Oxy liệu pháp cho trẻ bệnh nặng: Bằng chứng và khuyến cáo

Bệnh viện Trung ương Huế  
Tổng quan  
OXY LIỆU PHÁP CHO TRẺ BỆNH NẶNG:  
BẰNG CHỨNG VÀ KHUYẾN CÁO  
Trần Kiêm Hảo1*, Võ Văn Nguyên Lợi1, Nguyễn Hữu Sơn1  
DOI: 10.38103/jcmhch.2021.68.1  
TÓM TẮT  
Hạ oxy máu là một biến chứng phổ biến và quan trọng của những trẻ bệnh nặng, điều này làm tăng nguy  
cơ tử vong của những trẻ này. Hạ oxy máu xuất hiện trong rất nhiều bệnh cảnh, trong các bệnh lý hô hấp  
cũng như bệnh ngoài hô hấp. Những bệnh hô hấp cấp tính đặc biệt là viêm phổi nặng, viêm tiểu phế quản  
cấp hay cơn hen phế quản cấp đều lên quan với hạ oxy máu. Những bệnh cảnh khác có thể gây ra hạ oxy  
máu bao gồm: sốt rét, nhiễm trùng huyết nặng, co giật, hôn mê hoặc thiếu máu nặng. Trong các bệnh lý  
thần kinh trung ương cấp tính vd: viêm màng não, viêm não, trạng thái động kinh hay chấn thương, hạ oxy  
máu đều có thể xảy ra do ức chế hô hấp, ngưng thở, viêm phổi hít. Mỗi bệnh lý trên đều có thẻ liên quan  
đến các dấu hiệu cấp cứu, do đó hạ oxy máu nên được xem xét khi đánh giá và điều trị những trẻ với các  
triệu chứng trên.  
Chúng tôi cập nhật những khuyến cáo mới về liệu pháp oxy cho trẻ bệnh nặng dựa trên y học bằng chứng.  
Từ khoá: Oxy, dấu hiệu cấp cứu, trẻ em  
ABSTRACT  
OXYGEN THERAPY FOR CRITICAL ILL CHILDREN:  
EVIDENCE AND RECOMMENDATIONS  
Tran Kiem Hao1*, Vo Van Nguyen Loi1, Nguyen Huu Son1  
Hypoxaemia is a common, important complication of critical illness in childhood that may increase  
their risk for mortality. It is observed in a variety of diseases - both respiratory and non-respiratory. Acute  
respiratory conditions, particularly severe pneumonia, bronchiolitis and asthma, are associated with  
hypoxaemia. Non-respiratory causes of hypoxaemia include malaria, severe sepsis, seizures, coma and  
severe anaemia. In acute CNS disorders, such as meningitis, encephalitis, status epilepticus and trauma,  
hypoxaemia may occur because of reduced respiratory drive, apnoea or lung conditions such as pulmonary  
aspiration or co-existent pneumonia. As each of these conditions may be associated with emergency signs,  
hypoxaemia should be considered when assessing and managing children with these signs.  
We present the evidence for recommendations on the oxygen use and delivery for critical ill children.  
Keywords: Oxygen, emergency signs, children  
1Trung tâm Nhi - Bệnh viện  
Trung ương Huế  
- Ngày nhận bài (Received): 25/02/2021; Ngày phản biện (Revised): 05/4/2021;  
- Ngày đăng bài (Accepted): 27/4/2021  
- Người phản hồi (Corresponding author): Trần Kiêm Hảo  
- Email: haotrankiem@yahoo.com; SĐT: 0914002329  
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
3
Oxy liệu pháp cho trẻ bệnh nặng: BBnngh cvhinngTrvuànkghưuơynếgnHcáuoế  
cáo sử dụng oxy liệu pháp khi SpO2 <90% để duy  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
trì mức bão hòa oxy máu là ≥ 90%. Tuy nhiên, một  
vài nghiên cứu cho rằng, ngoại trừ trẻ sơ sinh, mức  
oxy đích này nên đạt được ở tất cả các trẻ bệnh đang  
có tình trạng đe dọa tính mạng và đây cũng là mức  
an toàn để ngưng liệu pháp oxy. Những dấu hiệu  
lâm sàng của hạ oxy máu là không nhạy [4], và một  
phân tích dữ liệu gần đây đã chỉ ra rằng không có  
dấu hiệu nào là hiệu quả trong việc tiên đoán hạ  
oxy máu trong trẻ có nhiễm trùng đường hô hấp cấp  
tính [5]. Khuyến cáo của Hướng dẫn hồi sức quốc  
tế hiện nay phụ thuộc vào bằng chứng mạnh hơn và  
sự cho phép của các chuyên gia trong cách tiếp cận  
an toàn với liệu pháp oxy.  
