Giải pháp phát triển hệ thống sản phẩm hình thành tuyến du lịch Đông - Tây Yên Tử theo yêu cầu liên kết

VĂN HÓA DU LỊCH  
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SẢN PHẨM  
HÌNH THÀNH TUYẾN DU LỊCH ĐÔNG - TÂY YÊN TỬ  
THEO YÊU CẦU LIÊN KẾT  
BÙI THANH THỦY  
Tóm tắt  
Liên kết là xu thế tất yếu, mang tính quy luật khách quan đối với phát triển du lịch nói chung và  
phát triển vùng du lịch nói riêng. Trong đó hiệu quả du lịch và hoạt động của doanh nghiệp luôn được  
đánh giá cao và có vai trò quyết định đối với sự liên kết và phát triển du lịch. Đỉnh Yên Tử được coi là  
nóc nhà chung của 3 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương. Với đặc điểm tương đồng, cùng chứa  
đựng hệ thống các di sản liên quan đến Phật Hoàng Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,  
tiềm năng sẵn có về truyền thống văn hoá lịch sử và điều kiện tự nhiên, nếu giải quyết tốt bài toán liên  
kết cùng phát triển du lịch sẽ tạo nên sự đột biến, chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc phát triển  
kinh tế của các địa phương cũng như du lịch. Vấn đề đặt ra là phải có một hệ thống sản phâm, dịch vụ  
đồng bộ, xây dựng tuyến liên kết giữa các địa phương giúp tối ưu hóa việc khai thác các tài nguyên du  
lịch, tránh sự trùng lặp, phân đều dòng lưu chuyển của các dòng khách.  
Từ khóa: Du lịch, sản phẩm du lịch, tuyến du lịch, liên kết du lịch, du lịch Yên Tử  
Abstract  
Association is the inevitable trend, with objective rules for tourism development in general and  
tourism area development in particular. In particular, tourism effect and business performance  
are always appreciated and play a decisive role in tourism integration and development. Yen Tu  
peak is considered the roof of three provinces: Quang Ninh, Bac Giang and Hai Duong. With similar  
characteristics, the common system of heritage related to Tran Tran Tong - the king and the leading  
monk and Truc Lam Yen Tu Zen, the available potential in historical cultural tradition and natural  
conditions, if the question of association in developing tourism together is well resolved it will create  
a mutation, strong transformation in the economic development of localities as well as tourism. The  
problem is that there must be a synchronous system of products and services, building a link between  
localities to optimize the exploitation of tourism resources, avoiding identical and making equal  
distribution of the tourist flows.  
Keywords: Tourism, tourism products, tourism routes, tourism links and association, Yen Tu tourism  
1. Lợi ích liên kết giữa các địa phương trong  
phát triển du lịch  
các bên tham gia đều được gia tăng, giúp tiết  
kiệm được chi phí đầu tư của mỗi thành viên/  
địa phương tham gia liên kết, tạo sản phẩm du  
lịch đặc trưng chung, làm cho quy mô và tích  
luỹ kinh doanh du lịch được phát triển không  
ngừng. Liên kết phát triển du lịch còn là động  
lực giúp cho việc giao lưu, quảng bá văn hoá  
một cách hiệu quả nhất, xây dựng thương  
ã có nhiều ý kiến phân tích về tác  
hại của việc thiếu liên kết, hợp  
Đ
tác trong phát triển du lịch. Liên  
kết phát triển du lịch mang tính vùng là một  
mô hình phát triển đặc biệt, lợi ích của tất cả  
NGHIÊN CỨU  
Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
91  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
hiệu du lịch vùng, thúc đẩy phát triển kinh tế  
- xã hội của mỗi địa phương theo hướng hợp  
tác hài hoà, tránh được sự cục bộ địa phương  
và phân tán nguồn lực xã hội. Điều đó đồng  
nghĩa các địa phương trong vùng liên kết phát  
triển sẽ có được những lợi thế bền vững hơn,  
lâu dài hơn từ du lịch.  
liên kết sẽ hạn chế sự trùng lặp về sản phẩm  
du lịch, tạo ra chuỗi sản phẩm du lịch đặc  
trưng chung của vùng/khu vực với quy mô và  
sức hấp dẫn cao hơn, giúp nâng cao được tính  
cạnh tranh chung, khả năng phát triển ngang  
nhau của các địa phương trong toàn vùng.  
Hơn nữa, thực tế các địa phương giàu tài  
nguyên du lịch ở nước ta hiện nay có sự phát  
triển kinh tế - xã hội ở mức độ tương đối thấp,  
cơ sở hạ tầng kém, sản phẩm du lịch tạo ra có  
chất lượng chưa cao, chưa có tính đặc trưng, lại  
có những nét tương đồng về vị trí địa lý, điều  
kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch,… cho nên rất  
cần sự liên kết để bổ sung, hỗ trợ cho nhau cả  
về tài chính, vật lực, con người và kinh nghiệm  
giữa các địa phương hoặc giữa các doanh  
nghiệp nhằm mục đích thu hút khách du lịch,  
kéo dài thời gian chuyến đi, tăng mức chi trả  
của du khách, đồng thời thúc đẩy sự phát triển  
trên nhiều phương diện của các địa phương,  
hạn chế những khiếm khuyết, điểm yếu của  
các bên tham gia trong hoạt động du lịch.  
Thực chất, liên kết du lịch là hình thức hợp tác  
và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các  
chủ thể du lịch tự nguyện tiến hành để cùng đề ra  
và thực hiện chủ trương, biện pháp có liên quan  
đến hoạt động phát triển du lịch của các bên  
tham gia, nhằm thúc đây hoạt động du lịch phát  
triển theo hướng có lợi nhất trên nguyên tắc tự  
nguyện, bình đăng, cùng có lợi.  
