Đồ án Nghiên cứu các điều kiện nuôi cấy thu sinh khối và các phương pháp thu hoạch, bảo quản tảo Spirulina platensis

Đồ án tốt nghiệp  
1
MỞ ĐẦU  
Trong những năm cuối cùng của thế kỉ 20, các nhà sinh học đã phát hiện ra  
các nhóm sinh vật tốc độ sinh trưởng nhanh. Vi tảo (Microalgae) là những  
sinh vật bậc thấp có trong sự chú ý đó vì chúng không chỉ những cơ chế đặc  
thù mà còn sinh trưởng và phát triển cực kì nhanh. Hàng năm có 200 tỉ tấn chất  
hữu cơ được tạo thành trên toàn thế giới, trong số đó 170- 180 tỉ tấn là do tảo tạo  
thành. Vi tảo chiếm 1/3 sinh khối của thực vật trên trái đất.  
Cho đến nay hàng loạt các công nghệ nuôi trồng, thu hoạch, chế biến sinh khối  
vi tảo, các loại công nghệ này đang không ngừng được hoàn thiện, hạ giá thành  
và nâng cao chất lượng sinh khối, mặt khác sử dụng vi tảo đang được mở rộng  
trong các lĩnh vực như dùng làm thức ăn bổ dưỡng cho người thức ăn cho  
động vật, đặc biệt là các ngành nuôi trồng thủy sản, nguồn phân bón sinh học,  
năng lượng sạch, các hóa chất trong công nghiệp dược phẩm, xử lý môi  
trường.  
Tuy ở nước ta đã nhiều nghiên cứu về loại tảo này nhưng quy mô ứng dụng  
còn chưa rộng. Hiện tại ở Đà Nẵng vẫn chưa cơ sở nào sản xuất sinh khối để  
phục vụ cho các ngành thực phẩm và y học, sở dĩ như thế là do thành phần môi  
trường nuôi cấy còn sử dụng quá nhiều hóa chất nên môi trường nuôi cấy đắt, do  
đó kém kinh tế dẫn đến chi phí đầu tư cao, các điều kiện để nuôi cấy cũng chưa  
tốt nhất phương pháp thu nhận sinh khối tảo chưa được triệt để, hiệu quả chưa  
cao. Ngoài ra, cũng chưa phương pháp bảo quản giống tốt trong một thời gian  
dài để chủ động được nguồn giống để giảm chi phí sản xuất cho những đợt sau.  
Trước những lý do như thế chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu các điều kiện  
nuôi cấy thu sinh khối và các phương pháp thu hoạch, bảo quản tảo  
Spirulina platensis”. Nhằm mục đích tìm ra môi trường ít thành phần hóa chất,  
rẻ tiền, phương pháp thu hoạch tốt và các phương pháp bảo quản giống trong một  
thòi gian dài để chủ động trong quá trình nuôi cấy và mang lại tính kinh tế.  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
2
PHẦN I  
TỔNG QUAN TÀI LIỆU  
1.1. Giới thiệu chung về đối tượng thí nghiệm  
1.1.1. Vai trò, vị trí của tảo Spirulina trong công nghệ sinh học (CNSH)  
Công nghệ sinh học một lĩnh vực công nghệ cao dựa trên nền tảng khoa học  
về sự sống, kết hợp với quy trình và thiết bị kỹ thuật nhằm tạo ra các công nghệ  
khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào thực vật động vật để sản  
xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm sinh học chất lượng cao phục vụ cho  
lợi ích, nhu cầu của con người đồng thời phát triển kinh tế- hội bảo vệ môi  
trường [30].  
Trong tự nhiên vai trò của giới tảo (Algae) nói chung, nhất tảo biển với vai  
trò quang hợp gắn giữ cacbonic đã tạo ra khoảng 500 tỷ tấn chất hữu cơ thể  
sử dụng được (trong đó nhiều hoạt chất sinh học quý) và thải ra 90% lượng  
oxy trong bầu khí quyển cần cho sự hấp của người động vật. Chính điều  
này đã kích thích nghề nuôi tảo biển ra đời đặc biệt xuất hiện Công nghệ sinh  
học vi tảo với bộ 3 nổi tiếng Chlorella, Scenedesmus Spirulina, chúng có  
nhiều giá trị trong công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm dược phẩm... Trong 3  
nhóm tảo trên thì Spirulina hiện được chọn để phát triển sản xuất hơn 2 loại kia  
do 5 ưu thế sau:  
- Hiệu quả kinh tế cao và góp phần bảo vệ, cải thiện môi trường: Spirulina  
không những đơn giản trong nhu cầu dưỡng chất mà còn rất hiệu quả trong sử  
dụng năng lượng ánh sáng mặt trời, nước (có thể dùng nước biển, nước lợ, nước  
mặn,...)…, tạo ra 16,8 tấn oxy/năm... Điều này giúp bảo vệ môi trường khí  
quyển, giảm hiệu ứng nhà kính (green house).  
- Giá trị sử dụng đã vượt ra khỏi ranh giới truyền thống là dùng làm thực  
phẩm. Theo Thạc sĩ- Dược sĩ Văn Lăng, giảng viên Trường Đại học Y Dược  
TpHCM, Spirulina nguồn dinh dưỡng quý của tự nhiên. Nó có đủ các thành  
phần thiết yếu: protein- lipid- glucid cùng khoảng 30 vi lượng hầu hết các  
vitamin cần thiết cho cơ thể, đáp ứng hoàn hảo công thức chuẩn về chế phẩm  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
3
dinh dưỡng- vi lượng khoáng- vitamin do FAO/WHO công bố và là sản phẩm cải  
thiện suy dinh dưỡng rất tốt cho trẻ em, người già, người bệnh sau phẫu thuật...  
