Mối liên quan giữa một số vi rút với mức độ nặng của cơn hen phế quản cấp ở trẻ em

Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
Research Paper  
Correlation between Certain Viruses and Severity of Acute  
Asthma in Children  
Le Quynh Chi1*, Lu Thi Hoa2, Le Thi Hong Hanh1  
1Vietnam National Children’s Hospital, No 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam  
2 Ha Noi Medical University, No 1 Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam  
Received 29 November 2020  
Revised 20 December 2020, Accept 28 December 2020  
Abstract  
Background/Purposes: Asthma is a common disease that causes chronic bronchitis. In  
children, the most important trigger for an acute asthma is viral infection. This research  
studies the correlation between certain viruses and severity of acute asthma in children.  
Methods: 101 acute asthma children admitted to the Immunology, Allergy and  
Rheumatology Department with diagnosis of viral etiology by multi-bait PCR technique 5  
viruses.  
Results: 101 children diagnosed with acute asthma attack, 79 patients had positive PCR  
with virus, accounting for 78.2%. In which: 93.7% (+) with RV, 5.1% (+) with Boca vi  
rút, CoVNL63 and the lowest is Cov 43 (2.5%). Combined viral infection rate (infected  
with 2 viruses or more): 6.3%. Children under 5 years old: viral infection in severe acute  
asthma group: 96.1%, mild acute asthma group: 54.5%. Viruses associated with severe  
asthma attacks in children <5 years old such as RV, Cov 43, CoVNL63 with p<0.05 and  
p<0.001. There was no difference in the group of children over 5 years old with p>0.05.  
Conclusion: The acute asthma attack related to the viral agent accounts for 78.2%. The  
group of children under 5 years old has 96.1% of severe acute asthma attacks correlated  
with virus. Children > 5 years old had no corelation between viral infection and severity of  
asthma attacks.  
Keyword: acute asthma, children, virus  
*
_______  
* Corresponding author.  
61  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
Mối liên quan giữa một số vi rút với mức độ nặng  
của cơn hen phế quản cấp ở trẻ em  
Lê Quỳnh Chi1*, Lữ Thị Hòa2, Lê Thị Hồng Hanh1  
1Bệnh viện Nhi Trung ương, Số 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam  
2Trường Đại học Y Hà Nội, Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày29 tháng 11 năm 2020  
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 12 năm 2020  
Tóm tắt  
Đặt vấn đề/ Mục tiêu: Hen phế quản là bệnh lý thường gặp gây viêm phế quản mạn tính.  
Ở trẻ em tác nhân khởi phát gây cơn hen cấp có vai trò quan trọng nhất là nhiễm vi rút.  
Mối liên quan giữa một số vi rút với mức độ nặng của cơn hen phế quản cấp ở trẻ em.  
Phương pháp: 101 trẻ được chẩn đoán cơn hen phế quản cấp nhập viện vào khoa Miễn  
dịch-Dị ứng-Khớp, chẩn đoán mức độ cơn hen cấp, chẩn đoán căn nguyên vi rút bằng kỹ  
thuật PCR đa mồi 5 vi rút.  
Kết quả: trên 101 trẻ được chẩn đoán cơn hen phế quản cấp có 79 bệnh nhân có kết quả  
PCR dương tính với vi rút chiếm 78,2%. Trong đó: 93,7% (+) với RV, 5,1% (+) với Boca  
vi rút, CoVNL63 và thấp nhất là Cov 43 (2,5%). Tỷ lệ nhiễm vi rút phối hợp (nhiễm từ 2  
vi rút trở lên): 6,3%. Trẻ dưới 5 tuổi: nhiễm vi rút ở nhóm hen nặng: 96,1%, nhóm hen  
nhẹ: 54,5%. Các vi rút liên quan cơn hen nặng ở nhóm trẻ < 5 tuổi như RV, Cov 43,  
CoVNL63 với p<0,05 và p<0,001. Nhóm trẻ trên 5 tuổi không có sự khác biệt rõ ràng với  
p>0,05.  
Kết luận: Cơn hen cấp có liên quan với tác nhân vi rút chiếm 78,2%. Nhóm trẻ hen dưới 5  
tuổi có 96,1% cơn hen cấp mức độ nặng liên quan nhiễm vi rút. Trẻ > 5 tuổi không có liên  
quan giữa nhiễm vi rút và mức độ cơn hen.  
