Tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc nhìn từ đức tin và thực hành nghi lễ

VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
TÍN NGƯỠNG NỮ THẦN Ở SA ĐÉC NHÌN TỪ ĐỨC TIN  
VÀ THỰC HÀNH NGHI LỄ  
Dương Thanh Tùng  
Trường Đại học Đồng Tháp  
Ngày nhận bài: 28/5/2018; Ngày duyệt đăng:17/12/2018  
Tóm tắt  
Sa Đéc từ xưa đã sớm là nơi thị tứ của vùng Tây Nam Bộ, nơi diễn ra sự giao thoa văn hóa Việt,  
Hoa, Khmer với kết quả tiêu biểu là tín ngưỡng nữ thần. Bằng thủ pháp phân tích, tổng hợp tài liệu  
thành văn kết hợp với điền dã, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu trên nền tảng nhóm lꢀ thuyết giao  
lưu - tiếp biến văn hóa, cꢁ thể là quan điểm đặc thù luận lịch sử và quan điểm diễn giải, tái diễn  
giải văn hóa gꢂn với ngữ cảnh cꢁ thể chúng tôi nhận thấy: (1) Về nguồn gốc, có 3 yếu tố: yếu tố bản  
địa, yếu tố Chăm và yếu tố Hoa. (2) Về đức tin, đó là: đức tin về những bà tiền chủ, bà chúa xứ sở;  
đức tin về những vị nữ thần phù hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa, người yên vật thịnh; đức tin bà  
Thiên Hậu vị phúc thần luôn hiển linh ban phước lành và may mꢂn trong cuộc sống của người dân.  
(3) Về hình thức thực hành nghi lễ - múa bóng rỗi cũng được biểu hiện rõ nét những đặc điểm: đa  
dạng, dung hợp và thuần phát dân gian, tất cả góp phần cho tín ngưỡng nữ thần vꢃn còn giữ gìn  
bản sꢂc văn hóa tộc người ở Sa Đéc.  
Từ khóa: Đức tin, thực hành nghi lễ, thuần phát dân gian, Thành phố Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp.  
Goddess cults in Sa Dec: a view from the perspectives of faith and ceremonial practice  
Abstract  
Sa Dec has long been one of the main centers of the Mekong River Delta region where the  
Vietnamese, the Chinese and the Khmer took place the cultural exchanges, in which Goddess cults  
is typical production. By analyzing and generalizing written materials and combining with  
fieldwork, observation and in-depth interviews on the basis of cultural exchanges theoretical  
platform such as historical particularism and the context-based interpretation, we find out that: (1)  
About origin, there are three elements included in the cult: Viet factors, Cham factors, and Chinese  
factors. (2) About faith structure, the local community preserves the faith for goddesses who are the  
first owner of the land, the protectors of the land; blessing goddesses for good weather conditions,  
for peace and prosperity; Thien Hau Goddess who always gives spiritual blessings and lucks etc..  
(3) About the form of ceremonial practice: traditional shamanic dances (Mua Bong Roi, for  
instance) also provide significant characteristics such as diversity, fusion, and folk-based wisdom,  
which greatly help preserve the valuable identities of the contemporary communities in Sa Dec.  
Keywords: cult, ceremonial practice, folk-based, Sa Dec city, Dong Thap province.  
Hoa chiếm 1,03% và người Chăm chiếm 0,09%.  
Cả bốn tộc người đều là lưu dân từ tứ xứ trên  
con đường đi tìm một nơi yên ổn để sinh sống  
và làm ăn đã gặp nhau ở đây, và lấy người Việt  
làm trung tâm để gắn kết chặt chẽ với nhau  
(Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Thị Lệ Hằng, 2013:  
1. Đặt vấn đề  
Tây Nam Bộ là vùng văn hóa mới hình thành  
hơn 300 năm, xét về chủ thể, vùng văn hóa Tây  
Nam Bộ, có bốn tộc người chính là Việt, Khmer,  
Hoa, Chăm; trong đó, người Việt chiếm 91,97%  
tổng dân số, người Khmer chiếm 6,88%, người  
26  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
tr. 408-422). Tất cả tạo nên bức tranh văn hóa  
đa sắc màu bởi sự dung hợp, giao lưu với nhau  
giữa dòng văn hóa tộc người chủ thể - người  
Việt và dòng văn hóa các tộc người Chăm, Hoa,  
Khmer. Còn ở Sa Đéc do đặc thù lối sống mở  
thoáng, cộng cư giữa các tộc người nên việc tìm  
hiểu nguồn gốc hình thành và nhận diện giá trị  
tín ngưỡng nữ thần trong đời sống tâm linh của  
người dân vẫn còn mờ nhạt và chưa rõ ràng, điển  
hình những công trình nghiên cứu của Nguyễn  
Hữu Hiếu như: Chúa Nguyễn và các giai thoại  
mở đất phương Nam (2003), Tìm hiểu văn hóa  
tâm linh Tây Nam Bộ (2004), Đồng Tháp 300  
năm (Chủ biên, 2004), Văn hóa dân gian vùng  
Đồng Tháp Mười (2010), Tꢁc thờ thần qua am  
miếu Nam Bộ (2015), Văn hóa dân gian miệt Sa  
Đéc (2016),… và những công trình nghiên cứu  
của tác giả Nhất Thống như: Hương quê thương  
nhớ (2009), Sa Đéc vùng đất con người (2009),  
Sa Đéc tình đất - tình người (2014),… Tất cả  
công trình vừa nêu chỉ tập trung vào khía cạnh  
khảo tả nhân vật, sự kiện lịch sử, giai thoại dân  
gian về địa danh nhưng chưa đi vào nghiên cứu  
chi tiết tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc. Như vậy,  
trong thời đại hội nhập như hiện nay, làm thế  
nào và bằng cách nào tín ngưỡng nữ thần ở Sa  
Đéc tồn tại và phát triển? Đức tin của người dân  
và các thực hành nghi lễ trong tín ngưỡng nữ  
thần ở Sa Đéc đã được bảo tồn và phát huy hay  
chưa? Bởi vì, tục thờ Bà (theo cách gọi dân gian)  
hay là tín ngưỡng nữ thần tại đây là một trong  
những sản phẩm đặc trưng của quá trình dung  
hợp đa văn hóa hết sức phong phú và có những  
nét giá trị đặc sắc riêng nhưng vẫn chưa được  
nhận diện đầy đủ. Đồng thời, người dân Sa Đéc  
dùng nhãn quan cư dân nông nghiệp trong bối  
cảnh đa văn hóa điển hình vùng ven sông Tiền  
để tiếp nhận (hay hình thành) các tục thờ nữ thần  
ở địa phương, do đó thực hành tín ngưỡng cũng  
thể hiện đậm nét tính đa dạng, tính dung hợp và  
tính thuần phác dân gian.  