Mặt khác, với các hoạt chất: Phycocyanin, Sulfolipid, Spirulan, Betacaroten, các  
khoáng vi lượng (coban, kẽm, sắt…) và các vitamin cần thiết, tảo Spirulina còn  
có giá trị dược liệu, giúp cơ thể tăng cường miễn dịch, chống lại bệnh tật. thể  
dùng tảo Spirulina hỗ trợ trong điều trị các bệnh: viêm gan, suy gan, đục thủy  
tinh thể, suy giảm thị lực, rụng tóc… Song song đó, tảo Spirulina cũng có tác  
dụng trong phòng chống một số bệnh ung thư do các hoạt chất tăng cường miễn  
dịch, chống oxy hóa, bảo vệ tế bào, chống đột biến gen. Năm 1996- 1997, một  
nhóm nhà khoa học người Nhật đã phân lập và xác định cấu trúc một hoạt chất  
mới trong Spirulina đặt tên là Spirulan (Ca-Sp). Các thử nghiệm đã chứng tỏ  
Ca- Sp có tác dụng kháng virus HIV type 1 và virus Herpes simplex type 1 [31].  
- Tham gia vào việc xử lý môi trường: ngoài việc cung cấp dưỡng khí oxy,  
Spirulina còn có khả năng gắn giữ mạnh các cation độc như chì, thuỷ ngân,  
cadimi,... nên chúng có thể dùng để xử chất thải lỏng, xử nước thải [29].  
- Spirulina thể đối tượng chuyển tải các tiến bộ khoa học kỹ thuật rất  
hiện đại trong công nghệ sinh học:  
+ Nuôi định hướng thu các chất lợi cho dinh dưỡng trị bệnh cho người  
động vật. Đã có các tiến bộ về nuôi cấy Spirulina gắn Iod (phòng trị bệnh  
thiếu vi chất iod), gắn Selen, gắn Germani (chất chống oxy hoá, chống lão hoá,  
phòng chống ung thư...)v.v... Hoặc nuôi với những tiền chất định hướng cho sinh  
khối Spirulina giàu acid béo cần thiết, giàu beta-caroten. Sự thành công trong  
tương lai phụ thuộc vào việc chọn giống Spirulina và tìm tòi công nghệ phù hợp,  
sẽ cho những lô/mẻ sinh khối Spirulina rất có giá trị trong y dược.  
+ Spirulina với công nghệ chuyển nạp gen: Chuyển nạp gen là kỹ thuật phân  
lập gen từ cơ thể cho (donor) cấy ghép vào bộ máy di truyền của cơ thể nhận  
(receiver) nhằm tạo ra tính trạng mới cần thiết từ cơ thể đó. Kỹ thuật tân tiến này  
đang được nghiên cứu với Spirulina 2 hướng sau:  
Chuyển gen chịu trách nhiệm di truyền tạo phao khí của Spirulina giúp vi  
sinh vật nổi trên mặt nước dễ dàng. Ta biết muốn phòng trừ bệnh sốt rét phải diệt  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
4
muỗi Anopheles stopenis, bệnh sốt xuất huyết phải diệt muỗi Aedes aegypti, bệnh  
giun chỉ phải diệt muỗi Culex quinquefasciatus. Một cách hiệu quả cắt đứt vector  
truyền bệnh này là diệt ấu trùng (bọ gậy, lăng quăng...) của chúng. Hiện một số  
nghiên cứu cho thấy những vi sinh vật, hoặc vi nấm thể thực hiện được  
điều này. Tuy vậy, việc phải sống trôi nổi trên mặt nước (môi trường ấu trùng các  
loại muỗi gây bệnh sinh sống) để diệt ấu trùng muỗi lại điểm không có hoặc  
yếu kém của các vi sinh vật này. Do vậy thể tách gen di truyền tạo phao khí  
nổi trên mặt nước của Spirulina ghép vào vi sinh vật có ích trên, tạo ra những đặc  
điểm mong muốn diệt ấu trùng muỗi gây bệnh [1].  
Chuyển nạp gen tạo chất dẻo sinh học cho Spirulina: có thể ghép vào  
Spirulina gen tạo chất polyhydroxyl butylat (P.H.B), gen này có vi khuẩn  
Aleutroplus, để tạo ra giống Spirulina mới đặc tính phát triển sinh khối nhanh,  
đồng thời chứa P.H.B với hàm lượng thích hợp. Trích ly chất P.H.B để sản xuất  
nhựa thay thế nhựa dẻo (như polystyrene) và chất dẻo mới này dễ bị phân huỷ  
không làm ô nhiễm môi trường v.v... [22].  
- Spirulina tương đối thích nghi với mọi quy mô sản xuất: thể thu hoạch từ  
tự nhiên hoặc nuôi quy mô nhỏ (hộ gia đình, làng xã), trong điều kiện bán tự  
nhiên với kỹ thuật đơn giản như nuôi trồng thuỷ sản, và nuôi quy mô công  
nghiệp [11].  
1.1.2. Phân loại học  
Mang nhiều tên gọi khác nhau như Spirulina, Arthrospira và là một chủ đề  
được thảo luận nhiều từ trước đến nay, nhất là khi cái tên “tảo” được nhắc đến  
lần đầu tiên. Năm 1852, việc phân loại học đầu tiên được viết bởi Stizenberger.  