Mặt khác, xét về bản chất, du lịch dưới góc  
độ điểm đến có 5 yếu tố cơ bản: Sự hấp dẫn  
thu hút của điểm du lịch; giao thông; tiện nghi  
ăn nghỉ; những trang thiết bị hỗ trợ và cơ sở hạ  
tầng. Sức hấp dẫn của điểm du lịch sẽ thu hút  
du khách đến tham quan vùng đó; giao thông  
sẽ giúp du khách thực hiện được chuyến du  
lịch; các điều kiện ăn nghỉ và trang thiết bị hỗ  
trợ (như nhà hàng, ngân hàng, khu vui chơi  
giải trí, cửa hàng mua sắm...) đáp ứng mọi nhu  
cầu của du khách tại đó; cơ sở hạ tầng đảm  
bảo những chức năng cơ bản của tất cả các  
yếu tố nói trên. Du lịch là một hoạt động đa  
dạng nhiều mặt và là sự tổng hợp nhiều dịch  
vụ khác nhau trên từng tour, tuyến. Chính vì  
thế, du lịch là ngành kinh tế có tính liên ngành,  
liên vùng, xã hội hoá cao, luôn vươn ra khỏi  
phạm vi hành chính của một địa phương, một  
vùng, quốc gia, khu vực và sự liên kết trong du  
lịch là yêu cầu tất yếu diễn ra.  
2. Vấn đề đặt ra trong phát triển sản phẩm  
du lịch đối với các địa phương khu vực đông  
- tây Yên tử  
Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp của 5  
nhóm yếu tố cấu thành: 1) Tài nguyên du lịch;  
2) Hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch;  
3) Môi trường du lịch; 4) Dịch vụ, hàng hóa; 5)  
Con người, cách thức quản lý và hình ảnh du  
lịch.  
Hệ thống sản phẩm của du lịch bao gồm  
hai loại cơ bản: sản phẩm hàng hóa và sản  
phẩm dịch vụ. Trong mỗi loại sản phẩm lại có  
nhiều kiểu loại khác nhau. Tuy nhiên, nguyên  
tắc chung khi xây dựng các sản phẩm du lịch  
cần chú ý tới các yếu tố:  
Liên kết sẽ làm tăng tính cạnh tranh đầu tư  
và phát triển điểm đến, thu hút khách du lịch.  
Đây là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch  
trước cơ chế thị trường mang tính cạnh tranh  
gay gắt trong bối cảnh hội nhập đối với từng  
địa phương liên kết, các vùng với tư cách là  
điểm đến thống nhất.  
- Thỏa mãn mối quan hệ cung cầu trong  
hoạt động du lịch.  
- Phát huy được tiềm năng, nội lực của vùng  
du lịch. Tài nguyên tự nhiên và tài nguyên  
nhân văn được nghiên cứu, khai thác một cách  
hiệu quả.  
Đối với các vùng có tính tương đồng cao về  
tài nguyên du lịch giữa các địa phương thì việc  
92 Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
- Phải đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị, xã  
hội của Nhà nước, địa phương lên hàng đầu,  
tránh quan điểm vì lợi ích cục bộ của từng địa  
phương, từng doanh nghiệp làm ảnh hưởng  
đến quy hoạch và lợi ích chung, ảnh hưởng  
đến tài nguyên và môi trường.  
việc thu hút khách, tạo nên sự hấp dẫn cho  
khu, điểm du lịch, tạo dòng khách đa dạng;  
hạn chế tác động của khí hậu, thời tiết, giảm  
tính thời vụ; giúp cho thị trường ở các vùng  
phát triển; tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả  
tài nguyên du lịch địa phương; thúc đẩy kinh  
tế địa phương phát triển.  
Để thỏa mãn được các yếu tố trên, khi phát  
triển các dòng sản phẩm du lịch đều phải dựa  
vào sản phẩm gốc, đó là điểm du lịch được  
định hình trên cơ sở tài nguyên du lịch. Đây  
cũng là sản phẩm chính gắn kết với các vùng/  
địa phương, bởi từ sản phẩm này, các doanh  
nghiệp lữ hành tạo ra được sản phẩm du lịch  
cơ bản - các chương trình du lịch, và từ đó  
cũng tạo cơ sở cho các sản phẩm dịch vụ khác  
ra đời như: khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi  
giải trí, mua sắm…  
Đặc biệt, khi thiết kế sản phẩm du lịch phải  
chú ý đến tính đa dạng trong sự độc đáo, riêng  
biệt để tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm,  
hình thành hệ thống sản phẩm đặc trưng, có  
sức hút lớn và tăng tính cạnh tranh trong kinh  
doanh cũng như điểm đến. Có thể hiểu sản  
phẩm du lịch đặc trưng là sản phẩm ngoài việc  
hội đủ các yếu tố cấu thành chung còn mang  
tính riêng biệt, độc đáo và đặc sắc so với sản  
phẩm du lịch thông thường. Tính đặc trưng  
của sản phẩm du lịch được quy định bởi đặc  
điểm tự nhiên hoặc văn hóa bản địa điển hình  
của địa phương nơi sản phẩm du lịch được  
hình thành, phát triển.  
