, một hôm givờ ốm mệt đi dạo chơi ở ngoài, bị  
mt gã thy chùa làm nhc. Từ đó ôm giận nhà chùa, hkhi có việc chay đàn sám  
nguyn cầu phúc thường chchuộng dùng đạo sĩ, không dùng tăng thích. Các nhà sư  
đều lánh xa, không ai dám đến hu”18.  
Những sự kiện này nhấn mạnh đến ... khả năng của Nguyễn Hoàng là nhân tố  
quyết định và ông đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà hiền triết của quốc gia xức  
dầu thánh phong làm người trị vì miền Nam...19. Nếu nói thực thi câu sấm của Trạng  
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, mới dẫn đến cơ duyên Nguyễn Hoàng vào Nam20, thì theo  
Trịnh - Nguyễn diễn chí, sự kiện này diễn ra rất muộn, mãi cho đến mùa hè năm Canh  
Tý (1600), có nghĩa là cậu cháu Nguyễn Hoàng - Nguyễn Ư Dĩ đã vào Nam những hơn  
40 năm rồi, do “phải tính kế giữ mình, nhưng không nghĩ ra cách gì”, mới tới xin Trình  
Quốc công vấn kế, thì được ông cho tờ giấy vẻn vẹn 8 chữ: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại  
17 - Trần Đình Hằng (2008), “Từ Cô Gái Áo Xanh...”, Tlđd.  
- Trần Đình Hằng (2008), “Tiếp xúc văn hoá Việt - Champa ở miền Trung: nhìn từ làng xã vùng Huế”,  
Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần III, Hà Nội, 4-7/12.  
- Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Phước Bảo Đàn, Trần Đình Hằng…, (2006), Hải Cát: Đất và Người, Huế:  
Nxb. Thuận Hoá.  
18  
Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Việt Nam khai quốc chí truyện (Ngô Ðức Thọ, Nguyễn Thuý Nga dịch  
chú và giới thiệu), H.: Nxb. Hội Nhà văn, tr. 38).  
19 Taylor. Keith W. (2001), “Nguyễn Hoàng và bước mở đầu...”. Tlđd, tr. 97.  
20  
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên… (1993), Đại Việt sử ký toàn thư (Nội các quan bản, mộc  
bản khắc năm Chính Hoà 18 [1697]), bản dịch Viện KHXHVN, H.: Nxb. KHXH, tr. 606, 611.  
76  
       
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
dung thân”21. Chính từ đây, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò ẩn dật nhưng tối  
quan trọng của Khai quốc công thần Uy Quốc công Nguyễn Ư Dĩ, nay vẫn được người  
dân thờ tự ở xóm Nam Bôi, làng Trà Liên (Triệu Giang, Triệu Phong, Quảng Trị).  
Đoạn đường Ái Tử - Phú Xuân chỉ ngắn ngủi chừng 65 km nhưng phải mất tới 78  
năm (1558 - 1636), hai đời chúa (Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên) mới từng bước  
tiệm cận được Kim Long đầy thận trọng, bởi phải tôn trọng yếu tố văn hóa bản địa  
phương Nam nhiều dị biệt, nhất là tín ngưỡng thờ nữ thần, theo hướng tích hợp và tránh  
mọi nguy cơ xung đột có thể diễn ra22. Trong quá trình trung chuyển từ việc tiếp thu di  
sản văn hóa bản địa phương Nam để từng bước định hình nên giá trị bản sắc, có lẽ vì  
vậy mà Taylor cũng nhận thấy: Các giai thoại ghi lại sự gặp gỡ giữa Nguyễn Hoàng  
với thần linh địa phương và thiết lập nơi thờ cúng gợi cho thấy việc áp dụng một  
phương thức đặc biệt Việt Nam trong sự thiết lập một địa điểm mới của quyền lực hợp  
pháp, lần đầu tiên tại vùng đất mới phương Nam23.  