Ông đưa ra tên loài mới Arthrospira dựa vào cấu trúc chứa vách ngăn, đa bào,  
dạng xoắn. Gomont đã khẳng định những nghiên cứu của Stizenberger vào năm  
1892, đồng thời Gomont bổ sung thêm loài không có vách ngăn Spirulina và  
loài có vách ngăn Arthrospira. Như vậy, tên được công nhận Arthrospira,  
nhưng trong những hoạt động khảo sát và nghiên cứu Arthrospira được gọi là  
Spirulina, do đó tên Spirulina được sử dụng phổ biến cho đến nay thay cho tên  
Arthrospira.  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
5
1.1.3. Đặc điểm sinh học của Spirulina  
Loài Spirulina (Arthrospira) platensis thuộc[2]:  
Chi  
Họ  
: Spirulina (Arthrospira)  
: Oscillatoriceae  
Bộ  
: Oscillatoriales  
Lớp  
: Cyanophyceae  
Ngành : Cyanophyta  
Hình 1.1: Tảo Spirullina platensis  
1.1.3.1. Đặc điểm hình thái  
Tên “Spirulinaxuất phát từ tiếng Latinh “helixhoặc spiralbiểu hiện hình  
dạng xoắn của nó. Spirulina tảo đa bào, dạng sợi, sống cộng sinh, các tế bào  
được phân biệt bởi vách ngăn, dạng sợi xoắn hình lò xo không phân nhánh, số  
vòng xoắn lớn nhất là 6- 8 vòng đều nhau. Đường kính xoắn khoảng 35- 50m,  
bước xoắn là 60m, chiều dài sợi tảo thể đạt 250m. Nhiều trường hợp  
Spirulina có kích thước lớn hơn. Các vách ngang chia sợi Spirulina thành nhiều  
tế bào riêng rẽ liên kết với nhau bằng cầu liên bào. Sợi tảo Spirulina khả năng  
chuyển động tự vận động theo kiểu trượt quanh trục của sợi [13].  
1.1.3.2. Đặc điểm cấu tạo  
Tế bào Spirulina cấu trúc giống với sinh vật Prokaryote thiếu các hạt liên  
kết với màng. Thuộc gram âm, thành tế bào nhiều lớp được bao bọc bởi màng  
polysaccharide nhầy. Thành tế bào Spirulina không chứa celulose mà hệ tiêu hóa  
con người không phân cắt được. Spirulina tỷ lệ chuyển hóa quang hợp khoảng  
10% so với chỉ 3% của các thực vật sống trên cạn như đậu nành.  
Tế bào tảo Spirulina chưa có nhân điển hình, vùng nhân chỉ là vùng giàu axit  
nucleic chưa có màng nhân bao bọc, phân bố trong nguyên sinh chất. Thành tế  
bào Spirulina cấu trúc nhiều lớp, không chứa celulose mà chứa mucopolyme,  
pectin và các loại polysacharid khác. Màng tế bào nằm sát ngay dưới thành tế  
bào và nối với màng quang hợp thylakoid tại một vài điểm. Spirulina không có  
lục lạp chỉ chứa thylakoid quang hợp nằm rải rác trong nguyên sinh chất.  
Màng thylakoid bao quanh các hạt polyphosphat có đường kính 0,5- 1μ thường  
nằm ở trung tâm tế bào. Sắc tố quang hợp chính là phycocyanin, bên cạnh đó còn  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
6
có chlorophyll a. Ngoài ra, tế bào Spirulina không có không bào thực, chỉ có  
không bào chứa khí làm chức năng điều chỉnh tỉ trọng tế bào. Không bào khí có  
vai trò rất quan trọng trong việc làm cho Spirulina nổi lên mặt nước [10].  
Spirullina một chi tảo thuộc ngành tảo lam, tế bào Spirulina không có ty thể  
mạng lưới nội chất, tuy nhiên tế bào vẫn có ribosome với hệ số lắng 70S và  
một số thể vùi như hạt polyphotphat, glycogen, phycocyanin, cacboxysome và  
hạt mesosome [10].  
Thành tế bào dưới kính hiển vi điện tử hiện lên gồm 4 lớp: từ lớp L1 đến lớp  
L4 (L1, L2, L3, L4). L1 và L3 chứa vật liệu dạng sợi. L2 một peptidoglycan giống  
như ở tế bào vi khuẩn. L4 được sắp xếp chạy theo chiều dọc của trục sợi Spirulina  
[4].  
L1  
L2  
L3  
L4  
Hình 1.2. Lát cắt tế bào Spirulina  
Hình 1.2. cũng cho thấy một vách ngăn đang hình thành, vách ngăn này gồm  
ba lớp: L2 kẹp giữa hai L1, có thể hình dung như hình 1.3.  
L4  
L3  
L2  
L1  
Màng sinh chất  
L1 L2 L1  
Hình 1.3. Mô hình sắp xếp vách tế bào Spirulina  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
7
Lớp L1 và L3 chức năng vận chuyển điện tử, do đó hai lớp L2 và L4 tập  
trung các điện tử đó. Độ dày của mỗi lớp từ 10-15nm, nên độ dày của toàn bộ  
thành tế bào là khoảng 40- 60nm. Các lớp L1, L3, L4 độ dày bằng nhau, lớp L1  
lớn hơn [2].  