Cấu tạo của một điểm du lịch gồm các thành  
tố cơ bản: Cảnh quan tự nhiên (bãi biển, đảo,  
rừng, sông, núi…); các thành phố hoặc làng  
mạc nằm trên cảnh quan đó; điều kiện khí hậu;  
hệ thống các tài nguyên nhân văn (di tích, làng  
nghề, ẩm thực…); cư dân địa phương. Ngoài ra  
còn phải có hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, cơ  
sở thương mại, khu giải trí công cộng; hạ tầng  
giao thông; cách thức quản lý, tổ chức…  
Núi Yên Tử thuộc cánh cung Đông Triều,  
“ôm” gọn vùng đông bắc, sườn đông thuộc  
thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, sườn  
tây gồm các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục  
Ngạn và Sơn Động (Bắc Giang). Đỉnh Yên Tử  
cao 1.068m (tên cũ là Bạch Vân Sơn) được coi  
là nóc nhà chung của 3 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc  
Giang, Hải Dương. Đây là dãy núi chứa đựng  
hệ thống các di tích lịch sử văn hoá gắn liền  
với sự ra đời, hình thành và phát triển của nhà  
Trần (1225 - 1400) và thiền phái Trúc Lâm ở  
Việt Nam. Vì vậy, các địa phương Quảng Ninh,  
Bắc Giang, Hải Dương nơi có dãy núi chạy qua  
cùng chứa đựng hệ thống các di sản liên quan  
đến Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Phật Hoàng  
Trần Nhân Tông, cảnh quan ngoạn mục… rất  
giàu tài nguyên để phát triển du lịch tâm linh,  
tạo thuận lợi cho việc xây dựng chuỗi giá trị  
sản phẩm chung.  
Vì vậy, việc tạo lập một điểm du lịch cần  
trải qua các bước: 1) Thống kê các tài nguyên  
du lịch có khả năng đáp ứng nhu cầu của du  
khách; 2) Bóc tách các giá trị để tạo hệ thống  
phân điểm du lịch làm cơ sở kết nối tạo điểm  
nhấn cho chương trình du lịch về sau; 3) Xác  
định địa danh, địa giới rõ ràng; tiến hành quy  
hoạch bằng bản thiết kế phân khu chức năng  
các hạng mục công trình của điểm: phân khu  
tham quan, phân khu nghỉ dưỡng, phân khu  
giải trí, phân khu mua sắm…; 4) Đầu tư hệ  
thống cơ sở hạ tầng du lịch và nguồn lực du  
lịch để đảm bảo và thực hiện triển khai phục  
vụ du khách về sau.  
Trên cơ sở các điểm du lịch, hình thành các  
sản phẩm dịch vụ như: ăn, nghỉ, vui chơi giải  
trí… Các sản phẩm này có tác dụng lớn trong  
Tại Quảng Ninh có khu di tích Yên Tử với  
hàng chục điểm di tích lớn nhỏ, trong đó có di  
tích chùa Quỳnh Lâm nổi tiếng (thuộc huyện  
NGHIÊN CỨU  
Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
93  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
Đông Triểu). Tại Hải Dương có khu di tích chùa  
Thanh Mai, khu di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc cùng  
hơn 20 điểm di tích khác có liên quan đến  
Thiền phái Trúc Lâm (thuộc thị xã Chí Linh).  
Tại Bắc Giang, hệ thống Thiền phái Trúc Lâm  
phân bố dọc triền phía tây Yên Tử, tập trung  
ở các huyện Lục Nam, Lục Ngạn và Sơn Động,  
trong đó chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng  
là một điểm nhấn đặc biệt trong chuyến hành  
trình hành hương về thánh địa của Thiền phái  
Trúc Lâm trên ngàn xanh Yên Tử.  
Để khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch của  
các địa phương, đặc biệt là khai thác loại hình  
văn hoá du lịch tâm linh cùng các loại hình phụ  
trợ như du lịch sinh thái, du lịch lịch sử - văn  
hoá,... không thể thiếu sự liên kết, nhất là kết  
nối các tuyến, điểm du lịch giữa các tỉnh để tạo  
dòng sản phẩm du lịch tâm linh hấp dẫn và đặc  
trưng. Hình thành các hành trình di sản văn hoá  
- tuyến, tour du lịch hoàn chỉnh, có thể khai  
thác liên hoàn, phục vụ đối tượng du khách  
với những nhu cầu đa dạng khác nhau.  
Đặc biệt, trong đề án đầu tư phát triển của  
Nhà nước cũng đã xác định quần thể di tích nhà  
Trần và Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử tại Quảng  
Ninh - Bắc Giang - Hải Dương là một chuỗi kiến  
trúc công trình văn hóa, không đơn lẻ mà gồm  
4 cụm di tích thuộc 3 tỉnh, cụ thể: Khu di tích  
lịch sử và danh thắng Yên Tử (thành phố Uông  
Bí, Quảng Ninh); Khu di tích lịch sử nhà Trần tại  
Đông Triều (thị xã Đông Triều, Quảng Ninh);  
Khu Di tích lịch sử, văn hóa Thanh Mai - Côn  
Sơn - Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương);  
Khu di tích Tây Yên Tử (Bắc Giang).  
Đa dạng hóa sản phẩm du lịch hướng tới  
mục tiêu khắc phục hạn chế về tính thời vụ.  
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, tại những  
địa bàn có đặc điểm tương đồng, các sản phẩm  
du lịch cần sự đa dạng: đa dạng trong việc tạo  
điểm đến và xác định các điểm vệ tinh phong  
phú tạo thành nhiều tuyến.  
Vùng đông Yên Tử, được phát triển du lịch  
sớm, có vòng đời sản phẩm dài hơn, có quá  
trình định vị lâu năm, cần có chiến lược đổi  
mới/ làm mới sản phẩm du lịch. Vùng tây Yên  
Tử mới được triển khai dự án đầu tư xây dựng  
thành khu du lịch tâm linh, sinh thái cách đây  
hơn 5 năm và vẫn đang thực hiện ở giai đoạn  
2 với một số sản phẩm du lịch đang định hình.  
