Tâm thức văn hóa của các cộng đồng công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo
53
CHUYÊN MỤC
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG
CÔNG GIÁO Ở SÀI GÒN - TPHCM (1954 - NAY)
NHÌN TỪ TÊN XỨ ĐẠO
ĐINH THIỆN PHƯƠNG*
Công giáo xuất hiện tại Sài Gòn vào khoảng thế kỷ XVII. Sau đợt di cư năm 1954,
giáo dân Công giáo ở Đông Nam Bộ không còn sự đồng nhất về nguồn gốc tộc
người, thành phần chức nghiệp. Khu vực Sài Gòn-TPHCM, các cộng đồng giáo
dân tụ họp lại thành từng cụm riêng, nỗ lực duy trì luồng văn hóa của mình bằng
kiến trúc giáo đường, mỹ thuật tượng thờ, tang ma... nhất là việc đặt tên xứ đạo.
Thông qua kết quả thống kê các kiểu đặt tên xứ đạo ở TPHCM, bài viết tìm hiểu
và giải thích những yếu tố về tâm thức văn hóa của các cộng đồng qua nguồn
gốc quê hương, tập quán, nghề nghiệp… của lớp giáo dân thời kỳ đầu.
Từ khóa: văn hóa quyển, địa danh, nhân danh
Nhận bài ngày: 14/12/2020; đưa vào biên tập: 25/12/2020; phản biện: 20/1/2021;
duyệt đăng: 7/3/2021
của nhiều ngƣời Công giáo miền Bắc,
Sài Gòn khi đó trở thành nơi đông
giáo dân thứ nhì Việt Nam với gần
600.000 ngƣời(1). Từ 1955-1959, dƣới
thời giám mục Nguyễn Văn Bình, 88
xứ đạo của ngƣời Bắc di cƣ đƣợc
thành lập, đa số tập trung ở cửa ngõ
phía bắc, phía nam và phía tây Sài
Gòn (Hồ Văn Xuân, 2015: 5). Hiện
nay, khi quan sát bản đồ, có thể thấy
các xứ đạo tập trung thành 5 cụm
riêng biệt, trong đó 3 cụm lớn nằm ở
phía bắc, phía đông và trung - tây
1. DẪN NHẬP
Công giáo xuất hiện tại Sài Gòn vào
khoảng thế kỷ XVII, do các giáo sĩ
truyền giáo của nhóm Thừa sai nơi
đây và các đợt di dân của giáo dân từ
nơi khác đến. Ngoài tập trung sống ở
vùng Chợ Quán, phần đông tập trung
ở Thị Nghè, Thủ Thiêm, Thủ Đức
(ngày nay). Sau đợt di cƣ năm 1954
* Trƣờng Đại học Công nghiệp Thực phẩm
Thành phố Hồ Chí Minh.
ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC…
54
Bảng 1. Tên các xứ đạo ở 5 cụm xứ đạo Công giáo tại Sài Gòn-TPHCM
Cụm phía bắc: 100.000 giáo dân, 26 xứ đạo.
Cụm đông: 75.000 giáo
dân, 38 xứ đạo.
Gò Vấp, Giuse Gò Vấp, Mân Côi, Bến Cát, Bến Hải,
Đức Tin, Hạnh Thông Tây, Xóm Thuốc, An Nhơn, Bắc Phát Diệm, Thánh Gia,
Dũng, Chỉnh Trang, Hà Đông, Hà Nội, Hoàng Mai, Hợp Tân Định, Xóm Lách, Tắc
An, Lam Sơn, Lạng Sơn, Nữ Vƣơng Hòa Bình, Tân Rỗi, Bình Hòa, Bình Lợi,
Hƣng, Thái Bình, Thạch Đà, Trung Bắc, Tử Đình, Chợ Chính Lộ, Vô Nhiễm, Gia
Cầu, Tân Hƣng Chợ Cầu, Hy Vọng.
Định, Nguyễn Duy Khang,
Hàng Sanh, Hiển Linh GĐ,
Mông Triệu, Phú Hạnh,
Phú Hiền, Thánh Khang,
Thánh Tịnh, Thanh Đa, Thị
Nghè, Mactynho, Bình Triệu,
Công Thành, Mỹ Hòa,
Tam Hà, Thiên Thần, Tân
Lập, Thủ Thiêm , Châu
Bình, Thủ Đức, Hiển Linh
Thủ Đức, Từ Đức, Thánh
Tâm, Thánh Gẫm, Thánh
Cẩm, Cao Thái, Long
Thạnh Mỹ, Giuse xa lộ.
Cụm Trung Tây: 212.000 giáo dân, 55 xứ đạo.