1.1.3.3. Đặc điểm sinh thái  
Spirulina là chi tảo lam phân bố rộng trong đất, nước ngọt, nước lợ, nước mặn  
suối nước nóng. Đây một trong khoảng 2500 loài cyanophyta cổ nhất, tự  
dưỡng đơn giản, khả năng tổng hợp các chất cần thiết cho cơ thể, kể cả các đại  
phân tử phức tạp để xây dựng tế bào và có khả năng cố định đạm rất cao, chúng  
không thể sống hoàn toàn trong tối…  
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển tảo Spirulina chịu ảnh hưởng của các  
yếu tố môi trường. Những yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, pH và thành phần dinh  
dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến quang hợp sản xuất sinh khối tế bào mà còn  
ảnh hưởng tới các hoạt động chuyển hóa của tế bào.  
a) Ảnh hưởng của ánh sáng  
Ánh sáng là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quang hợp của các sinh  
vật. Do bản chất tiền nhân của Spirulina nên ánh sáng không ảnh hưởng nhiều tới  
quá trình phát triển. Tuy nhiên, Spirulina cũng giống như nhiều loài tảo khác có  
khả năng quang tự dưỡng phụ thuộc vào ánh sáng vì đây nguồn năng lượng  
chính [28].  
Hầu hết, các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về đáp ứng của Spirulina đối  
với ánh sáng là được thực hiện dưới điều kiện phát triển quang tự dưỡng bằng  
việc sử dụng môi trường khoáng và bicarbonate như một nguồn carbon. Từ các  
nghiên cứu đó cho thấy sự phát triển của Spirulina trở nên bão hòa ở cường độ  
ánh sáng 1µmol m-2 s-1 khoảng bằng 10- 15% lượng ánh sáng mặt trời ở bước  
sóng 400- 700nm, giá trị này tùy thuộc vào điều kiện phát triển mối tương  
quang giữa chlorophyll và sinh khối [28]. Ngoài ra, cường độ chiếu sáng còn ảnh  
hưởng đến các hàm lượng các chất bên trong tế bào tảo. Một số nghiên cứu đã  
nhận định rằng khi cường độ chiếu sáng tăng thì hàm lượng của acid béo (PUFA)  
giảm [26].  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
8
Theo Seshadri & Thomas (1979), sự tác động của ánh sáng tới Spirulina bởi  
hai yếu tố chính đó thời gian và cường độ chiếu sáng. Quá trình nuôi cấy ngoài  
trời thì cường độ ánh sáng tối hảo cho Spirulina trong khoảng 20- 30klux. Về  
thực hành nuôi cấy Spirulina thì cường độ ánh sáng tối ưu là 25- 30klux, ở  
khoảng này hoạt tính quang hợp cao nhất, cần điều chỉnh đạt được khoảng cường  
độ chiếu sáng này trong nuôi cấy [11]. Ngoài ra, cường độ ánh sáng còn phụ  
thuộc vào mật độ nuôi cấy của tảo, vì khi cường độ ánh sáng cao mà mật độ tảo  
lớn thì mỗi sợi tảo vẫn nhận được cường độ ánh sáng nhỏ. Nhiều loại vi tảo có  
cường độ quang hợp bão hoà ở khoảng 33% tổng lượng cường độ ánh sáng. Vì  
vậy trong điều kiện ánh sáng có cường độ cao và thời gian chiếu sáng dài, người  
ta thấy xuất hiện hiện tượng quang ức chế thể làm tảo chết hoặc làm giảm  
đáng kể năng suất nuôi trồng [1].  
Theo Charenkova C.A (1977) thì thời gian chiếu sáng càng dài thì năng suất  
tảo Spirulina càng cao. Năng suất tảo đạt cao nhất khi chiếu sáng liên tục. Như  
vậy tảo Spirulina không có chu kỳ quang [1].  
b) Ảnh hưởng của nhiệt độ  
Trong khi ánh sáng được xem là nhân tố môi trường quan trọng nhất cho  
quang hợp của vi sinh vật thì nhiệt độ là nhân tố cơ bản nhất cho sự sống của  
sinh vật. Nhiệt độ ảnh hưởng đến tất cả hoạt động sống của vi sinh vật như quá  
trình trao đổi chất, thành phần dinh dưỡng cũng như các đặc tính sinh lý khác.  
Nhiệt độ môi trường luôn là một trong những yếu tố nhạy cảm ảnh hưởng đến bất  
kỳ sinh vật nào. Nhiệt độ môi trường nuôi là yếu tố cần đáp ứng liên tục, rất dễ  
bị chi phối và tác động bởi điều kiện xung quanh, mức độ thời gian chiếu  
sáng. Do vậy nhiệt độ một trong những yếu tố thường xuyên được theo dõi  
trong công nghệ nuôi trồng vi tảo [28].  
Spirulina phát triển ở nhiệt độ khá cao, chúng có khả năng phát triển mạnh ở  
khoảng nhiệt độ 32- 400C. Nhiệt độ cực thuận cho nuôi cấy Spirulina là 35-  
380C. Ở nhiệt độ dưới 250C Spirulina phát triển rất chậm, ở nhiệt độ trên 380C  
tảo này sẽ chết rất nhanh [21]. Tuy vậy, trong tự nhiên người ta phát hiện  
Spirulina ở những suối nước nóng đến 690C.  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
9
Ngoài ra, nhiệt độ còn ảnh hưởng đến thành phần sinh hóa của tảo. Theo một  
nghiên cứu đã cho thấy rằng: ở nhiệt độ 350C không ảnh hưởng xấu lên sản xuất  
sinh khối nhưng lại ảnh hưởng tích cực lên sản xuất protein, lipid và phenolic.  
Nhiều chủng khác nhau sẽ phát triển ở các khoảng nhiệt độ khác nhau [28].  
một mối liên hệ giữa nhiệt độ và ánh sáng trong quá trình nuôi cấy tảo.  