Ở dạng thức này, chúng tôi đã từng dẫn chứng nhiều sự kiện cần lưu ý24. Ngay ở  
Ái Tử buổi đầu, trước hiện tượng người dân bản địa mang 7 chum nước đến vẩy mừng  
vị tân trấn thủ, lời giải thích của vị quốc cữu Nguyễn Ư Dĩ rất có ý nghĩa: Đấy là phúc  
Trời cho đó. Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa thượng mới đến mà dân đem nước  
dâng lên, có lẽ là điềm được nước đó chăng25. Trong trận chiến trên sông Ái Tử, cho  
dù mỹ nhân kế là mẹo vặt”, “thủ đoạnrất không đáng mặt trượng phu, dễ làm mất  
lòng người, nhưng chúa Tiên đã sớm vận dụng nguyên tắc “thiêng hóa” theo dạng thức  
nữ thần sông Trảo Trảo (Cô Gái Áo Xanh) báo mộng để có được chiến thắng, trấn an  
quân tình. Tương tự, ở mức độ đỉnh cao là việc kiến tạo nên hình tượng Bà Trời Áo đỏ  
để khai sinh chùa Thiên Mụ. Có vẻ đó là hình ảnh của tin tưởng tôn giáo tiên tri của  
phương Nam trùng hợp với quan niệm mong đợi chân chúa Nho giáo được đưa ra để  
ủng hộ ý thức phân ly thành hình trong con người Nguyễn Hoàng sau lần trốn về nam  
(1600)”26.  
21  
Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Việt Nam khai quốc chí truyện (Ngô Ðức Thọ, Nguyễn Thuý Nga dịch  
chú và giới thiệu), H.: Nxb. Hội Nhà văn, tr. 73.  
22 Trần Đình Hằng, “Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử...”, 2008, Tlđd.  
23 Taylor. Keith W. (2001), “Nguyễn Hoàng và bước mở đầu cuộc Nam tiến của người Việt, trong Nhiều  
tác giả, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, H.: Nxb. Trẻ - Nguyệt san Xưa & Nay, 2001, tr. 179).  
24 Trần Đình Hằng (2008), “Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử...”, Tlđd.  
25  
QSQ triều Nguyễn (1997), Ðại Nam liệt truyện, tập I, Tiền biên, Huế.: Nxb. Thuận Hóa, tr. 83.  
26 Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, Người và Đất Việt, H.: Nxb. VHTT, tr. 211.  
77  
           
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Thời chúa Nguyễn, theo Onishi Kazuhiko, Đạo giáo có vai trò đặc biệt quan trọng  
mà lâu nay, thường ít được các nhà nghiên cứu quan tâm, được thể hiện cụ thể qua các  
thiết chế ty như Nội pháp lục, Huyền pháp, Đạo sĩ đạo lục, Tứ quí, Đạo sĩ lương y. Điều  
đó được tác giả đi sâu phân tích từ dẫn chứng về chùa Thiên Tôn ở Quảng Trị27.  
Có thể thấy Thực lục tiền biên thường đề cập đến việc chúa Nguyễn Hoàng  
thường kinh dinh đất này [Phú Xuân và vùng đất nam Hải Vân]. Dù rằng xem ra sử  
liệu đề cập có vẻ như rất tình cờ, kể cả chuyện cử người con trai thứ sáu đầy tài năng  
Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam - cửa ngõ kinh tế ngoại thương, trọng trấn  
phương Nam..., nhưng đặt trong bối cảnh đó, có thể thấy sự kiện Hà Khê - Thiên Mụ tự ra  
đời trên nền tảng giai thoại dân gian về Bà Trời Áo Đỏ cùng lời sấm truyền liên quan đến  
vị “chân Chúa” xuất hiện là một bước chiến lược trên con đường phát triển Đàng Trong  
về nam, mở đầu từ chúa Tiên và được các chúa kế tục tuân thủ thực hiện. Vấn đề không  
còn là “quân tình” giới hạn trong một trận đánh ở Ái Tử chật hẹp nữa mà Bà Trời Áo đỏ  
đã mang một sứ mạng khác, tầm vóc quốc gia lãnh thổ, hay chí ít cũng là vùng miền -  
“dân tình” để cố kết nhân tâm, xác lập hệ tư tưởng khi đã có sự chuyển hóa về chất lẫn  
mang lớp áo Phật giáo, trở thành Phật Bà Quán Thế Âm.  