và mẫu thần, lễ hội dân gian, tín ngưỡng nữ thần  
ở Nam Bộ liên quan đề tài nghiên cứu. (2) Điền  
dã, quan sát tham dự, phꢀng vấn thực địa khi  
nghiên cứu các nghi thức lễ, thành phần tộc  
người. Thủ pháp này góp phần làm cho đề tài  
mang tính xác thực, việc đi điền dã giúp chúng  
tôi nhận diện đặc điểm chi tiết và quy luật vận  
hành của tín ngưỡng nữ thần. Bên cạnh đó,  
chúng tôi còn ứng dụng nhóm lꢁ thuyết giao lưu  
- tiếp biến văn hóa, cụ thể là quan điểm đặc thù  
luận lịch sử (historical particularism) với hai  
đại diện tiên phong là Franz Boas (1858 - 1942)  
và Alfred Kroeber (1876 - 1960), và quan điểm  
diễn giải và tái diễn giải văn hóa gắn với ngữ  
cảnh cụ thể (context-based reinterpretation) của  
Edward Sapir (1934) và Robert P. Weller (1953  
- ~). Đối với thuyết đặc thù lịch sử, theo quan  
điểm của Franz Boas (1858 - 1942) và Alfred  
Kroeber (1876 - 1960) đã khẳng định một cách  
hoàn toàn có lꢁ rằng: “Những nét văn hóa đơn  
lẻ phải được nghiên cứu trong bối cảnh của xã  
hội mà nó đã xuất hiện. Văn hóa của mỗi một  
dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử  
gꢂn liền với môi trường xã hội nhất định và  
trong điều kiện địa lꢀ cꢁ thể” (Khoa Nhân học,  
2008: tr. 24). Vì vậy, chúng tôi sử dụng khung  
lꢁ thuyết này để xem xét đối tượng tín ngưỡng  
nữ thần khi đặt nó trong bối cảnh lịch sử cụ thể  
với sự tương quan môi trường xã hội của Sa Đéc  
để nhận diện về nguồn gốc, đặc trưng, giá trị và  
đề xuất giải pháp thực thi bảo tồn, phát huy giá  
trị tín ngưỡng nữ thần phù hợp với đặc điểm địa  
phương nhằm đem lại hiệu quả thiết thực trong  
thời gian tới. ꢂ quan điểm diễn giải văn hóa  
theo bối cảnh, Sapir từng nhận định “Văn hóa  
không phải là thứ đã sẵn có mà là cái con người  
khám phá dần dà qua thực tiễn cuộc sống”  
(Sapir, 1934: tr. 200-205). Còn theo Weller  
(1987: tr. 7), không phải nền văn hóa, hiện thực  
văn hóa nào cũng được định hình sẵn hệ thống  
các giá trị bất biến để có thể soi chiếu cho mọi  
cá thể, nhóm cá thể qua các thời đại. Ông nói,  
“hầu hết các thực hành văn hóa, tuy nhiên, đều  
không phải là những hệ thống đã được định chế  
hóa hay lꢀ tưởng hóa hoàn chỉnh. Thay vào đó,  
nó tồn tại như là một quá trình diễn giải và tái  
Bài viết này chủ yếu sử dụng phương pháp  
định tính, gồm hai nhóm thủ pháp quan trọng:  
(1) Tổng hợp, phân tích tài liệu thành văn từ các  
nguồn tư liệu sách, báo, tạp chí, kỷ yếu khoa  
học về văn hóa tín ngưỡng, tín ngưỡng nữ thần  
27  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
diễn giải thực tế” (Weller, 1987: tr. 7). Do đó,  
ở vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa như Đồng  
bằng sông Cửu Long nói chung, Sa Đéc nói  
riêng, diện mạo, hình hài và đặc điểm của nhiều  
hiện thực văn hóa, trong đó có tín ngưỡng nữ  
thần, là sản phẩm của quá trình giao lưu - tiếp  
biến văn hóa trên nền tảng văn hóa của dân tộc  
chủ thể (người Việt Nam Bộ). Khi phân tích,  
diễn giải vấn đề, chúng tôi đặc biệt lưu ꢁ vai trò  
chủ chốt của người Việt trong quá trình hình  
thành, tiếp thu, “nhào nặn” và phát triển các loại  
hình tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc. Ngoài nhóm  
người Việt, người Hoa (và xa hơn là người  
Khmer) đóng vai trò “ngoại diện” trong mối  
quan hệ tương tác với người Việt. Trên thực tế,  
hầu hết các trường hợp giao lưu - tiếp biến văn  
hóa ắt dẫn tới biến đổi văn hóa. Mọi biến đổi  
văn hóa đều phải dựa vào nền tảng tương tác  
với ngoại cảnh.  
dạng bầu dục nhẵn bóng tự nhiên. Hai bên Neak  
Tà là hai vị thần là Néang Khmau (Bà Đen) và  
Néang Mésrar (Bà Trắng). Bà Đen và Bà Trắng  
chỉ là hai vị hộ thần của Neak Tà. Tuy nhiên, khi  
tiếp cận tín ngưỡng này, với mong ước có một  
vị thần cai quản, trông coi một vùng đất mà họ  
vừa mới khai phá được, cộng với truyền thống  
thờ nữ thần người Việt đã tiếp nhận tín ngưỡng  
Bà Đen. Bà Đen của người Khmer trở thành Bà  
Chúa Xứ của người Việt có quyền năng rộng rãi  
hơi cả hình tượng nguyên mẫu với quyền năng  
cai quản một vùng đất nào đó. “Theo Malleret,  
thì Bà Đen tức là thần Burga của Bà-la-môn  
giáo” (Nguyễn Hữu Hiếu, 2017: tr. 132). Do đó,  
tại những nơi thờ vị nữ thần này thường thấy có  
bộ linga-yoni được phối tự như một mô-típ quen  
thuộc. Tượng linga trong điện thờ Bà Chúa Xứ  
ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang), tượng cô và  
cậu trong điện thờ chùa Bà Đen (Thành phố Hồ  
Chí Minh), hay Miếu Cậu trên dốc Thượng lên  
Điện Bà (núi Bà Đen, Tây Ninh) là minh chứng  
rõ ràng cho điều này.  
2. Đặc điểm về nguồn gốc vꢀ không gian thꢁ  
2.1. Đặc điểm về nguồn gốc  
Khác với quá trình hình thành tín ngưỡng  
mẫu thần ở phía Bắc, do các điều kiện lịch sử -  
xã hội đặc thù, sự hình thành và phát triển của  
tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ có nhiều điểm  
khác biệt. Khu vực phía Bắc do chịu ảnh hưởng  
của văn hóa Trung Hoa với Nho giáo, Đạo giáo  
dẫn đến việc hình thành các nữ thần, mẫu thần  
mang tính cung đình hóa mà đỉnh cao là mẫu  
Tam phủ, Tứ phủ. Nam Bộ lại chịu ảnh hưởng  
của văn hóa Ấn Độ với đạo Bà-la-môn và sự  
giao lưu, tiếp biến với văn hóa Chăm, Khmer và  
văn hóa Hoa đã tạo nên một diện mạo hết sức  
phức tạp và đa dạng trong loại hình tín ngưỡng  
nữ thần nơi đây.  
Nền tảng văn hꢀa chꢁ thꢂ Viꢃt (yếu tố bản địa)  
Trước khi lưu dân người Việt (Kinh) di cư  
vào khai phá và cư trú tại vùng đất Nam Bộ này,  
người Khmer đã cư trú tại đây từ khá lâu. Cư  
dân Khmer tại đây dưới tác động của Bà-la-môn  
giáo và Phật giáo đã hình thành một loại hình tín  
ngưỡng khá phổ biến đó là thờ Neak Tà.  
Tiếp biến văn hóa Chăm (yếu tố thuộc về văn  
hóa Chăm)  
Miền Trung Việt Nam (từ dãy Hoành Sơn ra  
phía Bắc) là khu vực chịu ảnh hưởng bởi văn  
hóa Trung Hoa, chủ yếu là Nho giáo, Đạo giáo  
và văn hóa Chămpa, chủ yếu là đạo Bà-la-môn.  
Trước khi hoàn tất công cuộc Nam tiến của  
mình, người Việt đã chịu ảnh hưởng bởi Nho  
giáo, Đạo giáo. Sau đó họ còn cộng cư với người  
Chăm trong một thời gian dài. Trong quá trình  
đó, người Việt đã tiến hành Việt hóa, Nho giáo  
hóa các nữ thần của người Chăm mà họ tiếp  
nhận trước khi mang theo vào phương Nam.  
Po Yang Inư Nagar là nữ thần tạo ra vương  
quốc theo quan niệm của người Chăm. Thực  
chất, Po Yang Inư Nagar hiện thân của nữ thần  
Ũma (nữ thần Sakti), vợ của thần Siva. Ũma là  
thần bảo tồn của đạo Bà-la-môn. Ũma được  
người Chăm biến đổi thành Po Yang Inư Nagar  
sau đó người Việt biến đổi Po Yang Inư Nagar  
thành chúa Ngung Man nương hay chủ Ngung  
Man nương, Chủ Ngu Ma vương. Đó là quá  
trình Việt hóa vị nữ thần của người Chăm. Po  
Yang Inư Nagar về sau được người Việt gọi là  
Neak Tà còn được gọi là ông Tà, là vị thần  
bảo hộ phum sóc - tương tự Thành hoàng ở các  
làng của người Việt. Trong các miếu thờ, Neak  
Tà thường được tượng trưng bằng vài hòn đá  
28  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
Thiên Y A Na sau đó được các vua sắc phong là  
Diễn Phi Chúa Ngọc Thành Phi. Thiên Y A Na  
có lẽ xuất phát từ chữ Phạn là Devayana. Theo  
đó, deva là Thiên hay Trời ghép với yana thành  
Thiên Y A Na. Còn danh xưng Diễn Phi Chúa  
Ngọc Thành Phi là do năm 1797 Tổng trấn  
Nguyễn Văn Thành cho xây đền thờ Bà Chúa  
Ngọc trên núi Diễn ở phía nam huyện Vĩnh  
Xương, Khánh Hòa. Đó là quá trình Nho giáo  
hóa vị nữ thần của người Chăm thành nữ thần  
của người Việt.  