Giống như hai mặt đối lập của một quá trình thống nhất, chúng đều đóng vai trò  
quan trọng quyết định đến năng suất và sinh khối của Spirulina. Sinh trưởng của  
tảo đạt cao nhất với một cường độ thời gian chiếu sáng thích hợp, kèm theo nó  
một chế độ nhiệt tương đối ổn định.  
c) Ảnh hưởng của pH  
pH môi trường một trong các nhân tố quan trọng trong nuôi cấy Spirulina.  
pH tối ưu cho sự phát triển của chi này là kiềm kiềm cao. Đây ưu thế lớn  
giúp Spirulina ít bị lây nhiễm bởi các tảo khác [14].  
Tuy nhiên, pH là yếu tố nội tại luôn luôn thay đổi, không những do chế độ  
chiếu sáng, nhiệt độ hàm lượng các chất dinh dưỡng tạo nên mà còn do tác động  
ngược lại của chính trạng thái sinh trưởng của quần thể tảo. Khi tảo phát triển  
càng mạnh, pH môi trường bị thay đổi trở thành yếu tố kìm hãm cho sự sinh  
trưởng và phát triển. Do đó, pH môi trường quá cao hay quá thấp đều làm chậm  
quá trình sinh trưởng của tảo [20].  
Theo Trần Văn Tựa Nguyễn Hữu Thước (1993) thì pH môi trường từ 8,5- 9  
là pH tối ưu cho tảo Spirulina sinh trưởng và phát triển. Ở pH này, nguồn cacbon  
cơ được tảo đồng hóa nhiều nhất. Tuy nhiên pH= 10- 11 Spirulina vẫn có  
khả năng phát triển nhưng rất chậm. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng mặc dù  
Spirulina là loài tảo sống trong môi trường kiềm nhưng giá trị pH > 10,3 là có  
hại cho môi trường nuôi cấy [6].  
vậy pH được coi là yếu tố chỉ thị, phản ánh các thành phần nuôi dưỡng  
cung cấp cho môi trường nuôi dưỡng tảo, chủ yếu nguồn bicarbonat và khí  
CO2 hoà tan [11].  
d) Ảnh hưởng của thành phần dinh dưỡng  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
10  
Spirulina thể sống trong môi trường tự nhiên đến các môi trường nhân tạo  
hoặc nửa nhân tạo bằng bổ sung các chất khoáng cần thiết vào nguồn nước tự  
nhiên: nước biển, nước suối khoáng, nước khoáng ngầm, giếng khoan...  
Thành phần dinh dưỡng bao gồm cả nguyên tố đa lượng (C, N, P, K, S, Mg,  
Na, Cl, Ca và Fe) và nguyên tố vi lượng (Zn, Cu, Ni, Co,W). Tất cả điều ảnh  
hưởng đến sự sinh trưởng của tảo. Trong đó, các nguyên tố vi lượng là thành  
phần bắt buộc hay tác nhân kích thích hoạt động của nhiều hệ enzyme, có tác  
dụng thúc đẩy sinh tổng hợp chlorophyll và làm giảm sự phân hủy chlorophyll  
nhờ làm tăng độ bền vững của phức hệ liên kết giữa chlorophyll và protein.  
Ngoài ra, nhiều nguyên tố vi lượng còn làm tăng khả năng tổng hợp carotenoid  
[14]. Các nguyên tố vi lượng thật sự cần thiết cho quá trình sinh trưởng của tảo,  
tuy nhiên hàm lượng của chúng trong nước tự nhiên là rất thấp, thể không  
cung cấp đủ cho nhu cầu sinh trưởng của tảo do đó việc bổ sung vi lượng vào  
môi trường nuôi cấy hết sức cần thiết. Trong nuôi cấy tảo, vi lượng thường  
được bổ sung với một lượng rất nhỏ vì khi hàm lượng vượt quá ngưỡng chịu  
đựng của vi tảo, chúng có khả năng gây độc cho tế bào [20].  
1.1.4. Đặc điểm sinh sản  
Spirulina có hai hình thức sinh sản đó là sinh sản sinh dưỡng và sinh sản vô  
tính. Hình thức sinh sản sinh dưỡng được thực hiện bằng cách gãy từng khúc của  
sợi tảo, khúc gãy gọi là khúc tản. Từ một sợi tảo mẹ, hình thành nên những đoạn  
Necridia (gồm các tế bào chuyên biệt cho sự sinh sản). Trong các Necridia hình  
thành các đĩa lõm hai mặt sự tách rời tạo các hormogonia bởi sự chia cắt tại  
vị trí các đĩa này. Trong sự phát triển, dần dần phần đầu gắn tiêu giảm, 2 đầu  
hormogonia trở nên tròn nhưng vách tế bào vẫn chiều dày không đổi. Các  
hormogonia phát triển, trưởng thành và chu kì sinh sản được lập đi lập lại một  
cách ngẫu nhiên, tạo nên vòng đời của tảo. Kiểu sinh sản này thường gặp ở các  
sợi tảo dạng chuỗi tế bào xếp nối nhau. Trong thời kì sinh sản tảo Spirulina  
nhạt màu ít sắc tố xanh hơn bình thường [5, 13].  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
11  
Hình 1.4. Vòng đời của tảo  
Trong một số điều kiện sống không thuận lợi, Spirulina cũng khả năng tạo  
bào tử giống vi khuẩn, đó là hình thức sinh sản vô tính. Bào tử tảo chứa nhiều  
chất dinh dưỡng ở dạng dự trữ được bao bọc bởi một lớp dày, khi gặp điều  
kiện thuận lợi, chúng sẽ tạo thành sợi mới. Chu kỳ phát triển của tảo Spirulina rất  
ngắn, nuôi trong phòng thí nghiệm thì thời gian thế hệ của chỉ kéo dài trong  
24 giờ, ở điều kiện tnhiên là khoảng 3- 5 ngày [7].  