Bùi Môn, Bạch Đằng, Đông Quang, Lạc Quang, Tân Mỹ,
Trung Chánh, Trung Mỹ Tây, Ba Thôn, Bình Thuận, Gò
Mây, Nhân Hòa, Bình Thới, Phú Hòa, Phú Thọ Hòa, Tân
Phú Hòa, Phú Trung, Tân Phƣớc, Tân Châu, Tân
Hƣơng, Tân Phú, Tân Thái Sơn, Tân Thành, Tân Việt,
Thiên Ân, Văn Côi, Tân Trang, An Lạc, Antôn, Chí Hòa,
Khiết Tâm, Lộc Hƣng, Mẫu Tâm, Nam Hòa, Nam Thái,
Nghĩa Hòa, Sao Mai, Tân Dân, Tân Chí Linh, Tân Sa
Châu, Thái Hòa, Vinh Sơn 3, Vinh Sơn 6, Xây Dựng,
Tống Viết Bƣờng, Tân Hòa, Ba Chuông, An Phú, Bùi
Phát, Kỳ Đồng, Vƣờn Xoài, Bắc Hà, Đồng Tiến, Giuse
10, Vinh Sơn 10, Hòa Hưng.
Cụm Tây Nam: 19.000 giáo Cụm Nam: 71.000 giáo dân, 24 xứ đạo.
dân, 11 xứ đạo.
Bình An, Bình An Thƣợng, Bình Đông (phần hữu ngạn
Giuse An Bình, Chợ Quán, Mễ Cốc), Bình Hƣng, Bình Minh, Bình Sơn, Bình Thái,
Jean deArc, Mai Khôi, Cha Bình Thuận, Bình Xuyên, Chánh Hƣng, Hƣng Phú,
Tam, Thăng Long, Vĩnh Hòa, Mông Triệu, Nam Hải, Bình Chánh, Ninh Phát, An Phú
Bình Phƣớc, Hiển Linh 6, 4, Khánh Hội, Mẫu Tâm, Thuận Phát, Vĩnh Hội, Môi
Phaolo 10, Phú Bình.
Khôi, Xóm Chiếu, An-tôn COL, Cầu Kho.
Ghi chú: Tên in nghiêng là các họ đạo Nam Bộ lập từ trƣớc năm 1954.
Nguồn: Tác giả tổng hợp danh sách xứ đạo từ Niên giám Tổng Giáo phận TPHCM 2005.
(chiếm trọn phần trung tâm thành phố cộng đồng Công giáo qua tên gọi các
kéo sang phía tây), 2 cụm nhỏ hơn giáo xứ thuộc năm cụm xứ đạo này.
nằm ở phía nam và tây nam (Bảng 1).
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Năm 2017, 5 cụm này có 477.000
giáo dân (chiếm 79,5% số giáo dân
toàn thành phố), 154 xứ đạo (thành
phố có 204 xứ đạo). Bài viết chủ yếu
tìm hiểu tâm thức văn hóa của các
Trên cơ sở sƣu tầm, tổng hợp địa
danh xứ đạo tại TPHCM, trong
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
phƣơng pháp thống kê miêu tả, so
sánh đối chiếu những địa danh xứ
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021
55
đạo trƣớc đây và hiện nay, để tìm
hiểu nguồn gốc hình thành cũng nhƣ
theo đề nghị về tên gọi của linh mục
quản xứ và giáo dân trình lên. Chỉ
tâm thức văn hóa của từng cộng giáo xứ mới có định danh, điều này
đồng giáo dân ở TPHCM. Đặt tên cho phân biệt với các nhà nguyện, tu hội,
một khu vực, một địa điểm, một nơi giáo điểm truyền giáo(2)... Định danh
nào đó ngoài việc hƣớng đến định vị của xứ đạo gồm 2 bộ phận: “danh
không gian khu biệt thì việc chọn lựa xƣng giáo xứ” và “tƣớc hiệu nhà thờ”.
tên để đặt còn chịu chi phối bởi môi Chẳng hạn, giáo xứ Nghĩa Hòa là
trƣờng sống, ký ức văn hóa và hàng
“danh xƣng” còn tƣớc hiệu nhà thờ là
loạt các yếu tố tâm lý phức tạp khác. Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội; đôi
Lê Trung Hoa (2013: 15,16) nhận khi “danh xƣng” trùng “tƣớc hiệu”:
định: “Mỗi thời đại có một tâm lý đặt giáo xứ Vinh Sơn là “danh xƣng” xứ
tên riêng (...) Mỗi địa phƣơng cũng có đạo đồng thời là “tƣớc hiệu nhà thờ”.
tâm lý đặt tên riêng”. Điều này cho
Tên gọi các xứ đạo Công giáo ở Sài
thấy, việc đặt tên bị chi phối bởi thời
Gòn-TPHCM cũng nhƣ ở các địa
đại và không gian sống, nói cách
phƣơng khác, đặt theo địa danh và
khác, gắn bó mật thiết với đời sống
tên thánh nhƣ: Phanxicô, An Tôn,...