Đền thờ Thiên Y A Na (tức Chúa Ngọc) ở  
Tháp Bà, Nha Trang; bà Chúa Tiên được thờ ở  
điện Hòn Chén, Huế; chùa Thiên Mụ, Huế; Thái  
Dương phu nhân ở Hương Trà - Huế; tục cúng  
chủ Ngung Man Nương của cư dân khu vực  
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Chúa Động nương  
nương được thờ phổ biến ở vùng Long Điền,  
Đất Đꢀ, Bà Rịa, Cần Giờ; Linh Sơn Thánh Mẫu  
(Bà Đen) ở Tây Ninh; Bà Chúa Xứ ở núi Sam  
và ở nhiều nơi khác ở Nam bộ đã thể hiện quá  
trình dung hợp và chuyển biến này.  
mệnh trẻ sơ sinh nên ở khắp các thị trấn, thành  
phố tại Nam Bộ có sự hiện diện của người Hoa  
ta đều thấy có thờ Bà Thiên Hậu trong các chùa,  
cung hay miếu. Tín ngưỡng này cũng được  
người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên trở thành  
một phần trong sinh hoạt tín ngưỡng.  
Bên cạnh Bà Thiên Hậu thì thờ Ngũ Hành  
hay Ngũ Hành Nương Nương cũng được người  
Hoa mang đến Nam Bộ. Ngũ Hành là một bộ  
phận của học thuyết Âm Dương - Ngũ Hành  
nói về năm yếu tố cấu thành vũ trụ là Mộc,  
Hꢀa, Thổ, Kim, Thủy. Khi học thuyết này đi  
vào giới bình dân với truyền thống canh tác  
nông nghiệp lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu  
tố tự nhiên đã cho ra đời tín ngưỡng thờ Ngũ  
Hành. Các hiện tượng tự nhiên tác động đến  
canh tác nông nghiệp đã được nhân cách hóa  
trở thành năm bà Ngũ Hành hay Ngũ Hành  
Nương Nương. Ngũ Hành Nương Nương có  
khi được lập miếu thờ riêng cũng có khi được  
thờ tại một ngôi miếu nhꢀ trong khuôn viên hay  
một ban thờ tại đình, chùa.  
Tiếp biến văn hꢀa Trung Hoa (Yếu tố du nhập)  
Từ cuối thế kỷ 17, một bộ phận người Hoa  
do không thuần phục nhà Thanh và nhiều lꢁ do  
khác đã tìm đến Nam Bộ, trong đó tiêu biểu là  
nhóm của Dương Ngạn Địch, Trần Thượng  
Xuyên và Mạc Cửu. Lênh đênh nhiều ngày trên  
biển với biết bao gian lao, nguy hiểm, chính vì  
vậy hành trang mang theo có cả những vị nữ  
thần với quyền năng bảo hộ và giúp họ an toàn  
trên biển, đó chính là Bà Thiên Hậu, vốn là thần  
biển có quyền năng cứu giúp người đi biển, là  
thần hộ mệnh cho nữ giới và có khi được đồng  
nhất với Phật bà Quan Âm, Lâm Thủy phu nhân,  
Kim Hoa phu nhân. Bà Thiên Hậu có hình mẫu  
là Lâm Mặc nương được hình thành từ thế kỷ  
10. Do truyền thuyết về Mặc nương có liên quan  
đến việc cứu người trên biển nên bà được xem  
là thần bảo hộ người đi biển. Dần dần các hải  
thuyền đều thờ bà dưới dạng tượng Ma Tổ để  
cầu mong bình an. Đến năm 1110, nhà Tống sắc  
phong cho bà là Thiên Hậu thánh mẫu. Khi đến  
Nam Bộ, người Hoa mang theo tín ngưỡng này,  
đồng thời bà được bổ sung thêm các quyền năng  
như bảo an, ban phát phúc lộc, thinh vượng, hộ  
2.2. Đặc điểm không gian thờ tự  
Sau quá trình khảo sát thực địa tại các cơ sở  
tín ngưỡng, tôn giáo trên toàn địa bàn thành phố  
Sa Đéc từ năm 2015 đến 2018, kết quả cho thấy  
hệ thống tín ngưỡng dân gian ở thành phố Sa  
Đéc vô cùng phong phú và đa dạng. Trong đó,  
có tổng cộng hơn 48 cơ sở tín ngưỡng nữ thần  
với đối tượng thờ Chúa Xứ, Ngũ Hành,  
Thiên Hậu là phổ biến. Bên cạnh đó, việc thờ  
Quan Công và thờ Thổ thần cũng là đối tượng  
được thờ phổ biến như các nữ thần, hầu như ở  
làng xóm nào cũng có cơ sở thờ. Tuy nhiên, ở  
bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến tín ngưỡng  
nữ thần nên yếu tố thờ Quan Công và thờ Thổ  
thần chúng tôi sẽ trao đổi trong các bài viết tiếp  
theo. Căn cứ vào tầm ảnh hưởng, niềm tin của  
dân gian thể hiện qua các hoạt động hành hương,  
lập cơ sở thờ, nghi thức cúng tế các đối tượng là  
nữ thần trên có thể phân ra các dạng thờ sau đây:  
- Trong khu vực đô thị có người Hoa cư ngụ:  
tín ngưỡng thờ Thiên Hậu với cung thờ to lớn  
theo kiến trúc Việt - Hoa, được gọi là Thất Phủ  
Thiên Hậu Cung (七府天后宫).  
- Trong phạm vi xóm ấp, với điện thờ nhꢀ bé  
29  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
chỉ từ vài mét đến năm mười mét vuông, nhưng  
lại hiện diện khắp làng xã, phổ biến nhất là hai  
loại điện thờ Bà Chúa Xứ và Bà Ngũ Hành. Tiếp  
đến là miếu thờ các vị Thất thánh nương nương,  
Cửu vị tiên nương… Điện thờ với đồ từ khí đơn  
giản, chỉ có chân đèn, bát nhang, ly nước, lọ  
bông và bài vị viết chữ Hán hoặc chữ quốc ngữ  
xưng. Từ thời khai hoang đến nay, miếu thờ đơn  
giản vẫn chỉ là miếu, vai trò, vị trí của các nữ  
thần ở miếu cũng không được nâng lên, không  
đưa vào đền, phủ để khang trang, thần bí hóa, hệ  
thống hóa. Trên thực tế cũng có một số điện thờ  
nữ thần được nâng lên thành phủ, thành dinh  
hoặc cung như trường hợp Thiên Hậu cung, một  
số vị nữ thần được triều đình sắc phong là trung  
hoặc thượng đẳng thần, nhưng trong dân gian  
không có sự phân biệt “đẳng cấp” giữa các nữ  
thần. Tất cả đều được trân trọng gọi là Bà, dù là  
nữ thần hay mẫu thần, có khi tâm thức ở miếu  
lại to lớn hơn dinh, phủ. Lꢁ do được tôn vinh  
thường là do sự linh ứng của thần, thu hút nhiều  
khách thập phương đến chiêm bái, tin tưởng hơn  
là do thần được nâng bậc hay được xếp vào hệ  
thống cao hơn.  
Chúa Xứ Thánh Mẫu (主處聖母) hoặc Ngũ  
Hành Nương Nương (五行娘娘) hoặc là tranh  
tượng (loại có bán sẵn ở chợ). Lệ cúng tế thường  
diễn ra vào cuối mùa thu hoạch lúa vào cuối năm  
hoặc tháng 2, tháng 3 âm lịch trùng khớp với  
thời gian cúng Thượng điền ở đình làng, với tâm  
nguyện đền đáp ơn Bà Chúa Xứ và cầu nguyện  
mong được phù hộ cho vụ mùa tới.  
- Trong khuông viên các đình chùa, hai nữ  
thần Bà Chúa Xứ và Ngũ Hành với tư cách thần  
bảo hộ của cuộc đất nơi đình chùa tọa lạc. Còn  
trong chính tẩm có nhiều vị có khi có hoặc  
không có sắc phong tùy theo từng địa phương  
được thờ với tư cách tùng tự hay phối tự, phổ  
biến là các vị chúa Tiên, chúa Ngọc, Chủ Ngung  
Man nương, Tứ vị Đại Càn thánh nương v.v.  
- Trong phạm vi từng hộ gia đình: bà Nữ Oa,  
Cửu Thiên Huyền Nữ, Thánh Anh La Sát, Phật  
mẫu Diêu Trì, Lục Cung thánh mẫu, Quan âm  
Nam Hải, Quán Thế Âm Bồ Tát, Bà Tổ cô, Bà  
Mẹ thai sanh… tùy theo tuổi của người thờ,  
thường là phụ nữ đứng tuổi với tư cách thần độ  
mạng nữ giới. Không gian tín ngưỡng là một cái  
trang (khán) thờ có bài vị hoặc tượng ảnh của nữ  
thần, bình hoa, bát nhang, ba chung nước.  
Người thờ thắp nhang cầu nguyện vào mỗi ngày  
có thể là một lần hoặc hai lần, hằng năm có lệ  
cúng tạ trang, đối với gia chủ có gia cảnh khá  
giả đều có thuê hầu đồng, hầu bóng đến trợ tế lễ.  