Phân tích các dữ liệu từ chính sử, có ý kiến nói Nguyễn Hoàng “có xu hướng thu  
hút bởi các nữ thần”28. Tuy nhiên, theo chúng tôi, những nhận định đó chỉ sát thực ở giai  
đoạn đầu, hay một nửa, là lúc mà tính chất Đông Nam Á tiệm cận nhất, khi ông “có đủ  
đức độ để giành được sự quan tâm và giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên29. Còn về sau,  
khi chính thể họ Nguyễn đi chệch khỏi quỹ đạo đó, bế môn tỏa cảng bởi lo sợ ảnh hưởng  
ngày càng lớn của các nước phương Tây để quay trở về chịu ảnh hưởng cố hữu của thiên  
triều phương Bắc, quá trình phong kiến hóa bắt đầu thì yếu tố Nho giáo/vai trò của Nho sĩ  
ngày càng được củng cố30. Rõ ràng là không hoàn toàn các nữ thần “thu hút” Nguyễn  
Hoàng tuyệt đối mà cũng có thể lập luận ngược li, rằng tài năng của Chúa Tiên đã thấy  
được ở đó sức mnh ckết nhân tâm, mà ông, khi đang mưu cầu nghip bá cho chính  
27  
Onishi Kazuhiko (2013), “Đạo giáo thời chúa Nguyễn qua nghiên cứu chùa Thiên Tôn tại làng Đâu  
Kênh, tỉnh Quảng Trị”, trong Kỷ yếu hội thảo Quảng Trị - Đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng  
(1558-2013), Quảng Trị: UBND tỉnh Quảng Trị- Hội Khoa học Lịch sử VN, tháng 9, tr. 122-136.  
28 Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, Người và Đất Việt, Tlđd, tr. 210.  
29 Taylor. Keith W. (2001), “Nguyễn Hoàng...”, Tlđd, tr. 98.  
30  
Trong Nam hà tiệp lục, tác giả nhìn nhận rằng các chúa sớm “thấy việc dùng binh là cấp thiết nhưng  
Nho học là điều không thể thiếu” (Lê Đản, Nam hà tiệp lục, Tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Huế,  
Nguyễn Đình Thảng d., Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử Trường ĐHKH Huế, 1999).  
78  
       
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
thmới đang cần, theo nguyên tc “thiêng hóa”. Đồng thời, cũng khẳng định yếu tbn  
sc - bản địa hóa, tcấp độ làng xã, cho đến vùng min, và sau cùng là quc gia lãnh  
th. Tt c, nhm giúp khẳng định tính chính danh, vấn đề nhân tâm: hợp lòng người,  
thun ý tri.  