Hạ oxy máu là một biến chứng phổ biến và quan  
trọng của những trẻ bệnh nặng, điều này làm tăng  
nguy cơ tử vong của những trẻ này. Hạ oxy máu  
xuất hiện trong rất nhiều bệnh cảnh, trong các bệnh  
lý hô hấp cũng như bệnh ngoài hô hấp [1]. Những  
bệnh hô hấp cấp tính đặc biệt là viêm phổi nặng,  
viêm tiểu phế quản cấp hay cơn hen phế quản cấp  
đều lên quan với hạ oxy máu. Những bệnh cảnh  
khác có thể gây ra hạ oxy máu bao gồm: sốt rét,  
nhiễm trùng huyết nặng, co giật, hôn mê hoặc thiếu  
máu nặng [2]. Trong các bệnh lý thần kinh trung  
ương cấp tính ví dụ: viêm màng não, viêm não,  
trạng thái động kinh hay chấn thương, hạ oxy máu  
đều có thể xảy ra do ức chế hô hấp, ngưng thở, viêm  
phổi hít. Mỗi bệnh lý trên đều có thẻ liên quan đến  
các dấu hiệu cấp cứu, do đó hạ oxy máu nên được  
xem xét khi đánh giá và điều trị những trẻ với các  
triệu chứng trên.  
Việc đo độ bão hòa oxy máu không xâm nhập  
(SpO2) qua máy đo độ bão hòa oxy mao mạch ngoại  
vi là một phương tiện dễ dùng nhất. Hiện việc sử  
dụng máy đo bão hoà oxy qua da ngày càng nhiều,  
đặc biệt ở các nước đang phát triển bởi vì nguồn  
cung nhiều, chi phí thấp và những sự hiệu quả đã  
được chứng minh. Kết quả là độ bão hòa oxy máu  
trở thành một phương tiện hữu hiệu để đánh giá theo  
dõi hạ oxy máu trong những điều kiện còn hạn chế.  
Tuy nhiên, giá trị bình thường và bất thường dễ bị  
biến đổi, ví dụ: phụ thuộc vào độ cao: giá trị SpO2  
thấp (88-90%) là bình thường ở những nơi cao hơn  
mực nước biển, trong đó, giá trị SpO2 (94-96%)  
mới được xem là bình thường ở nơi ngang với mực  
nước biển. Trong những nơi có thể đo được PaO2  
máu qua máu động mạch, giá trị < 7.3 kPa được sử  
dụng làm chỉ định cho việc sử dụng liệu pháp oxy,  
trong khi ở những nơi khác, SpO2 <90% là chỉ định  
của liệu pháp này. Trong khi có một vài ngưỡng để  
bắt đầu oxy liệu pháp tùy thuộc vào sinh lý bệnh và  
kinh nghiệm, nhưng không có một bằng chứng thực  
nghiệm nào về khi nào dừng liệu pháp và khi nào  
cần thêm những hỗ trợ cần thiết.  
Liệu pháp oxy đã được sử dụng từ lâu để giảm  
các triệu chứng liên quan đến hạ oxy máu và nó là  
một can thiệp điều trị được khuyến cáo rộng rãi để  
giảm tỷ lệ tàn phế và tử vong trong bệnh cảnh viêm  
phổi, sốc và nhiễm trùng huyết nặng. Khi hạ oxy  
máu nặng sẽ dẫn đến thiếu oxy được vận chuyển  
đến mô, làm chuyển hóa kị khí, co các động mạch  
phổi và tăng huyết áp, cuối cùng sẽ dẫn đến chết các  
tế bào thiếu khí nặng. Trong những nghiên cứu quan  
sát về độ hiệu quả, nâng cao chất lượng hệ thống  
oxy trong bệnh viện bao gồm cả việc theo dõi oxy  
bằng dụng cụ đo độ bão hòa oxy mao mạch ngoại  
vi đã chứng minh độ hiệu quả cũng như làm giảm tỉ  
lệ tử vong [3].  
Oxy liệu pháp trong hạ oxy máu đã được chấp  
thuận rộng rãi và đã xuất hiện trong rất nhiều các  
khuyến cáo quốc tế như Cấp cứu nhi khoa nâng  
cao Chương trình lọc bệnh và xử trí cấp cứu của  
WHO. Nhìn chung oxy liệu pháp mang lại nhiều lợi  
ích hơn là gây hại.  