cộng đồng.
và địa danh: Hàng Sanh, Gò Mây, Thị
Việc đặt tên một khu vực địa lý nơi có
cộng đồng ngƣời chung sống,
thƣờng phản ánh tâm thức tập thể,
quan niệm về ứng xử giao tiếp, quan
điểm thẩm mỹ, phong tục và niềm tin
của cộng đồng nơi ấy. Vì vậy, thông
qua cách đặt tên các xứ đạo ở Sài
Gòn-TPHCM có thể hiểu đƣợc nguồn
gốc của thành phần giáo dân, tâm
thức, tập quán từng khu vực Công giáo.
Nghè... Tuy nhiên, trong phần tên đặt
theo địa danh thì tên các xứ đạo ở
Sài Gòn-TPHCM, qua thống kê tỷ lệ
độ tản, chỉ số ƣu thế đã cho thấy tên
gọi các giáo xứ ở Sài Gòn-TPHCM
vƣợt qua tính rời rạc, hình thành
những quy tắc về cách đặt tên(3).
Nhìn tổng thể, quy tắc về việc đặt tên
giáo xứ cho thấy hai luồng văn hóa
Công giáo chính ở Sài Gòn-TPHCM:
Công giáo Nam Bộ trƣớc năm 1954
với 48 giáo xứ đặt theo địa danh Sài
Gòn xƣa, ghi chép trong Nam Kỳ địa
hạt tổng thôn danh hiệu mục lục năm
1892; và Công giáo Bắc di cƣ với 46
giáo xứ đặt theo các địa danh Bắc Bộ.
Ngoài ra còn có 11 xứ đạo ngƣời Hoa
mang nét văn hóa riêng. Từ hai cách
này đã phái sinh ra những kiểu đặt
tên đặc trƣng. Tên gọi các xứ đạo
gốc Nam Bộ cộng thêm các phái sinh
3. KHÁI QUÁT VỀ CÁCH ĐẶT TÊN
CÁC XỨ ĐẠO TẠI SÀI GÒN-TPHCM
Bộ Giáo luật 1983, điều 1215 - 1220
ấn định việc xây cất nhà thờ và danh
xƣng xứ đạo hình thành bằng quyết
định của giám mục địa phƣơng. Cụ
thể điều 1218 “Mỗi nhà thờ phải
mang một tƣớc hiệu riêng, và một khi
đã cung hiến thì không thể thay đổi
tƣớc hiệu nữa” (Bộ Giáo luật, 1983:
1218). Các giám mục thƣờng thể
ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC…
56
mở rộng từ 48 lên 73 xứ, tên gọi các tổng Bình Trị Thƣợng, Bình Lợi ghép
xứ gốc Công giáo Bắc di cƣ cộng “Bình” vào “An Lợi xã” cả hai nay
thuộc quận Bình Thạnh; Bình Khánh
ghép “Bình” vào “An Khánh thôn” nay
thuộc huyện Cần Giờ (giáo điểm)...).
thêm các phái sinh mở rộng từ 46 lên
83 xứ. Tổng cộng có 156/204 xứ đạo
đƣợc đặt theo địa danh, 48/204 xứ
đạo đặt theo tên thánh.
Công giáo gốc Bắc Bộ di cƣ với 5
kiểu: đặt tên hoàn toàn theo địa danh
Bắc Bộ (Hà Nội, Hà Đông, Phát Diệm,
Thái Bình, Lạng Sơn...); đặt tên ghép
hai địa danh Bắc Bộ (“Bùi Chu” và
“Phát Diệm” tạo ra Bùi Phát, “Bách
Lộc” và “Hƣng Hóa” thành Lộc Hƣng,
“Bắc Ninh” và “Hà Nội” thành Bắc
Hà...); đặt tên ghép địa danh Bắc Bộ
và địa bàn tại Sài Gòn (Bùi Môn, Từ
Đức, Phú Hòa...); đặt ghép chữ “Tân”
trƣớc một phần hay toàn bộ địa danh
Bắc Bộ (Tân Chí Linh, Tân Việt, Tân
Bảng 2 cho thấy, có 8 kiểu đặt tên xứ
đạo theo địa danh ở Sài Gòn-TPHCM
tiêu biểu cho 3 luồng văn hóa.