Từ khóa: cơn hen cấp, trẻ em, vi rút  
1. Đặt vấn đề  
đang phát triển. Trẻ em mắc hen phế quản,  
nếu không được chẩn đoán điều trị dự  
phòng đầy đủ sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát  
triển thể chất, khả năng học tập, chất lượng  
cuốc sống của trẻ và gây hậu quả tái cấu  
trúc đường thở sau này.  
Một trong các tác nhân gây khởi phát  
cơn hen phế quản cấp ở trẻ em là nhiễm vi  
rút đường hô hấp. Đây là tác nhân quan  
trọng nhất, thường gây bệnh cảnh của cơn  
hen cấp mức độ vừa đến nặng. Vì vậy khi  
xác định yếu tố khởi phát cơn hen phế quản  
cấp là vi rút giúp chúng ta xác định tiên  
Hen phế quản là bệnh lý viêm mạn tính  
phế quản kết hợp với tăng phản ứng của  
đường dẫn khí, gây co thắt và giới hạn  
luồng khí thay đổi. Trên lâm sàng trẻ  
thường biểu hiện ho, khò khè, khó thở, nặng  
ngực tái phát, từng đợt. Các triệu chứng  
thường nổi bật về đêm, xảy ra trên cơ địa dị  
ứng của bản thân và gia đình.  
Hen phế quản có thể gặp ở mọi lứa tuổi,  
có xu hướng ngày càng gia tăng ở các nước  
* Tác giả liên hệ.  
62  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
lượng và điều trị bệnh một cách hiệu quả  
hơn. Từ thập niên 1970, nhiễm vi rút đường  
tiện, tất cả những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn  
trong thời gian nghiên cứu  
hô hấp được xác định là một trong các yếu  
tố khởi phát cơn hen cấp ở cả trẻ em và  
người lớn. Vi rút được tìm thấy khoảng 80%  
trong các giai đoạn khò khè của trẻ học  
đường và từ 50% đến 75% trong các giai  
đoạn khò khè cấp tính của người lớn. Ở Việt  
Nam gần đây cũng có nhiều nghiên cứu về  
hen phế quản trẻ em. Nghiên cứu về sự liên  
quan của vi rút với cơn hen phế quản chưa  
được đề cập nhiều ở trẻ em. Vì lí do đó  
chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Mối liên  
quan giữa một số vi rút với mức độ nặng  
của cơn hen phế quản cấp ở trẻ em”.  
Quy trình nghiên cứu: Các bệnh nhân đủ  
tiêu chuẩn nghiên cứu được thăm khám lâm  
sàng, đánh giá mức độ nặng cơn hen cấp,  
xét nghiệm PCR đa mồi panel 3 vi rút theo  
kit Allplex Respiratory Panel 3 của hãng  
Seegen xác định 5 tác nhân (Bocavirus,  
Rhinovius, CoV OC43, CoV NL63, CoV  
229E) theo hướng dẫn của nhà sản suất.  
Các bệnh nhân nghiên cứu được đánh giá  
trên các nhóm có kết quả xét nghiệm vi rút  
dương tính và âm tính.  
Xử lý số liệu :  
Phân tích và xử lý số liệu theo phương pháp  
thống kê y học. Sử dụng phần mền SPSS  
version 21.  
Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được sự  
chấp thuận của hội đồng đạo đức Trường  
đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Nhi Trung  
ương.  
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu  
Đối tượng nghiên cứu:  
- Bệnh nhân có độ tuổi dưới 16 tuổi được  
chẩn đoán cơn hen phế quản cấp điều trị nội  
trú tại khoa Miễn dịch-Dị ứng-Khớp, Bệnh  
viện Nhi Trung ương trong thời gian từ  
1/7/2019 đến 30/6/2020. Tiêu chuẩn chẩn  
đoán hen phế quản, cơn hen cấp - mức độ  
nặng của cơn hen phế quản cấp theo GINA.  
- Chẩn đoán nhiễm vi rút bằng phương  
pháp nghiên cứu sinh học phân tử. Bệnh  
phẩm là dịch tỵ hầu. Dùng kỹ thuật PCR đa  
mồi 5 vi rút xác định căn nguyên gây cơn  
hen cấp tại khoa Nghiên cứu Sinh học Phân  
tử các Bệnh truyền nhiễm- Bệnh viện Nhi  
Trung ương.  