II. KHI NÀO BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC  
OXY LIỆU PHÁP Ở TRẺ BỆNH NẶNG VỚI  
DẤU HIỆU CẤP CỨU  
Khuyến cáo Lọc bệnh và xử trí cấp cứu của  
WHO hiện tại khuyến cáo sử dụng oxy liệu pháp  
trong bất kì hoàn cảnh lâm sàng nào, trong khi đó Sổ  
tay chăm sóc trẻ em tại bệnh viện của WHO khuyến  
Câu hỏi 1: Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ với biểu hiện  
cấp cứu (được mô tả trong khuyến cáo Lọc bệnh và  
4
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
Bệnh viện Trung ương Huế  
xử trí cấp cứu), mức bão hòa oxy máu nào thì liệu có và không có hạ oxy máu là tương tự nhau, ngoại  
pháp oxy hiệu quả so với không sử dụng liệu pháp trừ SpO2 thấp khi nhận vào, nhưng những trẻ mất  
trong việc ngăn ngừa tàn tật và tử vong?  
(Oxy liệu pháp ở trẻ biểu hiện các dấu cấp cứu trong rút lõm lồng ngực (p=0,05) và sốt chỉ ra rằng chúng  
Lọc bệnh và xử trí cấp cứu: nghiên cứu hệ thống) mắc bệnh nặng hơn. Liệu pháp oxy sớm không thay  
Tóm tắt bằng chứng trong việc quyết định khi đổi trong quá trình của bệnh.  
nhiều thời gian để phục hồi từ thở nhanh (p=0,05),  
nào bắt đầu và ngưng oxy liệu pháp:  
Webb và cs (2012) báo cáo tỷ lệ sống còn lâu  
Không có nghiên cứu nào so sánh kết cục tàn phế dài ở 190 trẻ tại Gambia mà vào viện vì viêm phổi  
và tử vong ở những mức bão hòa oxy hóa máu khác nặng. Trong số đó, 83 trẻ hạ oxy máu (SpO2<90%)  
nhau trong quần thể trẻ với dấu hiệu cấp cứu.  
và được điều trị với oxy, 107 trẻ còn lại thì không.  
Năm nghiên cứu mô tả so sánh trước và sau cung Trong 4 năm sau, 62% vẫn trẻ được theo dõi. 8 trẻ  
cấp oxy xác định mốc mà tại đó kết cục trong việc sử có hạ oxy máu và 4 trẻ không hạ oxy máu đã chết,  
dụng mức bão hòa oxy máu khác nhau được kết luận.  
tương ứng tỷ lệ tử vong 4,8 và 2,2 trẻ chết trên 100  
Duke và cs (2002) [1] đã so sánh kết cục của 703 trẻ, điều này không có sự khác biệt ý nghĩa thống  
trẻ viêm phổi nặng và rất nặng tham gia nghiên cứu kê (p=0,2)  
tại Papua New Guinea (1600m trên mực nước biển)  
Không có nghiên cứu nào sử dụng độ bão hòa  
được sử dụng oxy liệu pháp khi SpO2 <85% với 258 oxy máu làm cơ sở cho việc ngưng liệu pháp oxy  
trẻ được sử dụng liệu pháp oxy khi có biểu hiện lâm trên những trẻ có biểu hiện cấp cứu.  
sàng (vd tím). Tỷ lệ tử vong là 6,5% (46/703) trong  
Những bằng chức khác không được kết  
những trẻ tham gia nghiên cứu và 10% (26/258) luận trong bảng đánh giá, phát triển và lượng  
trong nhóm trẻ so sánh, tỉ lệ nguy cơ tử vong là 0,65 giá các khuyến cáo (GRADE: Grading of Rec-  
[95% khoảng tin cậy (CI), 0.41–1.02; phép kiểm ommendations  
Assessment,  
Development,  
chính xác, p = 0.07].  
and Evaluation):  
Trong khi thiếu vắng những nghiên cứu lâm sàng  
Duke và cs (2008) [3] nghiên cứu tiến cứu 11  
291 trẻ viêm phổi tại Papua New Guinea (0-1800m). dựa trên các mức bão hòa oxy hóa máu khác nhau,  
Trong đó 7161 trẻ được sử dụng oxy liệu pháp dựa việc hiểu những nguyên lý sinh lý cơ bản trong việc  
vào biểu hiện lâm sàng ( chủ yếu là tím) và 4130 trẻ vận chuyển oxy trong cơ thể ở những bệnh lý khác  
được sử dụng liệu pháp này khi SpO2 <90%. Tỷ lệ nhau có thể giúp sử dụng an toàn và hợp lý liệu pháp  
tử vong là 4,97% (356/7161) trong những trẻ thuộc oxy ở những trẻ với biểu hiện cấp cứu. Những trẻ  
nhóm trước và 3,22% (133/4130) trong những trẻ bệnh nặng có nguy cơ cao giảm oxy máu do tăng  
thuộc nhóm sau. Tỷ lệ tử vong của trẻ viêm phổi ở nhu cầu oxy mô và giảm vận chuyển oxy. Những  
nhóm nhận được liệu pháp oxy khi SpO2<90% là tình trạng mà gây ra hoặc gắn liền với những dấu  
thấp hơn 35% với nhóm còn lại (tỷ số nguy cơ 0,65, hiệu cấp cứu như là: tắt nghẽn đường thở, suy hô  
khoảng tin cậy 95%,0.52–0.78; p < 0.0001).  