1.1.4. Thành phần dinh dưỡng của tảo Spirulina  
- Hàm lượng protein trong Spirulina thuộc vào loại cao nhất trong các thực  
phẩm hiện nay 60- 70% trọng lượng khô, cao hơn trong thịt bò 3 lần, trong đậu  
tương 2 lần. Cứ 1kg tảo xoắn Spirulina chứa 55mg vitamin B1, 40mg vitamin  
B2, 3mg vitamin B6, 2mg vitamin B12, 113mg vitamin PP, 190mg vitamin E,  
4.000mg caroten trong đó β-Caroten khoảng 1700mg (tăng thêm 1000% so với  
rốt), 0,5mg acid folic, inosit khoảng 500- 1.000mg. Phần lớn chất béo trong  
Spirulina là acid béo không no, trong đó acid linoleic 13.784mg/kg, γ-linoleic  
11.980mg/kg. Đây điều hiếm thấy trong các thực phẩm tự nhiên khác. Hàm  
lượng khoáng chất thể thay đổi theo điều kiện nuôi trồng, thông thường sắt là  
580- 646mg/kg (tăng thêm 5.000% so với rau chân vịt), mangan là 23- 25mg/kg,  
Magie là 2.915- 3.81mg/kg, selen là 0,4mg/kg, canxi, kali, phospho đều khoảng  
là 1.000- 3.000mg/kg hoặc cao hơn (hàm lượng canxi tăng hơn sữa 500%). Hàm  
lượng cacbonhydrat khoảng 16,5%, hiện nay đã những thông tin dùng glucose  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
12  
chiết xuất từ tảo Spirulina để tiến hành những nghiên cứu chống ung thư [34,  
35].  
- Tảo Spirulina chứa phong phú các acid amin cần thiết như lysin,  
threonin... rất quan trọng cho trẻ đặc biệt trẻ thiếu sữa mẹ. Hàm lượng khoáng  
chất và các nguyên tố vi lượng phong phú có thể phòng tránh bệnh thiếu máu do  
thiếu dinh dưỡng một cách hiệu quả cũng nguồn bổ sung dinh dưỡng rất tốt  
cho trẻ lười ăn [34].  
- Trong tảo Spirulina chứa nhiều loại chất chống lão hóa như β-caroten,  
vitamin E, acid γ-linoleic. Những chất này có khả năng loại bỏ các gốc tự do  
thông qua tác dụng chống ôxi hóa, làm chậm sự lão hóa của tế bào, đồng thời sắt,  
canxi có nhiều trong tảo vừa dễ hấp thụ vừa có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị  
các bệnh thường gặp ở người già như thiếu máu, xốp xương...[34].  
- thể dùng tảo Spirulina hỗ trợ trong điều trị bệnh viêm gan, suy gan, bệnh  
nhân bị cholesterol máu cao và viêm da lan tỏa, bệnh tiểu đường, loét dạ dày tá  
tràng và suy yếu hoặc viêm tụy, bệnh đục thủy tinh thể và suy giảm thị lực, bệnh  
rụng tóc. Với liều dùng vừa phải, Spirulina làm cân bằng dinh dưỡng, tổng hợp  
các chất nội sinh, tăng hormon và điều hòa sinh lý [34].  
- Tảo tiêu diệt được Candida albicans, một loại nấm thường kí sinh trong  
đường ruột của nạn nhân AIDS. Hiện nay Spirulina còn được nghiên cứu invitro,  
để ngăn chặn sự tấn công của virus HIV. Ngoài ra, tảo Spirulina những tác  
dụng đã đang được các nhà khoa học nghiên cứu [32, 33, 34].  
1.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina  
1.2.1. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina trên thế giới  
Người ta bắt đầu biết đến tảo Spirulina qua loại thức ăn Tecuitlatl của người  
dân Aztec (Mêhicô) và bánh Dihé của bộ tộc Kanembu (Cộng hòa Chad và  
Niger). Việc phát hiện và phát triển tảo Spirulina ra khắp thế giới gắn liền với  
lịch sử tìm ra châu Mỹ của Christophe Colomb năm 1492. Mãi đến năm 1960,  
khi Leonard và Comperé (người Bỉ) phân tích và công bố giá trị dinh dưỡng của  
Tecuitlatl và Dihé chứa hàm lượng protein cao thì Spirulina được giới khoa học  
quan tâm nhiều hơn. Năm 1963, Giáo Clement thuộc Viện nghiên cứu dầu hỏa  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
13  
Pháp là người đầu tiên nghiên cứu nuôi tảo Spirulina quy mô công nghiệp  
thành công. Năm 1967, nghiên cứu này đã được triển khai tại Công ty Sosa  
Texcoco Mêhicô, Spirulina đã được nuôi trồng ở quy mô lớn trên suối nước  
khoáng giàu bicacbonat. Tiếp sau đó, hàng loạt nghiệp sản xuất tảo Spirulina  
đã xuất hiện ở Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc,…[11].  