Xuất phát từ tính cách phóng khoáng, chan  
hòa, không cầu kỳ của người Việt ở vùng Sa  
Đéc, quyền năng của các nữ thần trong tục thờ  
không phân biệt rõ ràng, mà đan xen, chồng  
chéo nhau, thường vị nào cũng cho là có chức  
năng bao quát là phù hộ độ trì cho chúng sanh,  
mưa thuận gió hòa, người yên vật thịnh, bảo vệ  
xóm ấp, sản vật sung mãn, độ mạng nữ giới...  
bên cạnh quyền năng riêng thể hiện qua danh  
3. Đặc điꢀm về đꢁc tin  
Trải qua thời gian với nhiều danh xưng và  
quyền năng được bổ sung khác nhau, tín ngưỡng  
nữ thần ở Nam Bộ thể hiện sự giao thoa, dung  
hợp mạnh mẽ về văn hóa giữa người Việt với  
người Hoa, người Chăm và người Khmer. Việc  
thờ các nữ thần ở đây xét về lịch sử như đã trình  
bày ở trên được hình thành tương đối phức tạp  
và chịu sự chi phối từ nhiều phía. Tuy nhiên,  
chung quy lại tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ nói  
chung và ở Sa Đéc nói riêng thể hiện qua ba  
dạng thức đặc điểm về đức tin như sau:  
Thứ nhất, đức tin về những bà tiền chủ, bà  
chúa xứ sở  
Lưu dân người Việt khi vào khai phá vùng  
đất Nam Bộ và định cư ở Sa Đéc, lần đầu tiếp  
xúc với thiên nhiên hoang sơ, rừng thiêng nước  
độc nhiều lam sơn chướng khí, “dưới sông sấu  
lội, trên bờ cọp beo”. Với đặt thù hoàn cảnh như  
vậy, con người chợt rùng mình sợ hãi trước sức  
mạnh thiên nhiên, cảm thấy nhꢀ bé và yếu đuối.  
Tuy nhiên, vùng đất này không phải hoàn toàn  
vô chủ, trước đây đã từng có cư dân Phù Nam  
sinh sống, sau họ đã bꢀ đi do chiến tranh và sự  
biến đổi khắc nghiệt của tự nhiên. Nên trong quá  
trình khẩn hoang thỉnh thoảng người ta tìm thấy  
được vật dụng, phế tích đền miếu của người xưa  
còn xót lại. Trong bối cảnh đó, sau khi khai khẩn  
được một vùng đất mới, người dân tập hợp lại  
30  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
lập nên các xóm làng hoặc tên gọi khác là “xứ”,  
đồng thời, họ tưởng nhớ về những vị tiền chủ  
của cuộc đất mà mình đang sinh sống nên lập  
miếu thờ như một lời cảm ơn người đã cho phép  
cư dân mới đến đây khai phá được thuận lợi và  
cầu mong được tiếp tục sinh sống bình an. Bên  
cạnh đó, với niềm tin ở mỗi góc rừng, mỗi khúc  
sông, mỗi vạt đất đều có một Chúa Xứ, Bà  
Tiền chủ cai quản. Nên khi khai phá xong người  
ta cũng dựng miếu thờ Bà trước là để tạ ơn, sau  
là cầu mong được phù hộ độ trì an lành, may  
mắn trong quá trình sinh sống. Như trường hợp  
tại Miếu Chúa Xứ (Phường 2), ông S.M. (đại  
diện cơ sở tín ngưỡng) chia sẻ: “Ngôi miếu này  
được nhiều người dân xung quanh tin tưởng và  
thường xuyên đến cúng vía cũng như dọn dẹp  
sạch sẽ không gian thờ tự, thỉnh thoảng cũng có  
vài người ở xa đến vía Bà. Người dân vùng này  
tin rằng Bà luôn hiển linh để phù hộ cho vùng  
đất này được bình an, người dân sống trên mảnh  
đất này được mạnh khỏe và làm ăn thuận lợi, vì  
Bà là vị thần cai quản cõi đất xứ sở nơi này”  
(S.M., 2017). Tương tự vậy, theo lời chia sẻ của  
bà C.N. (người dân đến vía Bà tại Miếu Chúa  
Xứ ở Xã Tân Phú Đông): “Nhà cô thường xuyên  
đến miếu này để dâng cúng lễ vật lên Bà và cầu  
mong Bà phù hộ gia đình làm ăn sinh sống trên  
vùng đất này gặp nhiều thuận lợi, vꢁ mùa được  
bội thu và cũng cầu mong Bà phù hộ cho gia  
đình mạnh khỏe suốt năm” (C.N., 2017).  
cho năm yếu tố khác nhau của tự nhiên (Kim,  
Mộc, Thủy, Hꢀa, Thổ) có tác động đến nhiều  
mặt trong cuộc sống và nhất là trong quá trình  
sản xuất. Do đó, miếu thờ Bà Ngũ Hành cũng  
được dựng lên ở nhiều nơi để cầu mong được sự  
phù hộ của các bà cho mưa thuận gió hòa, tiết  
trời thuận lợi mưu sinh, người yên vật thịnh, sản  
vật sung mãn. Theo lời chia sẻ của ông T.C. (đại  
diện cơ sở tín ngưỡng) tại Miếu Ngũ Hành (Xã  
Tân Phú Đông) cho biết: “Bà Ngũ Hành được  
người dân khu vực này tin tưởng nên trong ngày  
cũng có nhiều người đến thꢂp nhang cúng bái,  
mang lễ vật đến dâng cúng Bà và cầu mong có  
được cuộc sống bình an, công việc được tiến  
hành thuận lợi nên việc thờ phꢁng Bà tại miếu  
được tươm tất” (T.C., 2017) và theo chia sẻ của  
ông M.X. (đại diện cơ sở tín ngưỡng) tại Miếu  
đôi Ngũ Hành - Chúa Xứ (Xã Tân Quy Tây) cho  
biết: “Việc lập miếu và thờ phꢁng Bà Ngũ Hành  
với ꢀ nghĩa là cầu mong cho các vấn đề trong tự  
nhiên vận hành yên ổn, mưa thuận gió hòa, môi  
trường sinh sống bình an và canh tác được  
thuận lợi cho dù con người đến sinh sống ở bất  
cứ đâu (ngũ phương - ngũ thổ - ngũ hành) thì  
đều phải biết kính trọng và thờ cúng cho đàng  
hoàng, như vậy thì cuộc sống và công việc mới  
vận hành thuận lợi” (M.X., 2017).  
Thứ ba, đức tin bà Thiên Hậu vị phúc thần  
luôn hiển hách ánh linh ban phước lành và may  
mꢂn trong cuộc sống của người dân  
Thứ hai, đức tin về những vị nữ thần phù hộ  
độ trì cho mưa thuận giꢀ hòa, người yên vật thịnh  
Như phần trên đã trình bày, trước khi vào  
khai phá vùng đất Nam Bộ, người Việt đã chịu  
ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa với Nho giáo,  
Đạo giáo cũng như lꢁ luận về thuyết Âm -  
Dương và Ngũ Hành. Lꢁ luận này đi vào giới  
bình dân cùng với văn hóa nông nghiệp lúa nước  
đã hình thành tín ngưỡng đa thần, tôn thờ đa  
dạng các hiện tượng tự nhiên. Với tâm lꢁ trọng  
tình, tôn trọng phụ nữ đã làm xuất hiện phổ biến  
các nữ thần. Một lần nữa, các nữ thần tự nhiên  
được nhân cách hóa trở thành các vị nữ thần cai  
quản các hiện tượng tự nhiên - Ngũ Hành  
Nương Nương. Ngũ Hành Nương Nương trong  
tâm thức người Việt là năm vị nữ thần đại diện  
Cộng đồng người Hoa sùng bái đa thần, họ  
cho rằng các vị thần khác nhau có liên quan đến  
các phạm trù, bình diện khác nhau của đời sống  
nhân sinh, ví dụ như Quan Công trừ ma đuổi quỷ  
và mang lại may mắn, Thiên Hậu là hải thần,  
phúc thần, thánh mẫu từ bi. Cho đến thời hiện  
nay, đa số người Hoa ở Sa Đéc vẫn tin rằng cuộc  
sống con người thành công hay thất bại, lúc  
thăng lúc trầm vốn không thể do bản thân con  
người quản lꢁ, mà ở đâu đó là sự hiện diện của  
thần linh. Tương tự như vậy, sinh lão bệnh tử,  
những đoạn khúc quan trọng của cuộc đời cũng  
không do con người làm chủ. Trong các trường  
hợp khác nhau, con người đối mặt với những  
điều bí ẩn của cuộc sống và của mẹ tự nhiên nằm  
ngoài tầm hiểu biết và tài năng quản lꢁ của họ  
31  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
thì khi ấy họ tìm đến với tín ngưỡng Thiên Hậu.  