Công giáo gốc Nam Bộ với 3 kiểu đặt
tên theo địa danh Sài Gòn xƣa (Thị
Nghè, Thủ Đức, Thủ Thiêm...); đặt
tên theo đặc điểm môi trƣờng sống
(Vƣờn Chuối (cũ), Chợ Đũi (quen gọi
là Huyện Sĩ), Chợ Quán, Gò Vấp,
Cầu Ngang...) và ghép chữ “Bình”
trƣớc địa danh Nam Bộ (nhƣ Bình
Hòa ghép “Bình” vào “Hòa Trị thôn” -
Bảng 2. Thống kê tên 204 xứ đạo Sài Gòn-TPHCM theo phân loại (từ 1954 đến nay)
Kiểu tên xứ đạo
Tên
ghép
Bắc địa
Ghép
chữ
“Tân”
Ghép Tên địa
Chữ “Bình”
trƣớc tên
địa
phƣơng
trƣớc 1954
chữ
danh
Đặc
Thánh
hoặc kinh
thánh
“Hòa”
địa
trƣng môi
trƣờng,
cảnh vật
Bộ danh trƣớc địa sau địa phƣơng
Cụm
Bắc danh Bắc danh Bắc trƣớc
Bộ
Bộ
Bộ
1954
Bắc
8
1
0
1
0
3
7
2
0
3
0
0
9
1
0
1
3
3
1
2
2
3
3
8
Trung - tây
Nam
19
12
0
4
8
3
5
0
7
4
Đông
0
1
14
3
14
4
Tây nam
Còn lại
2
0
0
10
3
2
13
15
Tổng
(toàn Giáo phận)
13
46
17
7
48
11
14
47
Tổng (theo gốc Liên quan đến địa danh Bắc Bộ:Liên quan đến địa danh NamTên thánh:
tên)
83
Bộ: 73
48
Tổng theo danh
học
Tên thánh:
48
Địa danh: 156
Nguồn: Tác giả tổng hợp danh sách tên gọi giáo xứ từ trang web Tổng Giáo phận
TPHCM, truy cập 3/2017 và bản đồ Hành chính TPHCM năm 2017.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021
57
Sa Châu...); ghép một phần tên Bắc phía bắc – khu Xóm Mới ngày nay, có
Bộ trƣớc chữ “Hòa” (lấy chữ đầu tên tính đồng nhất nguyên quán cao
(giáo xứ: Hà Nội, Thái Bình, Lạng
Sơn, Hà Đông), toàn bộ giáo dân đều
là ngƣời sống trong các tỉnh thành
này trƣớc di cƣ.
địa phƣơng miền Bắc: Thái Bình,
Nam Lạng, Nghĩa Chính... ghép trƣớc
chữ “Hòa” thành Thái Hòa, Nam Hòa,
Nghĩa Hòa)(4).
Đa số giáo dân thời kỳ khai sinh cụm
phía bắc là nông dân từ nông thôn
miền Bắc với ƣớc vọng mau chóng
kết thúc sự chia cắt đất nƣớc để trở
về quê hƣơng. Vì vậy, tâm thức kết
cấu làng xã bền chặt, không nỡ xa
quê cha đất tổ, nhất là gắn với nghĩa
vụ bảo vệ tôn ti gia đình, dòng họ.
Theo Nguyễn Đức Lộc (2013: 100)
“Cộng đồng ngƣời Công giáo Bắc di
cƣ ở vùng nông thôn chịu ảnh hƣởng
sâu sắc bởi quan niệm Nho giáo
phƣơng Đông, với việc đề cao tính
danh dự và thứ bậc”. Cụ Nguyễn Văn
Quang, 81 tuổi, sống ở chợ Xóm Mới
cho biết: “Hồi ấy đặt tên xứ cứ gọi
theo trại tạm cƣ, Lạng Sơn, Thái Bình,
ai ngoài kia ở trại nào thì tụ về trại đó.
Nghĩ ở vài tháng rồi lại về Bắc nhƣ
hồi đánh nhau năm 46”. Những đặc
điểm văn hóa thuần nông nghiệp làng
xã thời kỳ đầu di cƣ vẫn còn tồn tại
đến ngày nay nhƣ địa danh Xóm
Thuốc, Trại rau Cha Tống, Trại chim
cút Hoàng Mai..., hoặc khẩu hiệu
(slogan) Bánh mì Những Chàng Trai -
“Bánh mì khu nhà bạn”, Giò chả Hợp
An - “Hƣơng vị quê nhà”...
Giáo xứ Công giáo gốc Hoa chủ yếu
dùng tên thánh để đặt cho giáo xứ:
Phanxico Xavie, Giuse An Bình, Đức
Bà Hòa Bình, Jeanne d‟Arc...
Tóm lại, trong thời kỳ đầu, ngoại trừ
các xứ đạo gốc Hoa, tên các xứ đạo
ngƣời Việt gần nhƣ hoàn toàn là địa
danh với 8 kiểu đặt tên. Cách đặt tên
địa danh nhiều hơn tên thánh cho
thấy đời sống xã hội của cộng đồng
giáo dân những nơi này gắn bó mật
thiết với quê hƣơng, tính cố kết cộng
đồng, tinh thần khu vực có phần ƣu
tiên hơn.