3. Kết quả nghiên cứu  
Nghiên cứu trên 101 trẻ được chẩn đoán  
cơn hen phế quản cấp nhập viện Khoa Miễn  
dịch-Dị ứng-Khớp, Bệnh viện Nhi Trung  
ương, chúng tôi thu được 79 bệnh nhân có  
kết quả PCR dương tính với vi rút chiếm tỉ  
lệ 78,2% bệnh nhi, có 79 bệnh nhi nhiễm vi  
rút chiếm 78,2% còn lại 21,8% không  
nhiễm. Tuổi trung bình của nhóm trẻ hen  
phế quản liên quan với nhiễm vi rút là 5,47  
± 2,57. Nhóm trẻ > 5 tuổi gặp nhiều hơn  
(53,2%). Trẻ trai: 63,3%.  
Phương pháp nghiên cứu  
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả tiến cứu.  
Cỡ mẫu và chọn mẫu: Chọn mẫu thuận  
3.1. Tỷ lệ từng loại vi rút  
63  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
Biểu đồ 1. Tỷ lệ từng loại vi rút  
Nhận xét: Trong 79 bệnh nhi nhiễm vi rút có 93,7% có kết quả xét nghiệm dương tính với RV, tiếp đến  
5,1% dương tính với Boca vi rút, CoVNL63 và thấp nhất là Cov 43 (2,5%).  
3.2. Tỷ lệ nhiễm vi rút phối hợp (từ 2 loại vi rút trở lên): 6,3%, 93,7% chỉ nhiễm 1 vi rút  
3.3. Mối liên quan giữa mức độ nặng cơn hen với nhiễm vi rút  
Bảng 1. Mối liên quan giữa mức độ nặng cơn hen với nhiễm vi rút  
Vi rút  
Vi rút (-)  
n
Vi rút (+)  
n
p
Mức độ nặng  
Trẻ dưới 5 tuổi  
Nhẹ hoặc trung bình  
Nặng hoặc đe dọa tính mạng  
Trẻ từ 5 đến 16 tuổi  
Nhẹ  
Trung bình  
Nặng  
Đe dọa tính mạng  
%
%
10  
1
45,5  
3,9  
12  
25  
54,5  
96,1  
<0,05  
1
6
4
0
14,3  
31,6  
14,8  
0,0  
6
85,7  
68,4  
85,2  
0,0  
13  
23  
0
>0,05  
Nhận xét: nhóm trẻ dưới 5 tuổi: tỷ lệ nhiễm vi rút ở nhóm hen nặng: 96,1% cao hơn rất nhiều so với  
nhóm hen mức nhẹ (54,5%) nhiễm vi rút. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ở nhóm trẻ từ  
5 đến 16 tuổi thì sự khác biệt chưa rõ ràng (p>0,05).  
3.4. Mối liên quan giữa mức độ nặng của cơn hen phế quản và từng loại vi rút ở trẻ dưới 5  
tuổi  
Bảng 2. Mối liên quan giữa mức độ nặng của cơn hen phế quản và từng loại vi rút  
ở trẻ dưới 5 tuổi  
Độ nặng của hen  
Từng loại vi rút  
Nhẹ, TB  
Nặng  
P
n
%
n
%
RV  
Dương tính  
11  
50,0  
64  
23  
88,5  
<0,05  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
Âm tính  
11  
50,0  
3
11,5  
BOCA  
Dương tính  
Âm tính  
1
21  
4,6  
95,4  
2
24  
7,7  
92,3  
>0,05  
Cov 43  
Dương tính  
Âm tính  
CoVNL 63  
Dương tính  
Âm tính  
0
22  
0,0  
100,0  
2
24  
7,7  
92,7  
<0,001  
<0,001  
0
22  
0,0  
100,0  
1
25  
3,9  
96,1  
Nhận xét: Chưa có mối liên quan giữa nhiễm Boca với mức độ nặng của hen; Có mối liên quan chặt  
chẽ giữa nhiễm RV, Cov 43, CoVNL63 với mức độ nặng của hen với p<0,05 và p<0,001.  