Do ở giai đoạn đầu của sự phát triển nên khu  
vực này rất cần có chiến lược phát triển sản  
phẩm, tạo tính khác biệt với các địa phương  
khác, giúp tăng sức thu hút và lưu chuyển  
dòng khách.  
Hiện sản phẩm du lịch khai thác ở các địa  
phương là tương đối tương đồng, khó tìm  
được những đặc trưng mang tính khác biệt  
hoàn toàn. Vì vậy, các địa phương cần liên kết  
mở rộng các sản phẩm mang tính liên tỉnh nội  
vùng, góp phần kéo giãn dòng khách, đa dạng  
hóa với tính chất làm mới sản phẩm cũ, tăng  
độ hấp dẫn, nâng cao mức độ thoả mãn nhu  
cầu của du khách như sản phẩm thuộc các  
loại hình “du lịch trang trại” đưa khách tham  
quan các vườn trái cây;du lịch làng nghềđến  
thăm các làng gốm, làng làm bánh…; hay “du  
lịch xanh” với các làng du lịch cộng đồng, các  
khu cảnh quan sinh thái ở mỗi địa phương.  
Cần phối hợp nghiên cứu xây dựng sản phẩm  
mới để đa dạng hoá, tăng sức hấp dẫn, thu  
hút du khách, hướng tới các chương trình du  
lịch, phát huy khai thác thế mạnh tài nguyên  
chung của các các địa phương như du lịch mạo  
hiểm, du lịch đạp xe, du lịch chụp ảnh, du lịch  
phượt…  
Hơn nữa, các địa phương cũng cần trao  
đổi, thống nhất kế hoạch phát triển sản phẩm  
du lịch chung trên cơ sở sở lợi thế cạnh tranh  
của mỗi địa phương, để có kế hoạch phát triển  
sản phẩm chung và riêng của mỗi địa phương,  
cách thức liên kết trong phát triển.  
3. Giải pháp liên kết phát triển sản phẩm du  
lịch giữa các địa phương tạo tính đồng bộ,  
xây dựng chuỗi giá trị chung  
Về phương diện lý thuyết, hiện có nhiều  
hình thức liên kết: 1) Liên kết dọc giữa Trung  
ương (chính quyền với các bộ, ngành) - địa  
94 Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
phương (chính quyền và sở ngành); 2) Liên kết  
ngang giữa các địa phương trong vùng (nội  
vùng) với các cực trung tâm phát triển; 3) Liên  
kết giữa các chủ thể vi mô, giữa doanh nghiệp  
với doanh nghiệp, doanh nghiệp với hình thức  
tổ chức kinh tế khác. Việc liên kết giữa các địa  
phương với nhau là liên kết mang tính “nội  
khối” trong đó hàm chứa sự liên kết giữa các  
chủ thể ở cấp vi mô. Điều quan trọng là phải  
xác định được cơ sở hợp tác liên kết giữa các  
địa phương, cơ chế đảm bảo sự phối hợp và  
liên kết bền vững, những chính sách cụ thể để  
thực hiện liên kết.  
đáo của từng địa phương, phù hợp với nhu  
cầu thị hiếu của thị trường khách, đủ sức cạnh  
tranh, bổ sung cho thị trường sản phẩm của  
trung tâm du lịch Hà Nội, Hải Phòng và đón  
khách Trung Quốc từ các địa phương giáp biên  
giới như Lạng Sơn, Quảng Ninh…  
Cụ thể cần:  
- Đầu tư cho tuyến du lịch liên kết chính (cả  
dài và ngắn): du lịch tâm linh theo dòng Thiền  
phái Trúc Lâm Yên Tử.  
- Đầu tư phát triển các tuyến du lịch, các  
khu du lịch sinh thái: các vườn sinh thái, rừng,  
vườn chim,… như hồ Khe Chè, hồ Thiên (Đông  
Triều, Quảng Ninh); đảo cò Chi Lăng Nam (Hải  
Dương); khu suối Mỡ, rừng Khe Rỗ, đồi thông  
(Bắc Giang)…  
Để phát triển hệ thống sản phẩm, dịch vụ  
đảm bảo tính đồng bộ, hình thành tuyến du  
lịch theo yêu cầu liên kết giữa các điểm trong  
địa phương và với các địa phương khác cần  
chú trọng đến các giải pháp:  
- Đầu tư các khách sạn, khu nghỉ dưỡng  
tại các địa phương đang trong quá trình phát  
triển: Hải Dương, Bắc Giang.  
3.1. Giải pháp liên kết trong định hướng,  
phát triển dòng sản phẩm  
- Đầu tư làng nông nghiệp sinh thái, trang  
trại du lịch ở Lục Nam, Sơn Động (Bắc Giang),  
làng Hoàng Giám (Chí Linh, Hải Dương), làng  
Yên Đức, đồi vườn ở các xã Việt Dân, Bình Khê  
(Đông Triều, Quảng Ninh)… trở thành điểm  
đến, giúp du khách hiểu được đời sống sinh  
hoạt, phương thức sản xuất của cư dân nơi đây.  