4. TÂM THỨC VĂN HÓA QUA TÊN
GỌI CÁC XỨ ĐẠO TẠI SÀI GÒN-
TPHCM
Cụm phía bắc – khu vực hầu hết là
giáo dân Bắc di cư: các tên gọi có
yếu tố liên quan địa danh Bắc Bộ
chiếm tới 17/26 xứ đạo (65,5%), đặc
biệt, có 8 xứ (31%) lấy lại hoàn toàn
địa danh Bắc Bộ (Hà Nội, Hà Đông,
Lạng Sơn, Thái Bình, Lam Sơn, Hòa
Bình, Bến Hải và Hoàng Mai); trong
khi cả thành phố chỉ có 13 xứ tên nhƣ
vậy. Điều này có thể lý giải theo hai
phƣơng diện: xuất xứ (nguyên quán)
và đặc điểm chức nghiệp của lớp
giáo dân thời kỳ đầu.
Cụm trung - tây – khu vực hầu hết là
giáo dân Bắc di cư: các yếu tố liên
quan tên Bắc Bộ chiếm tỷ lệ cao
(65,5%), trong đó cao nhất là tên
ghép hai, ba địa danh Bắc Bộ với
Khi tụ họp để thành lập các xứ đạo
những năm 1954-1957, giáo dân cụm
ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC…
58
19/55 xứ (34,5%), đáng chú ý là tên danh Sài Gòn: Bùi Môn - giáo xứ của
có chữ “Tân” ghép trƣớc địa danh
Bắc Bộ (21,8%).
ngƣời Bùi Chu ở Hóc Môn, Thái Hòa -
giáo xứ của ngƣời Thái Bình ở Chí
Hòa, Nghĩa Hòa - giáo xứ của ngƣời
Nghĩa Chính ở Chí Hòa...
Cụm này đa số là giáo dân từ 2 hoặc
3 tỉnh miền Bắc di cƣ vào, từ đó mà
có kiểu đặt tên ghép 2 hoặc 3 địa
danh, nhƣ: giáo xứ Bắc Hà (từ Bắc
Ninh và Hà Nội), Bùi Phát (từ Bùi Chu
và Phát Diệm)... Bên cạnh đó, có
12/55 giáo xứ trong cụm bắt đầu bằng
chữ “Tân” (chiếm tới 22,5%), Sài Gòn-
TPHCM phố có 17 xứ đạo thì cụm này
chiếm 12 xứ (70,5%). Điều này có liên
hệ mật thiết tới nguồn gốc nghề
nghiệp giáo dân thời tiền di cƣ. “Họ sợ
bị đƣa đến một vùng xa xôi hẻo lánh.
(...) nên đƣa họ đến Gia Định hoặc
khu vực gần đô thị, bình thƣờng dành
cho những ngƣời buôn bán và ngành
công nghiệp nhẹ” (dẫn theo Hansen,
2013: 30). Nhƣ vậy, cụm trung - tây
đa số giáo dân sống ở thành thị, làm
tiểu thƣơng, làm công nhân các công
xƣởng, bến cảng Hà Nội, Hải Phòng...
Dù đặt tên kiểu nào thì giáo dân cụm
trung - tây cũng với tâm thức từ biệt
quê cũ, hàm ngôn tuyên ý: giáo dân
xứ cũ đã lập xứ mới trong Nam; định
cƣ lâu dài, khác hẳn với giáo dân
cụm phía bắc chỉ trông mong sớm hồi
hƣơng, về lại làng xã. Nguồn gốc
xuất xứ giáo dân khu vực này trong
điều kiện sống mới, văn hóa làng xã
Bắc Bộ nhanh chóng bị phá vỡ, tiếp
thu lối sống Mỹ, trở thành trung tâm
thƣơng mại, phố thị náo nhiệt. Thực
tế đời sống giáo dân 60 năm sau đó
cũng sáng tỏ điều này; khi mà doanh
nhân, tiểu thƣơng, công nhân luôn
thích sống ở mặt đƣờng lớn vì thuận
tiện cho việc mở cửa hàng buôn bán,
đi lại làm ăn.