Tín ngưỡng Thiên Hậu du nhập vào vùng đất Sa  
Đéc hơn 300 năm trước theo dòng di dân của  
cộng đồng người Hoa đến đây cư trú và làm ăn.  
Trên đường di dân lênh đênh biển lớn, họ  
thường cầu nguyện bà Thiên Hậu - vị hải thần  
của người Hoa hiển linh phò hộ được bình an và  
sống sót vào đất liền. Khi định cư được bình an  
tại vùng đất Sa Đéc, cộng đồng người Hoa đã  
lập miếu trang trọng thờ Bà với ngưỡng vọng và  
tấm lòng biết ơn Bà đã giúp đỡ, cứu rỗi họ được  
“thuận buồm xuôi gió”. Khi miếu thờ bà Thiên  
Hậu được dựng lên cùng với niềm xác tín của  
người Hoa trong quá trình giao lưu, tiếp biến với  
cộng đồng các tộc người trên vùng đất Sa Đéc,  
trong đó, chiếm đại đa số là tộc người Việt, dần  
dà tất cả các cộng đồng trên vùng đất này cung  
kính thờ phụng bà với niềm tín ngưỡng bà sẽ  
bảo an, ban phước lành, phúc lộc, thịnh vượng  
đặc biệt là hộ mệnh cho nữ giới và trẻ nhꢀ để từ  
đó bà trở thành vị phúc thần trong tâm thức tín  
ngưỡng của người dân Sa Đéc.  
Chính vì, cư dân ở Sa Đéc đã tôn kính và thờ  
phụng Bà Thiên Hậu một cách bình đẳng, tất cả  
người dân đến vía Bà đều có chung một niềm  
đức tin mong muốn nhận được sự ban phúc lành  
của Bà nhằm thꢀa mãn nhu cầu tâm linh. Khi tác  
giả tìm hꢀi một số người dân đến vía bà thì  
dường như đều nhận được câu trả lời giống nhau  
về đại ꢁ như lời của bà B.C và chị T.T (nhà ở  
thành phố Cao Lãnh đến vía Bà tại Thất Phủ  
Thiên Hậu Cung) cho biết: “Nhà tôi làm ăn buôn  
bán cách đây khoảng hơn hai chꢁc cây số nhưng  
năm nào đến dịp lễ vía Bà thì tôi và con gái của  
tôi cũng đến đây để cúng vía Bà để cầu bình an  
cho gia đình và mong Bà phù hộ việc buôn bán  
được may mꢂn và phát tài”, và chị T.T nói tiếp  
“Còn chị thì đến đây trước là cúng vía Bà và sau  
là cầu mong Bà phù hộ cho gia đình được khỏe  
mạnh, việc làm ăn của gia đình được may mꢂn,  
thuận lợi, và cầu mong Bà ban phước lành cho  
bản thân và ông xã của mình” (B.C. và T.T.,  
2017). Tương tự như vậy, chị V.A (nhà ở huyện  
Lai Vung đến vía Bà tại Thất Phủ Thiên Hậu  
Cung): “Nhà chị thì ở huyện Lai Vung nhưng chị  
cũng thường xuyên đến đây để thꢂp nhang vía Bà  
và cầu mong Bà sẽ ban phúc lành, bình an cho  
bản thân, gia đình” (V.A., 2017) và chị K.L (nhà  
ở huyện Châu Thành đến vía Bà Thiên Hậu) cho  
biết: “Chị ở dưới huyện Châu Thành lên đây  
thường xuyên do việc làm ăn mua bán nên cũng  
hay vào cúng vía Bà cầu mong Bà phù hộ cho  
việc buôn bán được phát tài, phù hộ gia đình  
được mạnh khỏe suốt năm” (K.L., 2017).  
4. Đặc điꢀm thực hành nghi lễ  
Đặc điểm nghi thức thực hành tín ngưỡng tại  
các đình, đền, miếu/miễu ở Sa Đéc nói chung so  
với các địa phương khác ở Nam Bộ thì hầu như  
về mặt tổng thể là giống nhau rất khó phân biệt  
rạch ròi có xuất phát điểm từ địa phương nào bởi  
vì xuất phát từ nguồn gốc hình thành các loại  
hình tín ngưỡng như đã phân tích. Tuy nhiên,  
khi nghiên cứu về đặc điểm tín ngưỡng nữ thần  
thì vấn đề thực hành tín ngưỡng không thể  
không đề cập đến mà trong đó loại hình bóng rỗi  
giữ vai trò quan trọng ở các kỳ lễ cúng. Loại  
hình bóng rỗi này còn được gọi là hát bóng rỗi  
hoặc múa bóng rỗi, là một loại hình múa hát  
nghi thức lễ vào các dịp cúng tạ trang thờ Bà độ  
mạng cho nữ giới ở gia đình hoặc cúng đình,  
miếu ở khắp vùng Nam Bộ và riêng ở Sa Đéc  
hầu như trong các kỳ lễ cúng đình, miếu hay tạ  
trang đều có sự hiện diện của loại hình này. Nội  
dung bóng rỗi xuất hiện sau phần nghi thức tế lễ  
của Ban Tế tự và tiếp đến là các tiết mục múa  
hát tuồng chèo, hát bội, cải lương. Nghệ thuật  
diễn xướng bóng rỗi này có mối gắn kết chặt chẽ  
với tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc và Nam Bộ,  
như mô tả hồi cố của ông N.N.T. (Hội Khoa học  
Lịch sử Thành phố Sa Đéc) vào năm 2017:  
“Nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Sa Đéc vô  
cùng phong phú như loại hình múa bóng rỗi ở  
Sa Đéc ra đời và tồn tại trong môi trường tín  
ngưỡng dân gian từ lâu mà đặc biệt là tín  
ngưỡng nữ thần hay còn gọi là tꢁc thờ Bà. Ngoài  
ra, còn có hai tuyến nghệ thuật hát bội và đờn  
ca tài tử cũng một thời nổi tiếng nức danh ở  
vùng Sa Đéc và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Múa  
bóng rỗi ở Nam Bộ và ở Sa Đéc ra đời và tồn tại  
trong môi trường tín ngưỡng dân gian từ lâu mà  
đặc biệt là tín ngưỡng nữ thần hay còn gọi là  
tꢁc thờ Bà, riêng ở Sa Đéc vào khoảng những  
32  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
năm 1950, có ông bóng H, nhà bên bờ kinh Cái  
Sơn chợ Sa Đéc, ông tên đầy đủ là T.V.H, một  
ông bóng nổi tiếng cả vùng Sa Đéc. Mỗi năm  
vào dịp Tết Nguyên Đán, từ ngày rằm tháng  
chạp trở đi, là mùa đi đám của ông. Nhiều đám  
cúng miễu Bà và cúng tạ trang thờ Bà của nhiều  
gia đình khá giả đều cử người đến đặt đám  
trước để ông bóng H xếp lịch đi cúng. Phꢁ theo  
ông có ông H.N đờn cò, gõ nhịp song lang và  
chiếc trống nhỏ, trống cơm. Nghi thức cúng  
từng nơi được ông bóng H chuẩn bị theo một bài  
bản phù hợp với ước muốn của gia chủ hoặc yêu  
cầu của Ban cúng tế miễu. Ông bóng H tầm  
người thấp vừa phải, có nghề bóng rỗi chuyên  
nghiệp; với các bài rỗi hát kèm theo động tác  
múa như múa dâng hương, dâng hoa, dân mâm  
vàng và với những đám lớn ông còn thực hiện  
những bài múa độc đáo như múa đèn, múa độc  
bình. Các động tác múa của bóng H rất nhuần  
nhuyễn, điêu luyện” (N.N.T., 2017).  
Về nguồn gốc hình thành của loại hình múa  
hát bóng rỗi này, chúng tôi có cùng quan điểm  
với tác giả Nguyễn Hữu Hiếu cho rằng đây là  
kết quả của quá trình giao thoa văn hóa Việt -  
Chăm mà cụ thể là tộc người Việt đã Việt hóa,  
bản địa hóa điệu múa Pajao của tộc người Chăm  
trong các nghi lễ thờ cúng nữ thần. Bởi lẽ, theo  
tín ngưỡng Chăm “Bà bóng Pajao có nhiệm vụ  
nhảy múa, dâng lễ vật mời thần linh, nhập đồng  
tiên tri mọi việc vì hàng năm bà bóng vẫn có dịp  
giao cảm với thần linh trong một giấc ngủ triền  
miên” (Nguyễn Văn Luận, 1974: tr.50) cho nên  
theo luật tục trong điệu múa Pajao thì người  
thực hành điệu múa này phải là thiếu nữ đồng  
trinh hoặc người phụ nữ đẹp và trải qua sự rèn  
luyện kỹ lưỡng, phải thuần thục trong các động  
tác để khéo léo dâng vật cúng lên thần linh.  