hấp cấp, tím trung tâm, sốc (chi lạnh với thời gian  
Singhi và cs (2012) [6] nghiên cứu 58 trẻ bị viêm đổ đầy mao mạch >3s, mạch nhanh, yếu), huyết áp  
phổi với triệu chứng rút lõm lồng ngực và độ bão tụt hoặc không đo được, hôn mê (hoặc giảm tri giác  
hòa oxy máu bình thường (SpO2>90%). 58 trẻ được nặng) đều liên quan với hạ oxy máu, thiếu oxy mô  
chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm, nhóm 1 nhận được và thỉnh thoảng tăng nhu cầu oxy mô. Một trẻ với  
liệu pháp hỗ trợ oxy ( qua ngạnh mũi lưu lượng 1-2 biểu hiện cấp cứu có thể kết hợp cả giảm vận chuyên  
l/p) (n = 29) và nhóm 2 được thở khí trời (n=29). oxy do bệnh nền và các bệnh kèm theo như: thiếu  
Giảm oxy máu sau đó xuất hiện trên 31 trẻ (53%), máu nặng, suy dinh dưỡng hoặc suy tim. Những trẻ  
và không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (tỉ số nguy cơ này sẽ giảm khả năng bù trừ với giảm oxy mức độ  
[RR], 0.61; 95% CI, 0.36-1.04). Những bệnh nhân trung bình hơn là những trẻ chỉ có bệnh về phổi.  
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
5
Oxy liệu pháp cho trẻ bệnh nặng: BBnngh cvhinngTrvuànkghưuơynếgnHcáuoế  
Hầu hết những khuyến cáo quốc tế về hồi sức nhưng thiếu những thử nghiệm có đối chứng. Bảng  
khuyến cáo nên sử dụng ngưỡng đích của độ bão dưới đây sẽ tổng hợp những khuyến cáo quốc tế và  
hòa oxy máu ở mức cao hơn trên những trẻ nặng. các quốc gia trong việc sử dụng oxy trong và sau  
Khuyến cáo này dựa trên ý kiến của chuyên gia hồi sức.  
Bảng 1: Khuyến cáo của các hội hồi sức quốc tế  
Khuyến cáo  
Độ bão hòa oxy máu đích  
Hội Hồi sức vương quốc Anh (2010)  
Oxy 100% nên được sử dụng trong hồi sức ban đầu. Sau khi  
đã hồi phục được tuần hoàn, oxy hít vào nên được điều chỉnh  
bằng SpO2, để đạt được độ bão hòa oxy máu 94-98%  
Hội Hồi sức Châu Âu: Hồi sức nhi khoa Sử dụng oxy với nồng độ cao nhất (100%)trong quá trình hồi  
nâng cao [7].  
sức ban đầu. Một khi tuần hoàn được hồi phục, sử dụng oxy để  
đạt độ bão hòa oxy máu trong khoảng 94-98%  
Ủy ban Liên lạc Quốc tế về Hồi sức [8] Không có bằng chứng rõ ràng để đưa ra một mức nồng độ oxy  
hữu hiệu để thông khí trong hồi sức ngừng tim ở trẻ sơ sinh và  
trẻ nhỏ. Một khi tuần hoàn được hồi phục, có thể điều chỉnh  
nồng độ oxy hít vào để giảm ngộ độc oxy.  
Hướng dẫn của Hiệp hội Tim mạch Mỹ Đảm bảo thông khí với oxy 100% trong quá trình hồi sức tim  
về Hồi sức tim phổi và Chăm sóc tim phổi là rất quan trọng bởi vì thiếu những chứng cứ hữu hiệu của  
mạch khẩn cấp (2010): Phần 14: Hồi một nồng độ oxy hít vào tối ưu. Một khi tuần hoàn được hồi  
sức nhi khoa nâng cao [9]  
phục, theo dõi độ bão hòa oxy máu hệ thống. Điều này là quan  
trọng khi có những công cụ theo dõi cần thiết để điều chỉnh  
nồng độ oxy hít vào mà vẫn duy trì độ bão hòa oxy máu ≥ 94%.  