Các địa phương cần điều chỉnh chủ trương,  
chiến lược, chính sách phát triển du lịch cho  
phù hợp với định hướng liên kết phát triển  
theo hướng đa dạng hóa sản phẩm du lịch để  
tạo thành cụm sản phẩm mạnh, các sản phẩm  
du lịch chuyên đề, phát triển sản phẩm du lịch  
“Con đường hoằng pháp của Trần Nhân Tông” -  
điểm đến chung để tạo thành sản phẩm hấp  
dẫn, song cần nghiên cứu phát triển sản phẩm  
riêng của mỗi địa phương, trên cơ sở đó thiết  
kế các tuyến nội tỉnh, tuyến kết nối giữa các  
địa phương, tránh trùng lặp; hai khu vực đông  
và tây Yên Tử đều có chung thế mạnh về sản  
phẩm du lịch tâm linh, tuy vậy cần có chiến  
lược phát triển sản phẩm phù hợp với đặc  
điểm tài nguyên ở mỗi khu vực; đẩy mạnh khai  
thác nguồn khách du lịch nội địa.  
- Đầu tư xây dựng các làng nghề truyền  
thống trở thành các làng phục vụ du lịch như  
làng làm sản phẩm từ gốm sứ, làng mỹ nghệ  
than đá, làm ngư cụ… (Quảng Ninh); làng  
làm gốm, mây tre, nấu rượu, làm bánh đa, làm  
bún… (Bắc Giang); làng làm gốm sứ, mộc, mỹ  
nghệ, thêu ren… (Hải Dương).  
- Đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa,  
lễ hội truyền thống, loại hình nghệ thuật đặc  
trưng của các địa phương. Đặc biệt là các di  
tích trọng điểm cần đầu tư tốt hơn như chùa  
Vĩnh Nghiêm, chùa Thanh Mai…  
Lợi thế về tiềm năng du lịch của 3 tỉnh  
Quảng Ninh, Hải Dương và Bắc Giang, ngoài  
hệ thống tài nguyên du lịch gắn với Thiền phái  
Trúc Lâm Yên Tử, còn có các di tích lịch sử, văn  
hoá, lễ hội, làng nghề truyền thống độc đáo,  
phong phú. Vì vậy, cần đầu tư vào các lợi thế  
này, biến chúng thành sản phẩm du lịch độc  
- Đẩy mạnh công tác đầu tư cơ sở vật chất,  
công trình vui chơi giải trí. Đây là một yêu cầu  
bức thiết nhằm thực hiện chiến lược đa dạng  
hoá các loại hình và sản phẩm du lịch, tạo ra sự  
hấp dẫn đáp ứng nhu cầu của khách du lịch,  
NGHIÊN CỨU  
Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
95  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
góp phần tạo nên diện mạo văn minh, hiện đại  
tồn văn hóa truyền thống trong cộng đồng;  
đào tạo kỹ năng giao tiếp, phục vụ khách; hỗ  
trợ trang thiết bị; xây dựng các khu không gian  
văn hóa đặc trưng tại các địa phương; quy  
hoạch lại hệ thống vườn, rừng phong hộ, khu  
giới thiệu đặc sản địa phương… Hình thành  
các tuyến du lịch trải nghiệm đặc thù để kết  
nối sản phẩm du lịch của các địa phương trong  
vùng như các tuyến du lịch trải nghiệm tìm  
hiểu cuộc sống, văn hóa người dân ven sườn  
tây Yên Tử; du lịch sinh thái, tìm hiểu đa dạng  
sinh thái vùng đồng bằng, trung du miền núi;  
du lịch tìm hiểu các di sản văn hóa.  
của vùng.  
Để có thể tồn tại và cạnh tranh lành mạnh  
với các vùng du lịch, các khu du lịch khác, cần  
phải tạo cho mỗi địa phương những sản phẩm  
du lịch có tính độc đáo đa dạng, đủ khả năng  
thu hút, đáp ứng tốt nhu cầu của du khách,  
bên cạnh đó, phải luôn chú trọng đến chất  
lượng của sản phẩm dịch vụ du lịch, làm hài  
lòng du khách. Mỗi địa phương cần tạo ra các  
sản phẩm du lịch đặc thù, mang sắc thái văn  
hóa, phong tục tập quán và đặc điểm tự nhiên  
riêng biệt. Khuyến khích các ngành nghề khác  
cùng phát triển như nghề thủ công truyền  
thống, nuôi trồng, làm vườn, sản xuất đồ thủ  
công, đặc sản để tạo ra các sản phẩm du lịch  
độc đáo, đưa vào phục vụ hoạt động du lịch.  
Tận dụng các điều kiện tài nguyên du lịch tự  
nhiên, kết hợp phát triển du lịch tâm linh, tạo  
tính đa dạng cho sản phẩm du lịch.  
Các huyện khu vực trung tâm của non  
thiêng Yên Tử mở rộng liên kết với các huyện  
khác trong mỗi tỉnh và các tỉnh bạn để xây  
dựng chuỗi sản phẩm du lịch mới, các chương  
trình du lịch đa dạng thu hút ngày càng đông  
du khách đến.  
- Xây dựng các khu thể thao, ẩm thực, khu  
vui chơi giải trí, khu sân vườn, trang trại…  
Tại các địa phương từ điểm du lịch trung  
tâm, kết nối với hệ thống các điểm phụ cận  
tạo tuyến tham quan trong địa phương để tận  
dụng lợi thế và giãn dòng khách, giúp phát  
triển du lịch đồng đều. Ví dụ như chương trình  
tham quan “Hành trình theo dấu chân thiền  
phái Trúc Lâm” theo các tuyến ngắn:  
- Đầu tư các sản phẩm dịch vụ như mua  
sắm, các cửa hàng bán quà lưu niệm, cửa hàng  
cho thuê xe đạp, xe ô tô địa hình, dụng cụ thể  
thao,… khu massage, sauna, cafe…  
- Khuyến khích việc giữ gìn và phát triển  
ngành nghề thủ công truyền thống của các  
địa phương, tổ chức các chuyến dã ngoại nhỏ  
cho du khách tham quan, tìm hiểu nghề truyền  
thống, làm vườn và cuộc sống của người dân  
địa phương.  
- Chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) - Chùa  
Côn Sơn, chùa Thanh Mai (Hải Dương).  
- Chùa Côn Sơn, Thanh Mai ( Hải Dương) -  
chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).  
- Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) - chùa  
Quỳnh Lâm (Quảng Ninh).  
- Đa dạng các sản phẩm phụ trợ của mỗi  
địa phương, các đồ lưu niệm, sử dụng các sản  
phẩm ở chính địa phương hoạt động du lịch  
để tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có và tạo  
việc làm cho người dân địa phương. Phát triển  
sản phẩm du lịch địa phương theo hướng tích  
cực và có trách nhiệm.  
Đồng thời cần có các dịch vụ bổ sung khác  
để góp phần thỏa mãn nhu cầu đa dạng của  
du khách, làm cho chuyến đi của họ thêm hấp  
dẫn và giúp kéo dài thời gian lưu trú của khách,  
tăng doanh thu cho các cơ sở kinh doanh du  
lịch. Cụ thể, một số dịch vụ bổ sung như sau:  
Cải tạo, nâng cấp các hạng mục và yếu tố hình  
thành sản phẩm du lịch đặc thù như: hệ thống  
phương tiện vận chuyển, cơ sở hạ tầng và hệ  
thống thu gom rác thải…; tuyên truyền, bảo  
Các doanh nghiệp du lịch đưa các sản  
phẩm vào khai thác kinh doanh, tìm các dòng  
khách có nhu cầu. Xây dựng các chương trình  
mang tính nối kết toàn vùng để du khách cảm  
nhận những giá trị đặc trưng riêng biệt đó.  
96 Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
Tập trung phát triển các dịch vụ phụ trợ đa  
dạng, phong phú cho tuyến du lịch, đảm bảo  
điều kiện giao thông thuận lợi giữa các điểm  
du lịch, đảm bảo các điều kiện dịch vụ dọc  
tuyến du lịch như điểm dừng nghỉ, bán hàng  
lưu niệm, hướng dẫn, thuyết minh…  
Phối hợp trao đổi kinh nghiệm xây dựng  
quy hoạch tài nguyên du lịch vùng, cách  
thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch.  
Tập trung trí tuệ của các địa phương trong  
vùng với sự giúp đỡ của Tổng cục Du lịch, các  
chuyên gia, xây dựng và nghiên cứu sâu các  
phân đoạn thị trường khách quốc tế để nắm  
vững nhu cầu của các phân khúc riêng biệt,  
trên cơ sở chia sẻ kinh phí giữa các địa phương  
và các bên tham gia liên kết.  
Thường xuyên kết nối các sự kiện, lễ hội  
riêng của từng tỉnh gắn với chương trình du  
lịch tâm linh giúp tạo chuỗi sản phẩm sự kiện  
du lịch nhằm thu hút nguồn khách du lịch.  
Phối hợp trong việc kêu gọi đầu tư xây  
dựng sản phẩm, điểm du lịch, các cơ sở dịch  
vụ, hạ tầng du lịch. Tập trung liên kết đầu tư  
vào cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đặc biệt là  
cơ sở vật chất kỹ thuật tạo ra dòng sản phẩm  
chung cho thị trường khách du lịch đến với các  
địa phương.  
3.2. Giải pháp liên kết quy hoạch, đầu tư  
phát triển sản phẩm  
Du lịch là “ngành mang tính tổng hợp, có  
tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao,  
do vậy, du lịch ở mỗi địa phương muốn phát  
triển phải đặt trong mối quan hệ hợp tác với  
các vùng du lịch trong nước, các tỉnh gần kề và  
các khu vực trong địa phương. Đặc biệt, phải  
có mối liên hệ với các địa phương có chung  
nguồn tài nguyên, các địa phương, tỉnh thành  
lớn có hoạt động du lịch phát triển như Hà Nội,  
Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên,  
Bắc Ninh, Lạng Sơn để tạo điều kiện học hỏi  
kinh nghiệm cũng như cơ hội để nhận những  
nguồn vốn đầu tư lớn, hỗ trợ cho việc phát  
triển du lịch và việc bảo vệ tài nguyên môi  
trường một cách bền vững, đem lại hiệu quả  
lâu dài.  
Đầu tư tôn tạo phát triển kết cấu hạ tầng,  
cải tạo nâng cấp và phát triển hệ thống giao  
thông, điện nước, nhằm đáp ứng yêu cầu phát  
triển kinh tế xã hội, giao lưu kinh tế văn hoá và  
mở rộng hệ thống du lịch trên phạm vi toàn  
tỉnh đến các điểm, các khu du lịch một cách  
thuận tiện (cả hệ thống giao thông đường  
bộ, đường sông và đường biển...). Đặc biệt  
cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống giao  
thông đến trung tâm đỉnh non Yên Tử, nối các  
di tích, danh thắng thành một tour du lịch hấp  
dẫn, phù hợp với hướng phát triển kinh tế của  
địa phương.  
Điều quan trọng là các địa phương phải  
có sự thống nhất về phát triển các sản phẩm  
chung, sản phẩm đặc trưng riêng để có chính  
sách đầu tư hợp lý và liên kết du lịch. Cũng như  
có chính sách hỗ trợ các nhà đầu tư, các doanh  
nghiệp khai thác thực hiện theo hướng trên.  