Nhưng khi điệu múa Pajao du nhập vào vùng đất  
Nam Bộ thì loại hình này đã có sự thay đổi ở  
động tác múa mà điều đáng lưu ꢁ là người thực  
hiện điệu múa không còn đúng bản chất là các  
nữ đồng trinh nữa mà đó là những người phụ nữ  
lớn tuổi, đặc biệt là sự xuất hiện của nam giới là  
những người cho rằng họ có căn cơ, có số, có  
căn đồng, ăn mặc, cư xử, điệu bộ như phụ nữ mà  
trong dân gian gọi đó là được bà dựa, bà chọn  
để lên hầu đồng, hầu bóng. Và cũng theo mô tả  
của Nguyễn Hữu Hiếu, loại hình múa bóng rỗi  
có hai thành phần “hát rỗi” và “múa bóng”.  
Người thực hành bóng rỗi phải trải qua quá trình  
học tập và khổ luyện nghiêm túc, họ phải là  
những nghệ nhân thật thụ, có khả năng hát và  
sáng tác lời ca theo yêu cầu của gia chủ, của  
người chủ tế lễ trên nền nhạc đệm có sẵn và diễn  
xuất điêu luyện các động tác múa. Có thể nói  
nghệ nhân thực hành loại hình bóng rỗi này là  
những người đa tài, họ vừa là người hát, vừa là  
người múa và cũng là người biểu diễn tạp kỹ.  
Loại hình bóng rỗi này vừa mang tính nghi thức  
của phần lễ vừa mang tính giải trí của phần hội  
trong các kỳ cúng đình, cúng miếu Bà ở Sa Đéc.  
Để mở đầu cho buổi bóng rỗi thì các nghệ  
nhân thay phiên nhau thực hiện phần nghi thức  
hát rỗi, tiếp theo là màn múa bông, múa dâng  
mâm vàng rồi cuối cùng là các tiết mục tạp kỹ  
giải trí (Nguyễn Hữu Hiếu, 2016: tr.363).  
Nguyễn Hữu Hiếu mô tả loại hình bóng rỗi trong  
nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Nam Bộ khá  
chi tiết và tại đây chúng tôi trích lược những nội  
dung quan trọng mà theo chúng tôi điều đó là  
phù hợp với đối tượng nghiên cứu của bài viết,  
theo đó, thực hành bóng rỗi trong tín ngưỡng nữ  
thần có các phần gồm: hát rỗi, múa bông, múa  
dâng mâm vàng và múa tạp kỷ.  
Hát rỗi, là người hát mặc lễ phục có màu  
sắc gần giống với chiếc áo dài của các Pajao  
Chăm, đứng trước bàn thờ nữ thần, tay cầm  
trống nhꢀ gọi là trống rỗi, vừa gõ làm nhịp cho  
hát mời nữ thần về dự lễ. Lời hát nghe tha thiết  
nhằm ca ngợi vị nữ thần và trịnh trọng mời các  
vị nữ thần về tại nơi tổ chức lễ để chứng kiếng  
cảnh thiện nam tính nữ đang chiêm bái và cầu  
mong nhận được phù hộ, độ trì, ban phúc lành  
(Hình 1).  
33  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
Hình 1. Hát rỗi tại Lễ vía Bà Ngũ Hành Tân Hiệp, Phường Tân Quy Đông - Sa Đéc  
(Ảnh tác giả, 2018)  
Múa bông, là hình thức thông qua những động  
tác tạo hình biểu hiện sự kính dâng bông hoa và  
lễ vật lên nữ thần. Múa bông và múa dâng mâm  
vàng là phần nghi thức bắt buộc, không thể thiếu.  
khi chuyển sang múa dâng bông thì người thực  
hành bóng rỗi sẽ hát lên rằng: “Cúi đầu dâng vạn  
thọ/ Ngửa mặt chúc vô cương/ Miệng đều ca hàm  
tấu nhất chương/ Để lan liễu múa tiểu mai vài  
chặp v.v.”. Múa dâng bông với chén hoặc tô được  
kết bông vạn thọ vào và để trên nhằm dâng cúng  
bông lên nữ thần như để mở đầu cuộc bóng rỗi.  
Người nghệ nhân múa xoay người thành vòng  
tròn trước điện thờ rồi dừng lại để cho người thủ  
miếu, người chủ lễ nâng chén bông đặt lên bàn  
thờ nữ thần. Sau 03 lần dâng bông liên tục như  
vậy rồi đến dâng mâm vàng (Hình 2).  
Hình 2. Múa dâng bông tại Lễ vía Bà Ngũ Hành Tân Hiệp, Phường Tân Quy Đông - Sa Đéc  
(Ảnh tác giả, 2018)  
34  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
Múa dâng mâm vàng, với đạo cụ là cái mâm  
chất liệu bằng đồng hoặc bằng nhôm có dán một  
cái tháp vàng (đồ hàng mã) và dùng các loại giấy  
khác màu để trang trí cho ngôi tháp vàng thêm  
phần sặc sỡ. Tùy theo địa phương và tùy theo  
người huấn luyện các nghệ nhân mà hình dạng và  
màu sắc của mâm vàng có những sắc thái khác  
nhau. Mâm vàng đính hình ngôi tháp, ngoài  
nghĩa thường gọi là đạo cụ nhưng đó là lễ vật rất  
quan trọng mang tính linh thiêng để dâng cúng  
lên các nữ thần nên phải giữ gìn cẩn thận, sạch  
sẽ, không được làm ô uế nếu không sẽ bị bà quở  
trách. Múa dâng mâm vàng đòi hꢀi người nghệ  
nhân phải kết hợp nhiều động tác như đội mâm  
lên đỉnh đầu, đội mâm trên trán, trên cằm, di  
chuyển mâm trên vai, trên lưng, dùng bàn chân  
để múa dâng mâm thậm chí còn dùng tay múa  
uốn lượn để dâng mâm (những động tác này yêu  
cầu phải rất khéo léo, mềm mại và có kinh  
nghiệm vì nếu không cẩn thận thì mâm vàng dễ  
bị rơi xuống đất). Hình tượng, động tác múa dâng  
mâm vàng mang tính thần kỳ, còn nghệ thuật thì  
gần giống với xiếc tạp kỹ. Khi một người múa  
dâng mâm thì có vài người khác chơi đàn cò, kèn,  
thanh la, trống để góp phần tạo nên không khí  
vừa linh thiêng vừa sôi động (Hình 3).  
Hình 3. Múa dâng mâm vàng tại Lễ vía Bà Ngũ Hành Tân Hiệp, Phường Tân Quy Đông - Sa Đéc  
(Ảnh tác giả, 2018)  
Múa tạp kỷ, đối với một số nghệ nhân thực  
hành bóng rỗi chịu khó tập luyện nên trình diễn  
góp vui những điệu múa tạp kỷ khá điêu luyện  
và khéo léo như làm xiếc, khiến người xem lúc  
nào cũng hồi hộp, tò mò chờ đợi. Múa tạp kỷ  
thường có các điệu múa như: múa lộc bình, múa  
đầu bêu, múa dao, múa gậy, múa ghế, múa khạp,  
múa rót rượu, múa hoa huệ, múa lông công và  
diễn chập địa - nàng.  
Hát múa bóng rỗi là một dạng nghệ thuật  
diễn xướng dân gian với nghi thức tế lễ phục vụ  
nữ thần ở các đình, miếu/miễu hoặc trang thờ  
bà. Hầu như khắp xóm làng nào ở vùng đất Sa  
Đéc và cả vùng Nam Bộ đều có nhiều loại miếu  
thờ bà khác nhau mà phổ biến nhất là miếu Bà  
Chúa Xứ, Bà Ngũ Hành, Bà Thiên Hậu, Quán  
Âm bồ tát, Diêu Trì Kim Mẫu và một số nữ thần  
bản địa. Trong các kỳ lễ cúng vía nữ thần ở đình,  
miếu/miễu, cung thờ tại Sa Đéc, bên cạnh các  
nghi thức lễ và thực hành bóng rỗi còn có các  
hoạt động thiện nguyện khác như: phát quà, phát  
bánh, phát gạo và đặc biệt là hoạt động đãi ăn  
miễn phí cho tất cả người dân đến viếng và tham  
gia lễ hội mà không phân biệt lớn hay nhꢀ, già  
hay trẻ, giàu hay nghèo, nam hay nữ,... tất cả đến  
đây đều bình đẳng vì mục đích chung cúng vía  
nữ thần cầu mong được ban phước lành.  