Hội hồi sức Úc/New Zealand (2010)  
Thật cần thiết khi sử dụng oxy 100%trong hồi sức ban đầu  
(mức độ A, ý kiến đồng thuận chuyên gia). Sau khi hồi sức,  
nồng độ oxy hít vào nên được giảm xuống một mức mà đảm  
bảo nồng độ cần thiết oxy trong máu động mạch được đo bằng  
khí máu động mạch (PaO2, 80–100 mmHg) hoặc đo bằng máy  
đo nồng độ oxy ngoại vi (SpO2 ≥ 95–≤ 100%).  
Hồi sức nhi khoa nâng cao của Úc Oxy 100% vẫn được khuyến cáo sử dụng trong hồi sức bên  
(2012)  
ngoài phòng sinh, tuy nhiên, một khi tuần hoàn được hồi phục,  
ngộ độc oxy có thể gây cản trở đến việc hồi phục của các mô.  
Máy đo oxy máu ngoại vi nên được sử dụng để theo dõi và điều  
chỉnh cho phù hợp nhu cầu sử dụng oxy sau khi đã hồi sức thành  
công. Độ bão hòa oxy máu nên được duy trì từ 94-98%  
Viện Y tế Quốc gia về Chất lượng điều  
trị, Vương quốc Anh (2013)  
Oxy nên được sử dụng cho trẻ sốt kèm các dấu hiệu của sốc  
hoặc giảm độ bão hòa oxy máu (SpO2 <92%) khi thở khí trời.  
Liệu pháp oxy cũng nên được cân nhắc ở những trẻ có SpO2  
>92% nhưng lâm sàng xấu.  
Trong khi có những khuyến cáo việc sử dụng oxy  
100% thì có rất ít chứng cứ trong việc so sánh độ hiệu  
quả của việc cung cấp oxy 85-100% và oxy 100% hoàn  
toàn. Hệ thống oxy khí nén có sẵn ở những nước thu  
nhập thấp và trung bình thường chỉ tạo được oxy với  
nồng độ >85%, nồng độ này cũng có thể chấp nhận.  
6
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
Bệnh viện Trung ương Huế  
Tổng kết bằng chứng:  
Khuyến cáo 1  
Không có một nghiên cứu hệ thống nào xác  
định câu trả lời chính xác cho câu hỏi cụ thể trên. 4  
nghiên cứu quan sát và can thiệp được thực hiện để  
xác định liệu lưu lượng cao có làm kết cục tốt hơn  
lưu lượng thấp hay không (hơn là xác định mức lưu  
lượng tốt nhất).  
Máy đo độ bão hòa oxy ngoại vi được khuyến  
cáo để phát hiện hạ oxy máu trong tất cả những  
trẻ có dấu hiệu cấp cứu. Khi trẻ chỉ có suy hô hấp,  
cung cấp oxy được khuyến cáo khi SpO2<90%.  
Những trẻ có biểu hiện những dấu cấp cứu khác†  
có hoặc không có suy hô hấp nên được sử dụng  
liệu pháp oxy khi SpO2 < 94%.  
Milési và cộng sự (2013) [10] đã báo cáo kết cục  
trong một thiết kế nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu  
nhỏ, trong đó 21 trẻ trong đơn vị hồi sức tích cực  
nhi bị viêm tiểu phế quản cấp do virus hợp bào hô  
hấp đã nghiên cứu ở 4 mức lưu lượng tăng dần (1 L/  
phút, 4 L/phút, 6 L/phút và 7 L/phút). Áp lực dương  
trung bình tăng dần từ 0,2 cm H2O (95% CI, -0.2-  
0.7) ở 1 L/phút đến 4 cm H2O (95% CI, 3-5) ở lưu  
lượng tối đa (p = 0.0001). Chỉ khi lưu lượng > 6  
L/phút gây tăng áp lực dương trong cả thì hít vào  
và thở ra. Tăng lưu lượng từ 1 đến 7 L/phút làm  
giảm rõ rệt tần số thở (p = 0.007) và giảm điểm  
trong thang điểm đánh giá lâm sàng hen phế quản  
Wood điều chỉnh (p = 0.0096). Các tác giả này đã  
kết luận rằng lưu lượng ≥ 2 L/kg/min tạo ra một áp  
lực dương tương đối và cải thiện chức năng hô hấp.  