3.5. Mối liên quan giữa độ nặng của cơn hen phế quản và từng loại vi rút ở trẻ trên 5 tuổi  
Bảng 3. Mối liên quan giữa độ nặng của cơn hen phế quản và từng loại vi rút ở trẻ trên 5 tuổi  
Độ nặng của hen  
p
Từng loại vi rút  
Nhẹ  
Trung bình  
Nặng  
n
%
n
%
n
%
RV  
Dương tính  
Âm tính  
BOCA  
Dương tính  
Âm tính  
Cov 43  
Dương tính  
Âm tính  
CoVNL 63  
Dương tính  
Âm tính  
5
2
71,4  
28,6  
13  
6
68,4  
31,6  
22  
5
81,5  
18,5  
>0,05  
>0,05  
-
0
7
0,0  
100,0  
1
18  
5,3  
94,7  
0
27  
0,0  
100,0  
0
7
0,0  
100,0  
0
19  
0,0  
100,0  
0
27  
0,0  
100,0  
1
6
14,3  
85,7  
1
18  
5,3  
94,7  
1
26  
3,7  
96,3  
> 0,05  
Nhận xét: Chưa có mối liên quan giữa nhiễm vi rút với mức độ nặng của hen ở nhóm tuổi từ 5 đến 16  
tuổi với p > 0,05.  
đường hô hấp là nguyên nhân hàng đầu gây  
khởi phát cơn hen cấp. RV và vi rút cúm là  
nguyên nhân phổ biến gây khởi phát cơn  
hen cấp ở trẻ em [5]. Sự phát triển của bệnh  
hen liên quan đến các loại vi rút này có  
những cơ chế riêng biệt, nhưng nói chung,  
nhiễm vi rút đường hô hấp là một yếu tố  
nguy cơ của bệnh hen cơ địa sau này [1].  
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho  
thấy tỷ lệ nhiễm vi rút RV cao nhất lên tới  
93,7%, tiếp đến là Boca vi rút, CoVNL63  
chỉ có 5,1%, thấp nhất là Cov 43 chiếm  
2,5%. Theo tác giả Alicia A. Annamalay và  
4. Bàn luận  
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho  
thấy trong tổng số 101 bệnh nhi, có 79 bệnh  
nhi nhiễm vi rút chiếm 78,2% còn lại 21,8%  
không nhiễm. Trong tổng số 79 bệnh nhi  
nhiễm vi rút có 93,7% có kết quả xét  
nghiệm dương tính với RV, tiếp đến 5,1%  
dương tính với Boca vi rút, CoVNL63 và  
thấp nhất là Cov 43 (2,5%). Nhiễm vi rút  
65  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 700 trẻ từ  
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy  
2 đến 59 tháng tuổi cho thấy, có ít nhất một  
loại vi rút đường hô hấp được xác định ở  
92,0% trẻ em trong đó RV là phổ biến nhất  
chiếm 53,0%.  
ở nhóm nhiễm vi rút chủ yếu hen ở mức độ  
nặng chiếm 60,8%, mức độ nhẹ chỉ có  
11,4%; còn ở nhóm không nhiễm vi rút tỷ lệ  
mức độ trung bình cao nhất chiếm 59,1%,  
nặng chiếm 22,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa  
thống kê với p<0,05. Ở nhóm nhiễm từ 2  
loại vi rút trở lên mức độ hen nặng chiếm  
60,0% cao hơn so với nhóm nhiễm từ 01  
loại vi rút trở xuống; tuy nhiên sự khác biệt  
chưa có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Kết  
quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết  
quả nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Hoàng  
Ngân.  
Nhiễm trùng đường hô hấp do vi rút có  
liên quan chặt chẽ với các biểu hiện thở khò  
khè và làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn  
trong suốt thời thơ ấu. Các vi rút đường hô  
hấp là một nguyên nhân quan trọng của biểu  
hiện khò khè cấp tính ở trẻ nhỏ, và vi rút  
được phát hiện trong hầu hết các cơn hen  
cấp trong suốt thời thơ ấu. Đặc biệt, trẻ sơ  
sinh bị nhiễm trùng đường hô hấp do vi rút  
có nhiều khả năng bị hen suyễn sau này  
trong thời thơ ấu. Đã có những tiến bộ trong  
việc tìm hiểu cơ chế bệnh sinh của các bệnh  
hô hấp do vi rút và những hiểu biết mới về  
vai trò của vi rút trong bệnh hen suyễn. Kết  
quả nghiên cứu cũng cho thấy mối liên  
quan chặt chẽ giữa triệu chứng co kéo cơ hô  
hấp với nhiễm vi rút với p<0,05; các triệu  
chứng khác chưa có mối liên quan rõ ràng  
(p>0,05).  