Chính vì những điều đó cùng với các điều  
kiện đặc thù về lịch sử, cảnh quan thiên nhiên,  
điều kiện về giao tiếp ứng xử xã hội mà các hoạt  
động thực hành nghi lễ trong tín ngưỡng nữ thần  
ở Sa Đéc có những đặc trưng riêng biệt đó là:  
Một là, tính đa dạng: Với vị trí thuận lợi, Sa  
Đéc là nơi giao thoa văn hóa của các dân tộc anh  
35  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
em tại vùng Nam Bộ từ khá sớm. Quá trình giao  
thoa này cùng với tinh thần khoan dung của  
người dân Nam Bộ đã làm cho hệ thống tín  
ngưỡng ở đây hết sức đa dạng, trong đó, tín  
ngưỡng thờ nữ thần ở Sa Đéc cũng là một trường  
hợp điển hình. Tộc người Việt, Hoa và Khmer  
đã cùng cộng cư tại vùng đất này từ khá sớm.  
Mỗi tộc người khi đến đây đều mang theo bên  
mình hành trang riêng về tín ngưỡng, tôn giáo.  
Trong đó có niềm tin, nghi lễ, phong tục, tập  
quán, lễ hội về các vị nữ thần của tộc người  
mình. Khi đến vùng đất Sa Đéc, các loại hình tín  
ngưỡng đó tiếp tục được phát triển vừa độc lập  
vừa đan xen thống nhất với nhau dẫn tới tình  
trạng đa dạng trong tín ngưỡng thờ nữ thần nơi  
đây. Việc nữ thần của người Hoa được người  
Việt thờ cúng, hay nữ thần của người Khmer  
được người Việt tiếp nhận là một điều khá phổ  
biến. Người Việt nơi đây đã không từ chối, kỳ  
thị hay phân biệt các vị nữ thần dựa trên nguồn  
gốc của tộc người nào. Ngược lại các nữ thần du  
nhập đã được cư dân Sa Đéc tiếp nhận một cách  
khá nhẹ nhàng và đón nhận một cách nhiệt thành  
để làm phong phú các loại hình tín ngưỡng.  
Chính điều này đã làm cho hệ thống đức tin và  
thực hành nghi lễ trong tín ngưỡng nữ thần ở Sa  
Đéc nơi đây mang đậm tính đa dạng, phong phú.  
Hai là, tính dung hợp: Cũng như các dạng tín  
ngưỡng dân gian khác, tín ngưỡng nữ thần tại  
đây cũng thể hiện tính dung hợp trong văn hóa  
dân gian một cách rõ nét. Vùng đất Sa Đéc từ xa  
xưa đã là đô thị sớm theo như mô tả của Trịnh  
Hoài Đức “Nước sông trong ngọt, vườn ruộng  
rất tốt, nhân dân đông đúc giàu có, có đạo Đông  
Khẩu đóng ở phía Nam, chợ phố liền nhau,  
thuyền bè đông đúc, là chỗ đại đô hội của trấn  
nầy... mạch đất như cuốn bó lại nguồn xa của  
dòng nước, để giữ lấy vượng khí” (Trịnh Hoài  
Đức, 2004: tr. 77). Với đặc điểm tự nhiên và xã  
hội thuận lợi nên nơi đây sớm trở thành một  
thương cảng sông nước nơi tụ hội bốn phương,  
nơi họp mặt - gặp gỡ giao lưu giữa các tộc người  
Việt - Hoa - Khmer tạo nên bức tranh giao thoa  
đa văn hóa, bởi thế người Việt chấp nhận Bà  
Thiên Hậu như một vị phúc thần mang đến sự  
ấm no, hạnh phúc; người Hoa chấp nhận các nữ  
thần của người Việt qua niềm tin Bà Thiên Hậu  
kiêm nhiệm vai trò trông nom cả vùng đất  
(tương tự quyền năng Bà Chúa Xứ), vùng đồng  
bằng nơi người Hoa sinh sống với ước nguyện  
Bà mang đến mưa thuận gió hòa, ngăn chặn các  
thiên tai để cuộc sống được an toàn. Chính quá  
trình này đã tạo nên sự dung hợp trong đời sống  
văn hóa vật chất, tinh thần và đời sống văn hóa  
tín ngưỡng của vùng đất này. Do có nhiều điểm  
tương đồng trong quan niệm truyền thống nên  
trong lĩnh vực tín ngưỡng sự du nhập và dung  
hợp trong quan niệm tín ngưỡng và trong hệ  
thống thần linh trở nên dễ dàng hơn. Sự hiện diện  
và chấp nhận phổ biến của tục thờ nữ thần mà cụ  
thể là tục thờ Bà Thiên Hậu, thờ Bà Ngũ Hành,  
tục thờ Bà Chúa Xứ là minh chứng điển hình cho  
tính dung hợp trong văn hóa tín ngưỡng nữ thần  
của địa phương nơi đây. Đúng như quan điểm của  
Franz Boas đưa ra trong học thuyết đặc thù lịch  
sử “văn hóa của mỗi một dân tộc được hình thành  
trong quá trình lịch sử gắn liền với môi trường xã  
hội nhất định và trong điều kiện địa lꢁ cụ thể”  
(Khoa Nhân học, 2008: tr.24).  
Ba là, tính thuần phát dân gian: Qua phân  
tích quá trình hình thành, phát triển cũng như sự  
vận động của tín ngưỡng nữ thần tại Sa Đéc  
thông qua hoạt động thờ cúng cũng như lễ hội  
dễ dàng nhận thấy: Tín ngưỡng nữ thần tại đây  
thể hiện đậm chất thuần phát dân gian trong  
quan niệm, trong đức tín, cũng như trong thực  
hành nghi lễ. Tính thuần phát dân gian ở đây  
được hiểu là sự dân giã, linh hoạt, thiết thực  
trong cách thể hiện của người dân gắn liền với  
bối cảnh đặc thù địa phương, thời kỳ lịch sử  
trong các quan niệm, đức tin, thực hành nghi lễ  
mà không câu nệ vào hình thức hay một quy  
định cứng nhắc. Người dân Nam Bộ nói chung,  
người dân Sa Đéc nói riêng có tinh thần khoan  
dung trong cách thức nhìn nhận và tiếp nhận  
những nét văn hóa khác với mình. Đặc biệt  
người dân ở Sa Đéc còn có tinh thần phóng  
khoáng, yêu tự do. Trong lĩnh vực tín ngưỡng  
họ cũng hết sức linh hoạt, không câu nệ hình  
thức bề ngoài, cốt sao cho đơn giản, dễ thực  
hiện, chủ yếu ở cái tâm trong sáng của người  
tham dự và cộng đồng tín ngưỡng. Trong quan  
36  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
niệm, người Sa Đéc quan niệm rằng nguồn gốc  
xuất thân của các vị thần không quan trọng.  
Điều quan trọng là các vị là thần linh, là bậc  
trưởng thượng lắng nghe những lời cầu nguyện  
của mình và hoàn thành nó để giúp đỡ dân lành.  
Chính vì vậy mà người Sa Đéc chẳng những  
không phân biệt mà còn tꢀ ra hết sức cung kính  
tất cả các vị thần linh đến từ các tộc người Hoa,  
Khmer. Về thực hành nghi lễ, người dân ở đây  
cũng không hề câu nệ hình thức, nghi thức hết  
sức cầu kỳ, phức tạp. Họ quan niệm thần linh là  
bậc tối cao không hề chấp nhất việc cúng kiếng  
hình thức mà phù hộ hay quở trách. Thần linh  
luôn ở trong tâm của họ, do đó việc cúng kiếng,  
thờ phụng, lễ lạc cũng chỉ là hình thức bề ngoài.  
Hình thức bề ngoài không thể nói lên được lòng  
thành của người chịu lễ. Điều quan trọng là sự  
thành tâm, còn hình thức cúng kiếng, lễ nghi thì  
tùy hoàn cảnh mà thực hiện. Mặc dù vậy, các  
hình thức thực hành nghi lễ trong tín ngưỡng nữ  
thần ở Sa Đéc cũng thể hiện tính điển chế song  
hành với tính thuần phát dân gian tương tự  
trường hợp tại lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành Long  
Thượng ở huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An theo  
mô tả của Nguyễn Tấn Quốc cho rằng: “Sinh  
hoạt nghi lễ ở đình phải đảm bảo những quy  
định mang tính bắt buộc, khuôn phép thì ngược  
lại đối với miếu, nó trở nên dễ dãi, phóng  
khoáng hơn. Đó chính là sự khác biệt chỉ ra yếu  
tố dân gian của lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành Long  
Thượng khi so sánh với đình” (Nguyễn Tấn  
Quốc, 2015: tr. 93). Có thể nói, không ở đâu  
thần thánh mang tính nữ lại phong phú đa dạng  
như ở Sa Đéc. Sự đa dạng phong phú về nguồn  
gốc xuất thân, về vai trò cụ thể của từng vị nữ  
được thờ phụng nó phản ánh nhu cầu nhiều vẻ  
của người phụ nữ ở thế giới hiện hữu. Có nữ  
thần là nhiên thần, có nữ thần là nhân thần, có  
nữ thần tạo dựng nên giống nòi, lại có nữ thần  
có công dựng nước; có nữ thần xuất hiện từ  
huyền thoại nhưng lại có nữ thần là con người  
lịch sử cụ thể. Có nữ thần xuất thân từ gia đình  
quyền quꢁ, có nữ thần được tôn vinh chỉ là  
người bình dân nghèo khổ, có nữ thần thì lo đuổi  
giặc giúp dân, có nữ thần lại chăm lo mưa thuận  
gió hòa, mùa màng tươi tốt.  