Tài năng của các vị chúa Nguyễn thể hiện rõ ở khía cạnh tư tưởng này và đó chính  
là nền tảng vững chắc nhất cho hệ thống chính quyền được hoàn bị, mà Huế là điểm  
dừng sau cùng của quá trình định đô. Taylor. K. bằng việc phân tích hai bộ chính sử  
Toàn thư Thực lục, đã khắc họa rõ nét hai hệ thống quan điểm nhìn nhận, từ hai hệ  
qui chiếu khác nhau, tạm gọi là tính chất Đông Á và Đông Nam Á. Theo đó thì Toàn  
thư nêu bật ý tưởng về Nguyễn Hoàng như một kẻ xảo trá, ngạo mạn và đầy tham vọng,  
người đe dọa nền hòa bình và ổn định quốc gia, người không thể lay chuyển bởi yêu cầu  
về lòng trung thành. Còn Thực lục lại phác họa ông như một người làm những gì mình  
muốn, người làm họ Trịnh lo sợ; điều này không quá mâu thuẫn với cách nhìn của  
phương Bắc. Nhưng nó còn cho thấy Nguyễn Hoàng là người có số mệnh vượt ra ngoài  
đường chân trời của các bậc tiền bối, người gây nên tiếng vang với phong cảnh của  
vùng đất mới, các thế lực siêu nhiên cư ngụ ở đó và những cơ hội có được. Đàng Trong  
gắn liền với biểu tượng của khát vọng tự do, rộng mở và cả tính cách mạng, mà sự  
nghiệp của các chúa Nguyễn được ví như cánh chim bằng của miền Thuận Quảng”. Do  
vậy không phải ngẫu nhiên, có ý kiến cho rằng ranh giới của tính chất Đông Nam Á đó  
chí ít cũng từ Hoành Sơn, hay rõ nét nhất là ở Hải Vân Sơn, và Cuộc gặp gỡ của ông  
với thế giới rộng lớn vùng Đông Nam Á đã đem lại một bài học kinh nghiệm mới về sự  
tự do. Ông dám chấp nhận bị tuyên án là một kẻ chống lại triều đình nhà Lê bởi ông đã  
tìm được vùng đất, nơi những lời tuyên bố như vậy không còn quan trọng nữa. Giao  
điểm của Đông Nam Á và Việt Nam là chỗ để thử nghiệm những lựa chọn về việc nên  
là như thế nào mà không cần một mô hình vũ lực. Ở phương Nam, Nguyễn Hoàng là  
trung tâm của một quốc gia Việt Nam mới...31.  
Tôn trọng sắc thái văn hóa bản địa và từng bước tích hợp với truyền thống văn hóa  
Thăng Long trên vùng đất mới một cách phù hợp là tinh thần xuyên suốt trong chiến  
lược nhân tâm của các chúa Nguyễn. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc đó và dấu ấn  
Phật giáo đã góp phần chính yếu tạo dựng nên sắc thái văn hóa Đàng Trong.  
Trong lịch sử, có hai thời kỳ Phật giáo hòa mình thành sức mạnh quốc gia, dân  
tộc: thời Lý - Trần và thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Tuy nhiên, xét đến tận cùng, ở  
31 Taylor. Keith W., Nguyễn Hoàng...”, Tlđd, tr. 175, 181.  
79  
 
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
đây đã có sự khác biệt căn bản về bản chất: tính chiến lược ở thời Lý - Trần, nhưng chỉ  
là sách lược thời Đàng Trong. Tính chất sách lược ở đây là bởi trong một bối cảnh bất  
đắc dĩ, không thể chọn lựa Nho giáo vì phải tránh tiếng soán nghịch, bất đạo theo quan  
điểm Nho gia truyền thống Thăng Long của nhà Lê. Trên độc đạo đi về phía nam, Phật  
giáo được lựa chọn như là một sinh lộ duy nhất trên cơ sở kế thừa, tích hợp các tín  
ngưỡng bản địa, mà nổi bật là dấu ấn của các nữ thần. Một khi đủ mạnh, chính quyền  
Đàng Trong lại sớm quay trở lại con đường “phong kiến hóa”, với mục đích sau cùng là  
xác lập một chính thể phong kiến, thì đương nhiên Nho giáo không thể thiếu. Việc cải tổ  
bộ máy hành chính theo hướng dân sự hóa cho thấy rõ điều đó, thậm chí còn tự xưng là  
Quốc chúa, hay Quốc vương. Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu còn sai Nguyễn Quang Tiền  
soạn biểu tiến cống, giao cho giám sinh Hoàng Thần, tăng đồ Hưng Triệt sang nhà  
Thanh cầu phong. Đồng thời, là các động thái xây dựng Văn miếu, đàn Nam Giao và tổ  
chức tế Giao, các kỳ Quận thí, Hội thí mùa xuân, mùa thu 32 v.v…  
Đàng Trong từ “hu Pht phi Nho”, dn chuyn sang mt xã hội ngày càng đậm  
nét Nho giáo, và chính quá trình phong kiến hóa gn lin vi sln mnh ca chính thể  
mới Nam hà đã càng làm chậm li, dẫn đến đứt gãy quá trình tim cn tính chất Đông  
Nam Á ca xnày, cvngoại thương lẫn tư tưởng. Suy cho cùng, đó cũng là nguyên  
nhân sâu xa cho vấn đề và cũng là thực trng “bế quan ta cng” ca xã hi Vit Nam  
giai đoạn tthế kXVIII - XIX.  