Riêng hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang là  
các tỉnh đang trong giai đoạn phát triển, tài  
nguyên kém đa dạng, đặc sắc hơn so với một  
số tỉnh bạn trong khu vực, phát triển sau so với  
Quảng Ninh. Vì vậy, để thu hút đầu tư cần tạo  
lợi thế và hỗ trợ về đầu tư với các chính sách ưu  
đãi đặc biệt, để các nhà đầu tư đều thấy đầu tư  
vào phát triển du lịch ở đây là có lợi.  
Tiến hành phối hợp với các cơ quan quản  
lý nhà nước về du lịch của các tỉnh lân cận để  
xác định rõ các sản phẩm đặc trưng của từng  
địa phương, từ đó có những chính sách, định  
hướng quy hoạch, đầu tư trọng điểm, tránh  
trùng lặp. Liên kết phối hợp quản lý hành chính  
trong việc kiểm soát hoạt động khai thác tài  
nguyên sao cho đem lại lợi ích cho toàn vùng  
và bảo vệ tài nguyên, môi trường.  
3.3. Giải pháp liên kết xúc tiến, quảng bá  
sản phẩm  
Tăng cường công tác quảng bá hình ảnh  
của các địa phương, đẩy mạnh quảng bá các  
sản phẩm liên tỉnh nội vùng trong các chương  
NGHIÊN CỨU  
Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
97  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
trình xúc tiến du lịch của các địa phương. Cần  
xúc tiến quảng bá thương hiệu chung, tránh  
tình trạng vì muốn tiếp thị địa phương mình  
mà hạ thấp hình ảnh địa phương kia.  
đàn phát triển kinh tế du lịch, các tổ công tác  
hoặc các cuộc gặp định kỳ giữa các lãnh đạo  
địa phương và các cơ quan ban ngành chức  
năng… Một kênh hợp tác quan trọng khác  
là thông qua Hiệp hội du lịch. Thiết kế cơ chế  
kết hợp và chia sẻ lợi ích từ sự liên kết giữa các  
địa phương để khuyến khích hợp tác, thay vì  
cạnh tranh chia sẻ thị trường, cùng nhau xây  
dựng thương hiệu du lịch. Cuối cùng, không  
thể quên cơ chế điều phối (vô hình hay hữu  
hình) của thị trường, bởi bất kỳ chính sách  
nào khi đưa ra đều phải tính đến đối sách của  
khu vực doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề,  
người dân.  
Phối hợp tổ chức các buổi gặp gỡ giữa các  
doanh nghiệp để cung cấp thông tin, tạo điều  
kiện trao đổi, tìm đối tác, hoàn thiện, mở rộng  
chương trình du lịch hoặc kết nối các chương  
trình giữa các doanh nghiệp; có các biện pháp  
đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn cho khách du  
lịch và hoạt động của các doanh nghiệp trên  
địa bàn khu vực.  
Tổ chức một số diễn đàn để trao đổi, thống  
nhất nhận thức về sự cần thiết phát triển chuỗi  
sản phẩm du lịch chung, sản phẩm du lịch đặc  
thù nhằm nâng cao tính cạnh tranh của điểm  
đến với các địa phương du lịch có cùng tài  
nguyên tương đồng và trong cả nước; nhận  
thức về vai trò của liên kết trong phát triển du  
lịch, đặc biệt là liên kết phát triển sản phẩm du  
lịch đặc thù và xúc tiến du lịch chung.  
Thiết lập và điều hành quỹ tài chính chung,  
phục vụ mục tiêu phát triển du lịch chung của  
các địa phương liên kết. Quỹ được hình thành  
chủ yếu từ các nguồn: đóng góp từ ngân sách  
địa phương, đóng góp của các doanh nghiệp,  
tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài  
nước, sự hỗ trợ của Trung ương và cũng phải  
thiết lập các cơ chế giám sát cần thiết. Quỹ  
được sử dụng cho các mục tiêu cụ thể mà Ban  
chỉ đạo du lịch giữa các địa phương thống nhất  
đặt ra. Các mục tiêu cần thiết trước hết cho  
phát triển du lịch là hoạt động xúc tiến quảng  
bá, tài trợ các dự án nghiên cứu phát triển sản  
phẩm đặc trưng, đào tạo nguồn nhân lực.  
Phối hợp với các công ty lữ hành trong  
nước và quốc tế nhằm quảng bá hình ảnh và  
giới thiệu những sản phẩm đặc trưng của mỗi  
địa phương và toàn vùng với du khách trong  
địa phương, vùng, khu vực, trong nước và  
quốc tế.  
Chủ động liên kết với các doanh nghiệp du  
lịch quốc tế để xây dựng, giới thiệu, khai thác  
các chương trình du lịch cho đối tượng khách  
du lịch quốc tế, khai thác tham quan nghiên  
cứu tại khu non thiêng Yên Tử.  
Mặt khác, để liên kết thành công, chắc  
chắn cần phải có sự hội tụ và đồng thuận của  
các địa phương và cần nhất là vai trò tổng chỉ  
huy. Lãnh đạo, chính quyền các địa phương  
phải thật sự coi đây là vấn đề sống còn của địa  
phương mình.  
3.4. Giải pháp phối hợp tổ chức thực hiện  
liên kết giữa các địa phương, đơn vị  
Tăng cường tính chủ động và cam kết trong  
việc triển khai các hoạt động. Tăng cường quan  
hệ đối tác công - tư, khuyến khích sự tham gia  
của khu vực tư nhân vào cơ chế quản lý điểm  
đến chung, thể hiện qua việc nâng cao vai trò  
của các hiệp hội trong lĩnh vực du lịch tại các  
địa phương. Xây dựng cơ chế xã hội hoá thu  
hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào  
các hoạt động phát triển du lịch.  