Bressan và cộng sự (2013) [11] đã báo cáo lợi  
ích cho 27 trẻ trong một nghiên cứu quan sát khi  
oxy lưu lượng cao được bắt đầu với lưu lượng được  
tính toán theo công thức “cân nặng (kg) + 1”. SpO2  
tăng lên đáng kể từ 88% lên 97% trong giờ đầu tiên  
và ổn định sau đó. Nồng độ CO2 cuối thì thở ra giảm  
trong giờ đầu tiên, từ 37% xuống 30%, và ổn định  
sau đó. Tần số thở giảm từ 70 xuống 50 trong giờ  
đầu tiên và sau đó ổn định. Nồng độ CO2 cuối thì  
thở ra và tần số thở cải thiện rõ rệt (p < 0.001) cho  
mỗi so sánh nhưng không có tác động được thấy  
trên tần số tim và nhiệt độ. Nghiên cứu còn chỉ ra  
rằng oxy lưu lượng cao (HFNC) giảm nồng độ CO2  
cuối thì thở ra (giảm 7%) và tần số thở (giảm 20  
nhịp), tuy nhiên, nó không trả lời hoàn toàn câu hỏi  
khuyến cáo: lưu lượng chính xác cho liệu pháp oxy  
tiêu chuẩn là bao nhiêu.  
Những dấu cấu cấp được miêu tả trong khuyến  
cáo Lọc bệnh và xử trí cấp cứu của WHO bao gồm:  
Ngưng thở hoặc tắt nghẽn đường thở; Suy hô hấp  
nặng; Tím trung tâm; Dấu hiệu của shock (chi lạnh  
với Refill time >3s, mạch nhanh yếu); Hôn mê (hoặc  
giảm tri giác nặng); Co giật; Dấu hiệu của mất nước  
nặng ở trẻ có tiêu chảy với bất kỳ 2 trong các dấu  
hiệu sau: hôn mê hoặc li bì, mắt trũng, nếp véo da  
mất rất chậm.  
Câu hỏi 2: Ở những trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có  
biểu hiện cấp cứu (như mô tả trong khuyến cáo Lọc  
bệnh và xử trí cấp cứu), mức bão hòa oxy hóa máu  
nào cần ngưng liệu pháp oxy thay vì tiếp tục mà  
không làm tăng tỷ lệ tử vong và tàn tật?  
Tổng hợp các bằng chứng  
Không có một nghiên cứu hệ thống nào được  
thiết kế để trực tiếp trả lời cho câu hỏi cụ thể này ở  
những trẻ có biểu hiện dấu hiệu cấp cứu.  
Khuyến cáo 2  
Oxy liệu pháp có thể ngưng ở những trẻ không  
còn dấu hiệu cấp cứu và duy trì độ bão hòa oxy mao  
mạch ngoại vi ≥ 90% khí trời.  
Lưu lượng oxy và sự làm ẩm ở những trẻ nặng  
với các dấu cấp cứu.  
Câu hỏi 3: Lưu lượng oxy thở qua ngạnh mũi  
nào bảo đảm độ bão hòa oxy máu và/ hoặc cho kết  
cục lâm sàng tốt nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ biểu  
hiện suy hô hấp hoặc những dấu hiệu cấp cứu khác  
(như mô tả trong khuyến cáo Lọc bệnh và xử trí cấp  
cứu của WHO)?  
Hough và cộng sự (2014) [12] đã tiến hành  
một nghiên cứu tiến cứu có can thiệp, tại đó 13  
trẻ sơ sinh ngẫu nhiên được cung cấp từ 2 L/phút  
(lưu lượng thấp, 0,4 L/kg cân nặng/phút) hoặc 8  
(Một nghiên cứu hệ thống của sử dụng liệu pháp  
oxy cấp cứu trong những trẻ nặng: Lưu lượng và sự  
làm ẩm).  
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
7
Oxy liệu pháp cho trẻ bệnh nặng: BBnngh cvhinngTrvuànkghưuơynếgnHcáuoế  
Câu hỏi 4: Liệu pháp oxy lưu lượng cao được  
làm ẩm có làm độ bão hòa oxy máu tốt hơn hoặc kết  
cục lâm sàng tốt hơn so với liệu pháp oxy lưu lượng  
chuẩn không làm ẩm đối với những trẻ sơ sinh và  
trẻ nhỏ biểu hiệu suy hô hấp và các dấu hiệu cấp cứu  
khác (như mô tả trong khuyến cáo Lọc bệnh và xử  
trí cấp cứu của WHO)?  