Cụm phía nam: có 24 xứ đạo, trong
Lúc mới di cƣ, dù vẫn mang tâm thức đó 19 xứ hình thành từ đợt di cƣ năm
1954, nhƣng khác với cụm phía bắc
và trung - tây, tên của cụm này gắn
với địa danh Sài Gòn trƣớc năm 1954;
16 giáo xứ đặt tên lấy chữ “Bình”
ghép trƣớc tên địa danh đang cƣ trú.
lƣu luyến quê cũ nhƣng giáo dân
cụm này dễ thích nghi và chấp nhận
nơi định cƣ mới; vì vậy, một loạt tên
gọi vừa gắn với quê cũ nhƣng cũng
đồng thời ghép thêm yếu tố của vùng
đất mới đã xuất hiện ngay tại 8 trại di
cƣ theo hai kiểu: thứ nhất, đặt chữ
“Tân” (tiếng Hán là “mới”) lên phía
trƣớc, tiền thân 12 xứ “Tân” sau này:
Tân Chí Linh, Tân Sa Châu, Tân Thới
Sơn, Tân Châu, Tân Việt, Tân Hòa,
“Trại Bình An”, theo tƣ liệu của giáo
xứ Bình An thì tên này là từ tên thôn
“Bình Đông” (phía đông) và “An Phú”
(phía tây) vốn chép tại Gia Định
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
Tiếp đó là một loạt giáo xứ bắt đầu từ
Tân Phú Hòa, Tân Thành, Tân Trang, chữ “Bình”: Bình Thái, Bình Sơn,
Bình Hƣng, Bình Đông, Bình Xuyên...
những tên này có tên dùng lại tên
Tân Dân, Tân Phƣớc và Tân Mỹ. Thứ
hai, ghép nửa địa danh Bắc vào địa
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021
59
thôn cũ: Bình Xuyên, Bình Đông,
Nội) và Châu Bình (đọc chệch từ Bùi
Bình Minh, Bình Chánh. Có tên lại Chu và Thái Bình)... còn các xứ khác
ghép chữ “Bình” vào trƣớc một phần vẫn đặt theo tên thôn có sẵn: Thanh
tên làng Nam Bộ cũ nhƣ Bình Hƣng Đa, Hàng Sanh...
từ tên làng gốm Hƣng Lợi; Bình Minh
Cụm phía đông có 14 giáo xứ (nhiều
từ khu chăn nuôi Tân Minh, Bình
nhất) đặt theo tên thánh. Nhiều giáo
Thuận từ làng Phú Thuận. Ngoài ra,
xứ có cùng “danh xƣng” và “tƣớc
nhiều tên địa phƣơng Nam Bộ khác
hiệu nhà thờ”; nhiều xứ đạo lại cùng
đƣợc đặt lại: Chánh Hƣng, Hƣng Phú,
đặt tên một vị thánh. Điều này không
Nam Hƣng, An Phú... Qua mỗi tên xứ
chỉ gây khó khăn mà cả sự hiểu lầm
đạo ở cụm này có thể nhanh chóng
trong thông tin liên lạc. Để phân biệt,
xác định địa giới, trong khi đó, những
ngƣời ta không ngại thêm các cụm từ
cụm khác thì có thể biết đƣợc làng
mang tính chỉ dẫn sau tên thánh.
gốc Bắc nhƣng không thể định vị
Chẳng hạn, Giuse “xa lộ” và Giuse
đƣợc ranh giới.
“hẻm cụt”; Hiển Linh “cầu sập” và
Các xứ đạo cụm phía nam giáo dân
lịch thiệp, yêu thích ca hát, nhiếp ảnh,
Giáng sinh tổ chức tƣng bừng, thu
hút ngƣời dân khắp thành phố (Hồ
Văn Xuân, 2015).
Hiển Linh “chuồng bò”; Thánh Khang
“chợ cua” và Thánh Khang “xóm
bột”... Đôi khi, không bị trùng tên vẫn
thêm đặc điểm đi kèm nhƣ: Thiên
Thần “cầu vƣợt”, Thánh Gẫm “vƣờn
cò”...
Cụm phía đông: có 38 giáo xứ, đa số
là các xứ lớn thành lập từ trƣớc năm
1954 (Thị Nghè, Bình Hòa, Thủ Đức,
Thủ Thiêm...), tên giáo xứ là địa
danh nhiều hơn tên thánh (20/28
giáo xứ tên địa danh, hiện nay là
24/38 giáo xứ tên địa danh). Đặc biệt,
các xứ đạo trƣớc năm 1954 vẫn
dùng từ “họ đạo” trên con dấu: họ
đạo Thị Nghè, họ đạo Gia Định, họ
đạo Bình Hòa...
Cƣ dân Nam Bộ vốn “năng động” và
“trọng nghĩa” (Trần Ngọc Thêm, 2008:
7). Từ thời nhà Nguyễn, do hoàn
cảnh xã hội giáo dân cũng phải di
chuyển nhà thờ làm bằng ván, lá, vật
liệu nhẹ đi theo. Làng Công giáo
Nam Bộ linh động gắn với môi
trƣờng sông nƣớc, ít cố định nhƣ
làng Công giáo Bắc Bộ. Vì vậy, cùng
một tên gọi nhƣng ban đầu tụ họp
nơi đây, ít lâu sau đã ở nơi khác.