Nhu cầu về các chất có giá trị cao trong tảo Spirulina dùng để làm thuốc và  
thực phẩm chức năng ngày càng tăng. Viện Nghiên cứu truyền nhiễm virus,  
trường Y khoa Harvard, Earthrise Farms (California) gần đây công bố nghiên  
cứu của họ về khả năng ức chế sự nhân lên của virus HIV- 1 trong dòng tế bào T  
của nước chiết từ Spirulina. Nếu một người sử dụng 2- 3g tảo Spirulina sẽ giúp  
tăng cường sức khỏe khả năng tự bảo vệ của cơ thể [27]. Tảo lam Spirulina  
platensis thể chỉ thị tốt nhất cho một vài loại nước thải. Spirulina khả  
năng loại bỏ kim loại nặng cadimi trong nước thải rất tốt, do độ hấp thụ cũng như  
hiệu suất hấp thụ kim loại của rất cao [29].  
Ngoài các hướng nghiên cứu đã được chỉ ra trên, hiện nay đã nhiều công  
bố thông báo về khả năng chuyển gen ở tảo Spirulina bằng việc áp dụng công  
nghệ gen, kỹ thuật DNA tái tổ hợp đang được thực hiện ở Nhật Bản một số  
nước, nhằm mục đích tạo ra những chủng giống Spirulina những đặc tính  
mong muốn cho định hướng ứng dụng như tăng cường khả năng tổng hợp acid γ-  
linolenic hoặc tạo chất dẻo sinh học dễ phân hủy…[22].  
Việc sử dụng tảo Spirulina platensis trong các nghiên cứu về vũ trụ hướng  
triển vọng. Ý tưởng về vi hệ sinh thái tự cung tự cấp “MELISSA” (Micro  
Ecological Life Support System Alternative) cho các chuyến du hành vũ trụ sử  
dụng tảo Spirulina platensis để chuyển nước thải, CO2, phân, nước tiểu thành  
sinh khối tảo dinh dưỡng, H2O sạch và O2 cung cấp lại cho người đang được  
NASA (Cơ quan hàng không và vũ trụ Hoa Kỳ) thử nghiệm ở dạng pilot [24].  
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina ở Việt Nam  
Ở Việt Nam, tảo Spirulina được nhập nội từ Pháp năm 1972 và trở thành đối  
tượng nghiên cứu sinh lý, sinh hóa, tại Viện Sinh vật học (nay là Viện Công nghệ  
sinh học) do cố Giáo sư- TSKH. Nguyễn Hữu Thước chủ trì. Những thí nghiệm  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
14  
nghiên cứu về tác động của ánh sáng, nhiệt độ, pH đã cho phép đẩy nhanh quá  
trình thích ứng của tảo này ở điều kiện Việt Nam. Các nghiên cứu tác động của  
các nguyên tố khoáng lên sinh trưởng và quang hợp của tảo Spirulina cơ sở  
cho việc thiết lập những môi trường dinh dưỡng rẻ tiền, thích hợp cho nuôi trồng  
chúng. Chính trên nền môi trường này, Spirulina đã được đưa vào thử nghiệm  
nuôi trồng đại trà tại Nội, Bình Thuận, Bến Tre, Thành phố Hồ Chí Minh [7].  
Vào đầu thời điểm năm 1980, ở Thuận Hải, hai sản phẩm Spirulina đã được xí  
nghiệp dược phẩm TW24 tung ra thị trường dưới tên gọi “Linavina” và  
“Lactogyl” để làm thuốc bổ dưỡng. Sinh khối Spirulina cũng được các đơn vị  
như bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện phụ sản Từ Dũ, bệnh viện tỉnh Thuận Hải,  
trung tâm dinh dưỡng trẻ em thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thử nghiệm  
chống suy dinh dưỡng ở trẻ em và người già [11, 18].  
Trong khoảng thời gian 1981- 1985, Phòng Công nghệ Tảo- Viện Công nghệ  
sinh học đã hợp tác chặt chẽ với Bộ môn Hóa Công nghệ trường Đại học Bách  
khoa Hà Nội và Công ty Công nghiệp tỉnh Thuận Hải (nay là tỉnh Bình Thuận)  
để triển khai nuôi trồng Spirulina quy mô lớn tại suối nước khoáng Vĩnh Hảo  
giàu bicacbonat và các chất khoáng khác, tận dụng gió, ánh sáng, nhiệt độ cao  
quanh năm. Ban đầu, Spirulina được nuôi trồng ở quy mô 60 bể (mỗi bể 45m3)  
với năng suất 8- 10g khô/m2/ngày. Cũng trong thời gian này, hàng loạt nghiên  
cứu ứng dụng sinh khối Spirulina cho gia cầm, cá, vịt, ong, tằm cũng đã được  
thực hiện.  
Năm 1994, Nguyễn Thị Đệ đã tiến hành nghiên cứu vai trò và một số tính chất  
của phycobiliprotein chính trong tảo Spirulina [3,17].  
Năm 1996, Đặng Đình Kim, Đặng Hoàng Phước Hiền, Dương Trọng Hiền đã  
khẳng định khả năng ứng dụng của phycobleu tách chiết từ Spirulina platensis  
cho bệnh nhân ung thư. Phycobleu có tác dụng nâng cao thể trạng cho bệnh nhân  
ung thư vùng đầu, cổ trong thời gian chiếu xạ hoặc sau phẫu thuật loại sản  
phẩm này không gây phản ứng phụ nào [15].  