L/phút (lưu lượng cao, 1,7L/kg/phút). Công cụ đánh  
giá được sử dụng là áp lực cuối thì thở ra, thể tích  
phổi, áp lực thực quản tại cuối thì thở ra và những  
công cụ đo lường sinh lý khác bao gồm tần số thở,  
nhịp tim, SpO2, phân lượng oxy hít vào (FiO2), và  
tỉ số SpO2:FiO2. Áp lực thực quản cuối thì thở ra  
tăng rõ rệt với lưu lượng cao, từ -0.2 ± 7.6 cm H2O  
đến 6.9 ± 2.1 cm H2O (p = 0.045) nhưng chỉ tăng  
vừa đối với lưu lượng thấp từ -1.9 ± 4.8 cm H2O đến  
-0.2 ± 4.8 cm H2O (p không có ý nghĩa). Tần số thở  
giảm rõ khi thở lưu lượng cao từ 68.5 ± 6.0 đến 56.9  
± 3.2 (p = 0.045), nhưng không có sự khác biệt rõ  
rệt trong những thay đổi sinh lý khác được thấy như  
là nhịp tim, FiO2, SpO2 hay SpO2: FiO2.  
Tổng kết bằng chứng  
Không có nghiên cứu nào trả lời câu hỏi cụ thể  
trên Nhóm phát triển hướng dẫn do đó chia sẻ ý kiến  
các chuyên gia để tạo ra khuyến cáo. Tuy nhiên,  
nhóm đã nhận thấy, dù có những nghiên cứu về hiệu  
quả của làm ẩm và lưu lượng cao đã được thực hiện,  
vẫn rất khó để đánh giá hiệu quả của 2 liệu pháp này  
lên kết cục lâm sàng.  
Trong một nghiên cứu thử nghiệm, Mayfield và  
cộng sự (2013) [13] đã nghiên cứu việc sử dụng  
oxy thông qua HFNC cho 61 trẻ sơ sinh so với  
33 trẻ sơ sinh trong nhóm kiểm soát. HFNC được  
cho với lưu lượng 2 L/kg/phút cho đến tối đa 10  
L/kg/phút, và FiO2 được điều chỉnh để duy trì độ  
bão hòa oxy máu 94%. Điều trị kiểm soát với thở  
oxy lưu lượng thấp qua ngạnh mũi. Những yếu tố  
sinh lý như nhịp tim, tần số thở, SpO2, nhiệt độ  
và thang điểm hô hấp trong đánh giá công thở và  
thời gian nằm viện. Trong số 61 trẻ ở nhóm được  
sử dụng HFNC, 53 trẻ đáp ứng, 8 trẻ còn lại không  
cần phải chuyển sang đơn vị nhi hồi sức tích cực.  
Trong nhóm kiểm soát, 23/33 trẻ đáp ứng và 10 trẻ  
còn lại phải điều trị ở khoa nhi hồi sức tích cực.  
Tần số thở giảm rõ trong ở 2 nhóm có đáp ứng sau  
khi nhập viện (p = 0.05). Tuy nhiên nhóm kiểm  
soát lại có tần số tim giảm nhiều hơn. Thời gian  
nằm viện là tương tự ở cả 2 nhóm.  
Khuyến cáo 4  
Đối với liệu pháp oxy chuẩn, việc làm ẩm là  
không cần thiết  
Trong những trường hợp cấp cứu, khi lưu lượng  
>4 L/phút qua ngạnh mũi là cần trong khoảng thời  
gian kéo dài hơn 1-2h, việc làm ấm, làm ẩm hiệu  
quả nên được thêm vào  
III. KẾT LUẬN  
Liệu pháp oxy rất quan trọng và đã cứu sống  
nhiều trẻ bệnh, đặc biệt là trẻ có dấu hiệu cấp  
cứu. Việc cung cấp oxy nên được xem xét giống  
như các loại thuốc khác và được chuẩn độ đến  
điểm cuối đo được để tránh dùng quá nhiều hoặc  
không đủ. Việc giữ lại oxy có thể có những tác  
động bất lợi; đồng thời, tiếp tục cung cấp oxy  
liệu pháp khi không còn chỉ định có thể kéo dài  
thời gian nằm viện và tăng chi phí chăm sóc. Cần  
đảm bảo rằng hàm lượng oxy và cung lượng tim  
đủ khi đánh giá hiệu quả của liệu pháp oxy. Lựa  
chọn thiết bị là cực kỳ quan trọng trong khoa nhi.  
Liệu pháp oxy ở trẻ bệnh có một số tác dụng sinh  
lý và độc tính tương tự như ở người lớn. Tuy  
nhiên, có một số khác biệt mà nếu bỏ qua có thể  
dẫn đến tổn thương (ví dụ: tưới máu kém, bệnh  
tim bẩm sinh, bệnh võng mạc do sinh non) và /  
hoặc chấn thương não.  