Vào thế kỷ XVIII, nhiều họ đạo nằm
vị trí khác xa hiện tại nhƣ Xóm
Chiếu, Khánh Hội cũ nằm lệch hơn
2km... Trọng nghĩa nên dù không
quen không biết vẫn tƣơng trợ, hiệp
lực chinh phục thiên nhiên, một
trong số đó là thói quen báo tin cho
Cộng đồng Công giáo ngƣời Bắc di
cƣ ở khu vực này chiếm số ít, khi đến
định cƣ trong cụm cũng chịu ảnh
hƣởng cách đặt tên Nam Bộ, nên chỉ
5 giáo xứ đặt bằng tên ghép từ các
địa danh Bắc Bộ: Từ Đức (Từ Sơn ở
Thủ Đức), Cao Thái (Cao Mộc tỉnh
Thái Bình), Tam Hà (Tam Bình và Hà
ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC…
60
nhau những địa điểm nguy hiểm
hoặc đặt thành địa danh để cảnh báo: Nhiều bức hoành phi ghi tên đạo khu
Phƣơng Tế Danh Thiên Chủ đƣờng(5).
rạch Sấu, rạch Ong Lớn, xoáy Nhà
Bè... thói quen này đã lƣu dấu thành
một vô thức tập thể qua việc gán
định danh tại các họ đạo cụm phía
đông.
đầu tiên còn đƣợc bảo quản, lƣu giữ
rất trang trọng nhƣ ở Nhà thờ Cha
Tam, Đức Bà Hòa Bình. Những xứ
gồm cộng đồng vừa ngƣời Việt vừa
ngƣời Hoa ra đời sau, dù tên thánh
bằng chữ Quốc ngữ nhƣng vẫn có
định danh riêng bằng Hán tự treo nơi
tiền sảnh: Thăng Long Thánh Gia
đƣờng, Hiển Linh Thiên Chủ đƣờng,
Nhã Sắt Bình Phƣớc đƣờng, Bảo La
Thiên Chủ đƣờng, Vĩnh Hòa Thánh
Mẫu điện.
Cụm tây nam: gồm 11 xứ đạo, trong
đó có 4 xứ do ngƣời Hoa tự lập. Từ
năm 1855 (khởi nghĩa Thái Bình
Thiên Quốc) đến năm 1900 (kết thúc
thế kỷ XIX), ngƣời Hoa đã lập 4 đạo:
đạo Tổng Binh - nhà thờ Tổng Lãnh
Thiên thần Micae, đạo Đƣờng Nhân
(“Thoòng Dzành” bị gọi thành “Thanh
Nhân”, còn đƣợc gọi là đạo khu Chợ
Lớn) - nhà thờ Thánh Phaolô; đạo
Diên Lang - Nữ thánh Jeanne d‟Arc
(tiền thân từ đạo khu An Nam); đạo
Y Nhã (còn gọi là đạo Thái Bình) -
thánh Ignatius. Sau năm 1900, Tổng
Binh giải thể và sau tái lập thành
Giuse An Bình, Đƣờng Nhân (Thanh
Nhân) thành Cha Tam và Đức Bà
Hòa Bình, Y Nhã tan rã và hình
thành các nhóm ngƣời Hoa nhỏ
trong 5 giáo xứ Bắc di cƣ: Tân
Phƣớc, Thăng Long, Phú Bình, Vĩnh
Hòa và Phaolô Quận 10. Tên gọi 4
đạo khu này đều ít nhiều gắn với
những sự kiện ở Trung Hoa, còn
tƣớc hiệu nhà thờ đều là các vị
thánh.
5. KẾT LUẬN
Ở Sài Gòn-TPHCM, tên xứ đạo đƣợc
đặt theo địa danh nhiều gấp 3 lần so
với đặt theo tên thánh, trong số 1/3
theo tên thánh thì lại gần một nửa là
những xứ đạo lập sau năm 1975. Kết
quả thống kê cho thấy, ở mỗi cụm tên
xứ đạo có một vài kiểu đặt tên đồng
nhất trong cụm, khác biệt hoàn toàn
so với cụm khác. Tổng kết lại, có 9
kiểu đặt tên các xứ đạo tại Sài Gòn-
TPHCM, ngoài cách đặt tên theo tên
thánh, chủ yếu ở các giáo xứ Công
giáo gốc ngƣời Hoa, thì đặt tên theo
địa danh gồm 8 kiểu. Trong đó, tên
của nhóm giáo xứ gốc Nam Bộ có 3
kiểu, tên của nhóm giáo xứ gốc Bắc
di cƣ có 5 kiểu.