Trong chiến cuc Nguyn - Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã bằng mọi cách để tái lp  
vương triều Nguyễn, trong đó có sự bén duyên tác hp Pháp - Vit mt cách chính thc,  
lâu dài, ktcâu chuyn Giám mục Bá Đa Lộc, Hoàng tCnh. Vua Gia Long phi  
chịu ơn và trả nghĩa cho người Pháp. Xu hướng mrng thuộc địa, tìm kiếm thị trường  
của các nước thực dân, tư bản ngày càng ni bật và phương Đông là những thành trì  
màu mcần công phá trước tiên, dưới nhiều danh nghĩa, lớp áo thương mại, tôn giáo,  
chuyn giao khoa hc công nghv.v… Cuộc đụng độ văn minh Đông - Tây vi nhiu  
skhác biệt đến cách bit, từ đó, đã làm cho vua Gia Long nhìn thấu được nhiu nguy  
cơ có thể làm nguy hi ti vn mệnh đất nước, nên đã có sự chn lựa đồng minh truyn  
thng là thiên triều phương Bắc. Từ đó, người Pháp và Thiên Chúa giáo đã gặp không ít  
khó khăn ở Đại Nam khi triều đình xiển dương Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo luôn có  
mt sc sng bn cht, sâu rộng trong đời sống người dân.  
32 Theo Tiền biên thì kỳ thi Đình đầu tiên được tổ chức năm Bính Tuất (1646) thời chúa Thượng; đến năm  
Quý Dậu (1693), tổ chức được 7 kỳ thi, tuyển 140 người; chỉ riêng các năm 1694 - 1695, số văn chức  
được tuyển đã lên đến 285 người v.v...  
80  
 
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
Cho đến cui thế kXIX - đầu thế kXX, mi quan hhài hòa, dung dưng trong  
tư tưởng Tam giáo và tôn giáo tín ngưỡng bản địa vẫn còn được ghi nhận đậm nét. Sớ  
điệp công văn cung cp nhiều tư liệu cho thấy Hòa thượng Giác Tiên có vai trò và nh  
hưởng rt lớn trong đời sng sinh hot lnghi ca triều đình Huế, kcnghi ltế Nam  
Giao, tế Thiên Y A Na ở điện Hòn Chén v.v...33  
Tinh thn ct lõi xuyên sut dn tới trào lưu chấn hưng Phật giáo đầu thế kXX  
chính là điển chế hóa Phật giáo theo hướng qui c, nhất quán. Theo đó, toàn bộ nhng  
yếu tphi Pht giáo (Thiên Y A Na, Ngc Hoàng, Nam Tào Bắc Đẩu, Quan Công...)  
đều được đưa ra khỏi chánh điện (sang chái thu, lui sau hu tẩm, ra vườn...). Ranh  
gii và mi quan hgia Phật giáo và các tôn giáo tín ngưỡng khác, từ đây, mới được  
đặt ra mt cách rõ nét.  