Khuyến cáo 3  
Những trẻ nặng với dấu hiệu tắt nghẽn đường  
thở, tím trung tâm, suy hô hấp nặng hoặc dấu hiệu  
của sốc hay mất tri giác nên được bắt đầu với oxy  
qua ngạnh mũi với lưu lượng (0,5-1 L/phút cho trẻ  
sơ sinh, 1-2 L/phút cho trẻ nhũ nhi và 2-4 L/phút  
cho trẻ lớn) hoặc thông qua một mặt nạ có kích cỡ  
hợp lí với mặt (>4 L/phút) để đạt được nồng độ  
oxy mao mạch ngoại vi ≥ 94%.  
8
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
Bệnh viện Trung ương Huế  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Duke T, Blaschke AJ, Sialis S, Bonkowsky  
JL. Hypoxaemia in acute respiratory and non-  
Resuscitation 2010 Section 1. Executive  
summary. Resuscitation 2010;81:1219-76  
respiratory illnesses in neonates and children 8. Nolan JP, Hazinski MF, Billi JE, Boettiger BW,  
in a developing country. Arch Dis Child  
2002;86:108-12  
2. Chisti MJ, Duke T, Robertson CF, Ahmed T,  
Faruque AS, Ashraf H, et al. Clinical predictors  
and outcome of hypoxaemia among under-five  
diarrhoeal children with or without pneumonia  
Bossaert L, de Caen AR, et al. Part 1: Executive  
summary: 2010 International Consensus on  
Cardiopulmonary Resuscitation and Emergency  
Cardiovascular Care Science With Treatment  
Recommendations. Resuscitation 2010;81  
Suppl 1:e1-25  
in an urban hospital, Dhaka, Bangladesh. Trop 9. Kleinman ME, Chameides L, Schexnayder  
Med Int Health 2012;17:106-11  
SM, Samson RA, Hazinski MF, Atkins DL,  
et al. Part 14: pediatric advanced life support:  
2010 American Heart Association Guidelines  
for Cardiopulmonary Resuscitation and  
Emergency Cardiovascular Care. Circulation  
2010;122:S876-908  
3. Duke T, Wandi F, Jonathan M, Matai S, Kaupa  
M, Saavu M, et al. Improved oxygen systems  
for childhood pneumonia: a multihospital  
effectiveness study in Papua New Guinea.  
Lancet 2008;372:1328-33  
4. Laman M, Ripa P, Vince J, Tefuarani N. Can 10. Milesi C, Matecki S, Jaber S, Mura T, Jacquot  
clinical signs predict hypoxaemia in Papua New  
Guinean children with moderate and severe  
pneumonia? Ann Trop Paediatr 2005;25:23-7  
5. Zhang L, Mendoza-Sassi R, Santos JC, Lau J.  
Accuracy of symptoms and signs in predicting  
A, Pidoux O, et al. 6 cmH2O continuous  
positive airway pressure versus conventional  
oxygen therapy in severe viral bronchiolitis:  
a
randomized trial. Pediatr Pulmonol  
2013;48:45-51  
hypoxaemia among young children with acute 11. Bressan S, Balzani M, Krauss B, Pettenazzo A,  
respiratory infection: a meta-analysis. Int J  
Tuberc Lung Dis 2011;15:317-25  
6. Singhi SC, Baranwal AK, Guruprasad, Bharti  
ZanconatoS, BaraldiE. High-flownasalcannula  
oxygen for bronchiolitis in a pediatric ward: a  
pilot study. Eur J Pediatr 2013;172:1649-56  
B. Potential risk of hypoxaemia in patients with 12. Hough JL, Pham TM, Schibler A. Physiologic  
severe pneumonia but no hypoxaemia on initial  
assessment: a prospective pilot trial. Paediatr  
Int Child Health 2012;32:22-6  
effect of high-flow nasal cannula in infants  
with bronchiolitis. Pediatr Crit Care Med  
2014;15:e214-9  
7. Nolan JP, Soar J, Zideman DA, Biarent D, 13. Mayfield S, Jauncey-Cooke J, Bogossian F. A  
Bossaert LL, Deakin C, et al. European  
Resuscitation Council Guidelines for  
case series of paediatric high flow nasal cannula  
therapy. Aust Crit Care 2013;26:189-92  
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 68/2021  
9
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 2260
Bạn đang xem tài liệu "Oxy liệu pháp cho trẻ bệnh nặng: Bằng chứng và khuyến cáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfoxy_lieu_phap_cho_tre_benh_nang_bang_chung_va_khuyen_cao.pdf