Việc chỉ ra những đặc điểm trong cách
Kiểu gọi tên “cha Tam”, “An Bình” là đặc tên của các xứ đạo ở Sài Gòn-
của ngƣời Việt; cộng đồng ngƣời Hoa TPHCM giúp xác định một số thông tin
vẫn duy trì tên chính thức riêng: cơ bản về các giáo xứ: vị trí giáo xứ,
Thánh Nhã Sắt An Bình đƣờng, Mã đặc điểm địa lý môi trƣờng tự nhiên,
Lợi Hòa Bình Thánh Mẫu điện, Trinh xuất xứ giáo dân, thành phần chức
Đức Nữ Thánh Thiên Chủ điện, nghiệp giáo dân và luồng văn hóa chi
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021
61
phối chính. Ngoài ra, thông qua việc lịch sử góp phần làm phong phú thêm
nghiên cứu tên gọi các xứ đạo kết bản sắc văn hóa của các cộng đồng
hợp với các địa danh ở Sài Gòn- Công giáo ở TPHCM.
TPHCM sẽ phác họa những lát cắt
CHÚ THÍCH
(1) Khi đó, giáo phận Sài Gòn gồm: TPHCM, Đồng Nai, Phan Thiết, Bà Rịa - Vũng Tàu ngày
nay.
(2) Giáo xứ mới có nhà thờ (church), phân biệt với nhà nguyện (chapel). Nhà thờ đƣợc cung
hiến bởi giám mục, bàn thờ đƣợc xức dầu ô-liu, bên dƣới chôn xƣơng thánh, nhà thờ có
nhà tạm đặt Mình máu Chúa, còn nhà nguyện thì chỉ một số ít đƣợc đặc cách.
(3) Xuân Lộc có 202/248 giáo xứ thành lập sau cuộc di cƣ 1954, nhƣ vậy, tỷ lệ giáo dân
Bắc di cƣ ƣu thế, nhƣng trong đó chỉ có 13 giáo xứ lấy tên nguyên thủy địa danh miền
Bắc: Hải Dƣơng, Thanh Hóa, Hà Nội, Trà Cổ,... và 15 giáo xứ ghép chữ từ tên địa danh
Bắc: Bắc Thành, Bùi Đệ, Tiên Chu,... Định vị điểm trên bản đồ thì độ chụm thấp, độ tản
rất cao.
(4) Ý nghĩa tên gọi giáo xứ viết thành văn bản có chữ ký của linh mục chánh xứ tiên khởi
trình Tòa Giám mục, kèm theo quyết định thành lập giáo xứ, tên gọi và ban hành tƣớc hiệu
nhà thờ có ấn ký của giám mục. Ngày nay, ý nghĩa tên gọi và lƣợc sử giáo xứ luôn đƣợc
công khai trên các trang web của các xứ.
(5) Nếu tên xứ đạo (đạo khu) là nam giới thì dùng “đƣờng” (堂), nữ giới dùng “điện” (殿).
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Bộ Giáo luật. 1983. Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Tôn giáo.
2. Hồ Văn Xuân. 2015. “„Nhớ về một ngƣời Cha‟ – Nhân lễ giỗ lần thứ 20 của Đức cố
gon.net/bai-viet/nho-ve-mot-nguoi-cha-nhan-le-gio-lan-thu-20-cua-duc-co-tong-giam-mu
c-phaolo-nguyen-van-binh-28847, truy cập ngày 13/3/2020.
3. Hansen, Peter. 2009. “Bac di cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and
their Role in the Southern Republic, 1954-1959”. Journal of Vietnamese Studies, 3 (vol.4)
4. Lê Trung Hoa. 2013. Nhân danh học Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
5. Nguyễn Đức Lộc. 2015. Cấu hình xã hội cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ.
TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM.
6. Sơn Nam. 2009. Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân.
TPHCM: Nxb. Trẻ.
7. Tòa Tổng Giám mục TP.HCM. 2005. Niên giám Tổng Giáo phận TPHCM. Hà Nội:
Nxb. Tôn giáo.
ĐINH THIỆN PHƢƠNG – TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA CÁC…
62
8. Trần Ngọc Thêm. 2008. “Tính cách ngƣời Việt ở Nam Bộ nhƣ một hệ thống”. Hội
9. Trƣơng Văn Chung, Đinh Thiện Phƣơng. 2012. “Mối quan hệ giữa văn hóa và Công
giáo (Trƣờng hợp văn hóa Công giáo ở TPHCM)”. Tạp chí Phát triển Nhân lực, số 5
(31).
Bạn đang xem tài liệu "Tâm thức văn hóa của các cộng đồng công giáo ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1954 - nay) nhìn từ tên xứ đạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tam_thuc_van_hoa_cua_cac_cong_dong_cong_giao_o_sai_gon_thanh.pdf