3. Vấn đề đặt ra  
Thi chúa Nguyễn Đàng Trong được coi là thi kthịnh đạt trong lch sVit  
Nam, cvni trln ngoại giao, trong đó có nguyên nhân tư tưởng, ni bt tính cht  
hn dung, hòa hp giữa các tôn giáo tín ngưỡng Vit và phi Vit bản địa trong bi cnh  
lch sử văn hóa của một vùng đất mi. Từ đó, có thể nhn thy mt svấn đề quan  
trọng có ý nghĩa khoa hc và thi ssâu sc:  
- Vai trò và sự can thiệp, điều tiết của nhà nước, nhà chính trị tư tưởng đương thời  
là rất cần thiết, rất quan trọng, nhưng tất yếu phải ưu tiên giải quyết phù hợp nhu cầu  
chiến lược nhân tâm, cố kết cộng đồng, gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định.  
- Nguyên tắc bản địa hóa được đặc biệt tôn trọng, nhằm tôn vinh và kế thừa di sản  
văn hóa bản địa để tích hợp, làm giàu thêm di sản văn hóa quốc gia dân tộc. Hơn nữa,  
điều đó cũng giúp làm giảm thiểu mọi khoảng trống, mọi nguy cơ xung đột về tâm linh,  
tôn giáo tín ngưỡng có thể diễn ra.  
- Nguyên tắc thiêng hóa cũng có vai trò và tính chất tương tự. Nhờ chất men  
thiêng liêng cao cả đó, khả năng bảo tồn và phát huy giá trị của di sản tôn giáo tín  
ngưỡng sẽ có điều kiện được thực thi một cách bền vững theo đúng nghĩa của nó. Giải  
thiêng trong bối cảnh đó, chỉ có tính sách lược và ngay sau đó, phải được bổ sung, điền  
thế bởi một quá trình thiêng hóa khác liền kề để giải quyết nhu cầu tâm linh của cộng  
đồng được đặt ra cấp thiết đương thời.  
- Đa dạng tôn giáo tín ngưỡng là một nét đặc trưng trong lịch sử văn hóa dân tộc,  
từ đó cũng nổi lên tính chất dung dưỡng, hài hòa của các tôn giáo tín ngưỡng. Điều đó,  
suy cho cùng, chính là thông điệp truyền thống trong xã hội hiện nay dưới góc nhìn đối  
thoại liên tôn giáo.  
33  
Thích Nguyên Tâm (2013), Bản thủ bút của Hòa thượng Giác Tiên, trong Sớ điệp công văn, Tập 2,  
Tp.HCM: Nxb. Hồng Đức.  
81  
 
TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU  
HISTORICAL LESSONS OF INTERRELIGOUS DIALOGUE  
FROM THE RELATIONSHIP AMONG TAOISM-BUDDHISM-  
CONFUCIANISM AND INDIGENOUS BELIEF IN THE CENTRAL  
OF VIETNAM UNDER THE RULER OF NGUYEN LORDS  
Tran Dinh Hang, Ph.D  
Abstract: Trinh-Nguyen family affairs led to a historical fate of the whole nation after  
Lord Nguyen Hoang imgrated to the South in the Mau Ngo year (1558).  
Specially, a vital area has become a powerful country, Dai Nam in the South.  
Moreover, a humane strategy has been built on the base of promoting the harmony and the  
development of the elites among Taoism-Buddhism-Confucianism-indigenous belief to  
structuralize the community. The thought of “đồng nguyên” in traditional religious beliefs  
deeply expresses the humane strategy which is an effective lesson in structuralizing the  
community, creating cultural identity and national power under the ruler of Nguyen Lords.  
This lesson is also imbued with its practicality in the current situation.  
82  
pdf 14 trang yennguyen 21/04/2022 720
Bạn đang xem tài liệu "Bài học lịch sử về đối thoại liên tôn giáo từ mối quan hệ Lão - Phật - Nho - Tôn giáo tín ngưỡng bản địa miền Trung thời Chúa Nguyễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_hoc_lich_su_ve_doi_thoai_lien_ton_giao_tu_moi_quan_he_la.pdf