Để khuyến khích hợp tác và giảm bớt cạnh  
tranh, các địa phương phải xác định được ưu  
thế và năng lực cơ bản (core competency) của  
mình. Áp dụng nhiều cơ chế đa dạng trong  
kiên kết, hợp tác. Cơ chế này có thể xuất phát  
từ UBND các địa phương, Ban chỉ đạo du lịch  
chung cùng sự tham gia của các tổ chức có liên  
quan, thông qua các kênh đối thoại là các diễn  
98 Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
Công việc cần thiết mà Ban chỉ đạo du lịch  
chung cần làm là đầu tư đầy đủ các nguồn lực  
cho công tác quy hoạch (và tái quy hoạch)  
trên cơ sở tầm nhìn toàn vùng, không thực  
hiện công tác quy hoạch trên tầm nhìn từng  
địa phương. Thật sự ở cả 3 địa phương, các lợi  
thế so sánh tương đối của từng địa phương  
không rõ ràng, vì vậy, cần có một chương  
trình nghiên cứu chuyên sâu, tổng thể để xác  
định các lợi thế so sánh khác biệt của từng địa  
phương trong vùng. Trên cơ sở đó, rà soát các  
quy hoạch hiện có, điều chỉnh quy hoạch nếu  
cần, sao cho có thể phát huy được tốt nhất các  
lợi thế đặc biệt của mỗi địa phương trong tiểu  
vùng hay của cả vùng.  
các sản phẩm dịch vụ du lịch. Do đó việc đầu  
tư phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân  
lực là việc làm hết sức cấp thiết đối với du lịch  
các địa phương. Việc đào tạo lại và bồi dưỡng  
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện có  
cần kết hợp với đào tạo mới, đáp ứng yêu cầu  
trước mắt và chuẩn bị cho lâu dài, và cần phải  
tiến hành liên tục, thường xuyên một cách có  
hệ thống.  
Liên kết trong việc bảo vệ tài nguyên du  
lịch, bảo vệ môi trường, phát huy giá trị các di  
sản, nâng cao nhận thức, ý thức thân thiện du  
lịch.  
Tóm lại, việc liên kết giữa các địa phương  
là mô hình liên kết thúc đẩy những tiềm năng,  
thế mạnh và hạn chế những yếu kém, giúp các  
địa phương xác định được rõ những lợi thế  
cạnh tranh, vai trò riêng để tạo ra sức mạnh  
tổng hợp chung cho toàn khu vực, mà trong  
đó liên kết trong phát triển chuỗi sản phẩm du  
lịch chung là vấn đề cơ bản nhất.  
Trên thực tế, hầu hết các địa phương trong  
cả nước chưa có sự phối hợp tổng thể trong  
quy hoạch phát triển du lịch chung. Phần lớn  
mỗi tỉnh đi theo một lợi ích riêng, không tham  
khảo quy hoạch lẫn nhau, không đưa ra các  
yêu cầu liên kết nội vùng trong du lịch tổng  
thể, dẫn tới việc xây dựng mô hình liên kết có  
thể không trùng với phân vùng du lịch quốc  
gia nên vênh với ngay chính quy hoạch vùng  
nếu có. Công việc này đòi hỏi phải được quan  
tâm và đầu tư, chú trọng.  
B.T.T  
(PGS.TS, Trưởng Khoa Gia đình và Công tác xã hội,  
Trường ĐHVHHN)  
Chọn điểm trung tâm để tạo sự ảnh hưởng  
phát triển cho các địa phương yếu thế hơn với  
vai trò đầu tàu (có thể lựa chọn Quảng Ninh),  
tránh sự phát triểndàn hàng ngang. Tìm cách  
phối hợp và liên kết sao cho khả thi, hiệu quả,  
từ đó tạo ra sức mạnh tổng thể cho cả vùng,  
tránh địa phương nào cũng muốn vượt lên  
trước, trở thành đầu tàu tăng trưởng. Vì để đạt  
được điều này trong bối cảnh kinh tế hiện nay,  
các địa phương nhiều khi phải cạnh tranh trực  
diện gay gắt với nhau và một khi có sự xung  
đột về lợi ích thì khó có thể hợp tác chân thành.  
Tài liệu tham khảo  
1. Bùi Thanh Thuỷ (2017), “Nhận diện mô  
hình liên kết phát triển du lịch giữa các địa  
phương vùng Tây Bắc, in trong Kỷ yếu Hội thảo  
khoa học Quốc gia Thực trạng và giải pháp liên  
kết vùng, tiểu vùng trong phát triển du lịch ở Tây  
Bắc, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.  
2. Tổng cục Du lịch (2013), Quy hoạch tổng  
thể phát triển du lịch Việt Nam đến 2020, tầm  
nhìn 2030, Hà Nội.  
Ngoài ra, hợp tác trong đào tạo phát triển  
nguồn nhân lực (lữ hành, xúc tiến du lịch, quản  
lý, quy hoạch…). Đầu tư nâng cao chất lượng  
nguồn nhân lực ngành. Chất lượng nguồn  
nhân lực là yếu tố quyết định chất lượng của  
Ngày nhận bài: 21 - 10 - 2019  
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 12 - 2019  
Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019  
NGHIÊN CỨU  
Số 30 (Tháng 12 - 2019)  
99  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 9 trang yennguyen 16/04/2022 1620
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp phát triển hệ thống sản phẩm hình thành tuyến du lịch Đông - Tây Yên Tử theo yêu cầu liên kết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_phat_trien_he_thong_san_pham_hinh_thanh_tuyen_du_l.pdf