5. Kết luận  
Sa Đéc từ xưa đã sớm trở thành vùng thị tứ  
giao thương buôn bán nhộn nhịp, phồn hoa ở  
Tây Nam Bộ, nơi diễn ra sự giao thao văn hóa  
Việt, Hoa, Khmer với kết quả tiêu biểu là sự  
hình thành tín ngưỡng nữ thần kết tinh bởi ba  
yếu tố: yếu tố Việt, yếu tố Chăm và yếu tố Hoa  
cùng với hệ thống đức tin về những bà tiền chủ,  
bà chúa xứ sở; đức tin về những vị nữ thần phù  
hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa, người yên vật  
thịnh; đức tin bà Thiên Hậu vị phúc thần luôn  
hiển linh ban phước lành và may mắn trong cuộc  
sống của người dân. Đồng thời, thông qua các  
hình thức thực hành nghi lễ - nghệ thuật diễn  
xướng bóng rỗi cũng biểu hiện rõ nét những đặc  
tính đa dạng, dung hợp và tính thuần phát dân  
gian. Với cái lõi là đức tin tâm linh (cái thiêng),  
người dân Sa Đéc đã hình thành hệ thống liên  
kết đức tin - thực hành tín ngưỡng - sinh hoạt  
văn hóa, qua đó một phần của cuộc sống thực tại  
được tái hiện và thậm chí “lên khuôn” trong các  
hoạt động tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc.  
Tài liệu tham khảo  
Nguyễn Đăng Duy (1998). Văn hóa tâm linh. Hà  
Ni, Nxb Hà Ni.  
Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí,  
quyển II. Lꢁ Việt Dũng và Huỳnh Văn  
Ti dịch (2004). Đồng Nai, Nxb Tng  
hợp Đồng Nai.  
Nguyn Hu Hiếu (2003). Chúa Nguyn và các  
giai thoi mở đất phương Nam. Tp. Hồ  
Chí Minh, Nxb Tr.  
NguynHuHiếu(2004).mhiuvănhóatâmlinh  
Tây Nam B. Tp. HChí Minh, Nxb Tr.  
Nguyn Hu Hiếu (2010). Văn hóa dân gian vùng  
Đồng Tháp Mười. Hà Ni, Nxb Dân Trí.  
Nguyn Hu Hiếu (2015). Tꢁc thờ thn qua am  
miếu Nam B. Hà Nội, Nxb Đại hc Quc  
gia Hà Ni. Nguyn Hu Hiếu, Ngô Xuân  
Tư, Lê Đức Hòa, và Nguyễn Đắc Hin  
(2004). Đồng Tháp 300 năm. Tp. HChí  
Minh, Nxb Tr.  
Nguyn Hu Hiếu (2016). Văn hóa dân gian  
miệt Sa Đéc. Hà Ni, Nxb Hội Nhà văn.  
Nguyn Hu Hiếu (2017). My nét phát tho về  
tc thNam B. Kyếu hi tho khoa  
37  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
học Tín ngưỡng thnthn và thc hành  
bóng ri - địa nàng Nam Bộ, Đồng Nai.  
Đinh Gia Khánh (1995). Văn hóa dân gian Việt  
Nam vi sphát trin ca xã hi Vit  
Nam. Hà Ni, Nxb Chính trquc gia.  
Khoa Nhân học, Trường Đại hc Khoa hc Xã  
hội và Nhân văn (2008). Nhân học đại  
cương. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Đại hc  
Quc gia Thành phHChí Minh.  
Khoa Nhân học, Trường Đại hc Khoa hc Xã  
hội và Nhân văn (2014). Nhân học đại  
cương. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Đại hc  
Quc gia Thành phHChí Minh.  
vùng đất con người. Tp. HChí Minh,  
Nxb Thành phHChí Minh.  
Nht Thng (2014). Sa Đéc tình đất - tình  
người. Tp. HChí Minh, Nxb Văn hóa  
Văn nghệ.  
Dương Thanh Tùng (2017). Btài liệu điền dã  
thc hin ti Thành phố Sa Đéc từ năm  
2015 - 2018.  
B.C. và T.T. (2017). Phng vn s15-2. Phꢀng  
vn bởi Dương Thanh Tùng. [Biên bản  
phꢀng vấn]. Tht phThiên Hu cung -  
Phường 1, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng  
Tháp, ngày 23 tháng 01 năm 2017.  
Nguyễn Văn Luận (1974). Người Chăm Hồi  
giáo min Tây Nam - phn Vit Nam. Sài  
Gòn, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên  
xut bn.  
Nguyn Tn Quc (2015). Lhi miếu bà Ngũ  
Hành Long Thượng, huyn Cn Guc,  
tnh Long An - dưới góc nhìn quản lꢀ văn  
hóa. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành  
Quản lꢁ văn hóa, Trường Đại học Văn  
hóa Tp. HChí Minh.  
V.A. (2017). Phng vn s15-2. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vn]. Tht phThiên Hu cung - Phường  
1, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp,  
ngày 30 tháng 01 năm 2017.  
K.L. (2017). Phng vn s15-2. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vn]. Tht phThiên Hu cung - Phường  
1, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp,  
ngày 30 tháng 01 năm 2017.  
Sapir, E. (1934). The emergence of the concept  
of personality in a study of culture. In  
Edward Sapir (Author), David G.  
Mandelbaum (editor): Culture, Language  
and personality. Berkeley and Los  
Angeles, University of California Press.  
Trn Ngc Thêm (1996). Tìm vbản sꢂc văn  
hóa Vit Nam. Tp. HChí Minh, Nxb Tp.  
HChí Minh.  
Trn Ngc Thêm (2013). Văn hóa người Vit  
vùng Tây Nam B. Tp. HChí Minh, Nxb  
Văn hóa - Văn nghệ.  
Trn Ngc Thêm, Nguyn ThLHng (2013).  
Bn sc và giá trcủa văn hóa thờ nthn  
của người Vit vùng Tây Nam B,  
Trong Văn hóa thờ nthần - mꢃu ở Vit  
Nam và Châu Á bản sꢂc và giá tr. Hà  
Ni, Nxb Thế gii.  
Ngô Đc Thnh (2001). Tín ngưỡng và văn hóa tín  
ngưỡng Vit Nam. Hà Ni, Nxb Khoa hc  
Xã hi. Nguyn Ngọc Thơ (2017). Tín  
ngưỡng Thiên Hu vùng Tây Nam B. Hà  
Ni, Nxb Chính trquc gia - Stht.  
Nht Thng (2009). Hương quê thương nh. Tp.  
HChí Minh, Nxb Tng hp Thành phố  
HChí Minh. Nguyn Nht Thng, Phan  
Phong Vũ, Văn Phước Ba (2009). Sa Đéc  
M.X. (2017). Phng vn s12. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vn]. Miếu đôi Ngũ Hành - Chúa X, Xã  
Tân Quy Tây, Thành phố Sa Đéc, tỉnh  
Đồng Tháp, ngày 10 tháng 03 năm 2017.  
S.M. (2017). Phng vn s09. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vn]. Miếu Chúa X- Phường 2, Thành  
phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, ngày 12  
tháng 08 năm 2017.  
T.C. (2017). Phng vn s13. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vn]. Miếu Ngũ Hành - Xã Tân Phú  
Đông, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng  
Tháp, ngày 03 tháng 09 năm 2017.  
C.N. (2017). Phng vn s15-1. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng vấn].  
Miếu Chúa X- Xã Tân Phú Đông, Thành  
phố Sa Đéc, ngày 03 tháng 09 năm 2017.  
N.N.T (2017). Phng vn s04. Phꢀng vấn bi  
Dương Thanh Tùng. [Biên bản phꢀng  
vấn]. Văn phòng Thành ủy - Phường 1,  
Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, ngày  
14 tháng 12 năm 2017.  
Weller, R. P. (1987). Unities and Diversities in  
Chinese Religion. London, Macmillan/  
Seattle, University of Washington Press.  
38  
pdf 13 trang yennguyen 21/04/2022 1280
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng nữ thần ở Sa Đéc nhìn từ đức tin và thực hành nghi lễ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftin_nguong_nu_than_o_sa_dec_nhin_tu_duc_tin_va_thuc_hanh_ngh.pdf