Ở nhóm tuổi < 5 tuổi chưa có mối liên  
quan giữa nhiễm Boca với mức độ nặng của  
hen; tuy nhiên có mối liên quan chặt chẽ  
giữa nhiễm RV, Cov 43, CoVNL63 với mức  
độ nặng của hen với p<0,05 và p<0,001;  
bên cạnh đó chưa có mối liên quan giữa  
nhiễm vi rút với mức độ nặng của hen ở  
nhóm tuổi từ 5 đến 16 tuổi với p>0,05; Các  
loại vi rút khác ngoài RV ít có ý nghĩa quan  
trọng trong vai trò tác nhân gây ra bệnh lý  
hen phế quản. Có thể xuất phát ban đầu là  
nhiễm RSV hoặc các loài gần với nó như  
metapneumovirus nhưng về sau, các trường  
hợp tái nhiễm thường xảy ra ở mức độ nhẹ.  
Đối với Boca vi rút thì trẻ em thường có  
kháng thể bảo vệ, còn đối với vi rút cúm có  
thể góp phần gây ra các cơn hen ở người lớn  
nhưng do hiệu quả của chương trình tiêm  
chủng nên tỷ lệ này cũng hiếm gặp. Các loại  
Corona vi rút (ngoại trừ SARS, MERS), vi  
rút parainfluenza, adeno vi rút và polyma vi  
rút đường hô hấp thường chỉ gây nhiễm  
trùng đường hô hấp trên [2-4].  
Nghiên cứu của Tuomas Jartti và cộng  
sự về vai trò của vi rút với phát triển hen  
phế quản ở trẻ em đã chỉ ra vi rút đường hô  
hấp (RV, RSV) tương tác với yếu tố môi  
trường và vật chủ để tăng nguy cơ mắc khò  
khè ở trẻ sơ sinh và làm tăng mức độ nặng  
bệnh ở trẻ em34. Nghiên cứu của Lê Thị  
Hồng Hanh năm 2011 về vai trò của nhiễm  
vi rút trong đợt bùng phát HPQ ở trẻ em cho  
thấy tỷ lệ xác định được vi rút hô hấp trong  
đợt bùng phát là 49,66%. Nhóm bệnh nhi  
HPQ nhiễm RSV có đợt bùng phát HPQ  
nặng chiếm 60,70% [5]. Kết quả nghiên cứu  
ở biểu đồ 3.1 cho thấy tỷ lệ nhiễm vi rút  
phối hợp (nhiễm từ 2 loại vi rút trở lên) có  
6,3%.  
5. Kết luận  
Ở trẻ dưới 5 tuổi tỷ lệ nhiễm vi rút ở  
nhóm hen nặng: 96,1% cao hơn rất nhiều so  
với nhóm hen nhẹ 54,5% nhiễm vi rút, sự  
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.  
Tuy nhiên ở nhóm trẻ từ 5 đến 16 tuổi thì sự  
khác biệt chưa rõ ràng với p>0,05.  
Trẻ dưới 5 tuổi có mối liên quan chặt  
chẽ giữa nhiễm RV, Cov 43, CoVNL63 với  
66  
L.Q. Chi et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 61-67  
et al. Viruses and bacteria in acute asthma  
exacerbations--a GA2LEN-DARE  
systematic review. Allergy 2011;66(4):458-  
mức độ nặng của hen với p<0,05 và  
p<0,001. Trẻ trên 5 tuổi chưa có mối liên  
quan giữa nhiễm vi rút với mức độ nặng của  
hen với p>0,05.  
9995.2010.02505.x.  
[4] Christensen A, Kesti O, Elenius V et al.  
Human bocavirus and paediatric infections.  
Lancet Child Adolesc Health 2019;3(6):418-  
Tài liệu tham khảo  
[1]Jartti T, Bønnelykke K, Elenius V et al. Role  
of viruses in asthma. Semin Immunopathol.  
2020;42(1):61-74.  
426.  
(19)30057-4.  
[5]Van TL. Identify some etiologies and risk  
factors in children with pneumonia lasting  
more than 2 weeks at the respiratory  
department of Thanh Hoa Children’s  
Hospital. Journal of Pediatric Research and  
073/jprp.v4i1.145  
[2]Vasileiou E, Sheikh A, Butler C et al.  
Effectiveness of Influenza Vaccines in  
Asthma: A Systematic Review and Meta-  
Analysis. Clin Infect Dis 2017;65(8):1388-  
[3]Papadopoulos NG, Christodoulou I, Rohde G  
67  
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 1560
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa một số vi rút với mức độ nặng của cơn hen phế quản cấp ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcorrelation_between_certain_viruses_and_severity_of_acute_as.pdf