Năm 1997, một nhóm nhà nghiên cứu đã thử nghiệm một số đặc điểm sinh lý,  
sinh hóa của Spirulina platensis trong điều kiện chịu mặn NaCl và đã kết luận  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
15  
rằng hàm lượng chlorophyll và carotenoid có khuynh hướng tăng khi tăng nồng  
độ trong môi trường. Như vậy muốn sản xuất nhiều chlorophyll và carotenoid thì  
trong môi trường nuôi cấy thể bổ sung thêm một ít muối NaCl [12]. Năm  
2008, Hoàng Sỹ Nam, Đặng Diễm Hồng đã tiến hành nuôi trồng thử nghiệm 2  
chủng tảo Spirulina platensis CNT Spirulina platensis C1 trong các loại nước  
khoáng Thạch Thành- Thanh Hóa, Thanh Tân- Thừa Thiên Huế và Thanh Liêm-  
Hà Nam đã cho kết quả cả 3 loại nước khoáng điều thể sử dụng để nuôi  
trồng tảo, trong đó loại nước khoáng Thanh Hóa thì cho chi phí nuôi tảo giảm  
được một nửa chất lượng tảo vẫn đảm bảo để làm thực phẩm cho người và  
động vật nuôi [9].  
1.3. Các vấn đề trong nuôi tảo Spirulina platensis  
Trước tình hình nhu cầu sử dụng tảo Spirulina trong các lĩnh vực khác nhau  
ngày càng tăng ở Việt Nam, song lượng sinh khối tảo này sản xuất ra vẫn còn  
chưa đáp ứng đủ, do đó việc lựa chọn, tạo đột biến được những chủng giống tảo  
Spirulina tốt điều kiện trước tiên. Ngoài ra, phải tìm được môi trường dinh  
dưỡng thích hợp, rẻ tiền để nuôi trồng loài tảo này quy mô lớn, phù hợp với  
điều kiện khí hậu Việt Nam nhằm không ngừng nâng cao năng suất chất lượng  
sinh khối tảo điều cần được quan tâm và có ý nghĩa thực tiễn to lớn.  
*Spirulina sản xuất ra đường (carbohydrate hoặc saccharide) trong suốt quá  
trình chúng quang hợp. Khi nồng độ các chất này trở nên dư thừa trong cơ thể,  
chúng sẽ tiết ra môi trường. những chất đường nhầy nên khi sợi tảo trườn lên  
sẽ tạo ra khối nhầy và các sợi tảo sẽ không tiếp xúc được với môi trường dinh  
dưỡng nên chúng sẽ bị chết đói. Chúng ta phải cảnh giác với 3 nguyên nhân  
dẫn đến việc sản sinh đường quá mức, đặc biệt khi nhiệt độ cao đe dọa quang  
phân giải. Thứ hai là thiếu nitrogen phức hợp trong môi trường vì nitrogen phức  
hợp trong tế bào được sử dụng để chuyển hóa polysaccharide thành protein. Khi  
chúng không được chuyển hóa thành protein thì chúng sẽ tiết ra môi trường. Và  
sự thừa bicarbonate hoặc thiếu sulfur trong môi trường cũng dẫn tới làm sản sinh  
đường dư thừa [12].  
*Các vi sinh vật nhiễm tạp:  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
16  
- Động vật chân chèo (Rotifers) kích thước từ 100- 2mm  
Đôi khi một số động vật chân chèo rơi vào trong môi trường và chúng thường  
sử dụng tảo làm thức ăn. Vào ban đêm, tảo tiêu thụ oxygen và sản sinh ra CO2,  
khí này có tác dụng đầu độc động vật. vậy, nên dừng khuấy vào ban đêm và  
tảo sẽ sử dụng oxygen hòa tan và do đó động vật thiếu oxygen chúng sẽ bị chết.  
Cách khác để hạn chế động vật sử dụng chúng. Dùng một lưới dài, hình túi  
(mắt lưới đường kính 10m) gắn bên trong bể, tại các góc bên phải theo hướng di  
chuyển của môi trường nuôi cấy như vậy các động vật này sẽ bị giữ lại trên lưới.  
Những động vật này là thức ăn rất tốt cho tôm hoặc cá con [12, 38] .  
- Amoeba  
Những loài này khác với động vật nguyên sinh ở chỗ chúng ăn tảo. R.R. Kudo  
đã tả 74 loài amoeba khác nhau. Có một loài trong số chúng gây nguy hiểm  
cho người đó Entamoeba histolytica. Chúng lan truyền bằng các bào tử “hình  
trứng”, các bào tử này bị chết trong nước nhiệt độ 450C trong thời gian 1h và ở  
nhiệt độ 550C trong ít giây. Nhiệt độ bên trong của thiết bị sấy sử dụng năng  
lượng mặt trời dao động từ 50-600C và qúa trình làm khô diễn ra trong suốt 4h, vì  
vậy nguy cơ tiềm ẩn từ những sinh vật loại này bị diệt trừ gần như tuyệt đối [12].  
- Tảo  
Môi trường nuôi cấy còn bị nhiễm các loại tảo khác. Nhưng do nồng độ muối,  
pH cao của môi trường, do đó thường trở nên không thuận lợi với đa số các loài  
tảo. Ở nồng độ muối đạt 20 g/l hầu như các loài tảo bị tiêu diệt. Tuy nhiên, loài  
tảo silic Navicula, tảo xanh lục, tảo lục Chlorella vẫn sống sót được trong các  
bể nuôi Spirulina. Chúng thường sống ở đáy bể nếu như mật độ của Spirulina  
trở nên dày đặc thì ức chế các tảo khác do ánh sáng không xuống được tới đáy.  
Trong trường hợp chúng phát triển mạnh thì người ta sẽ dừng khuấy, thu vớt sinh  
khối tảo Spirulina trên bề mặt, chuyển chúng sang bể khác, tiếp theo rửa sạch bể  
để loại bỏ tảo nhiễm tạp [12, 38].  
*Môi trường nuôi cấy sau khi thu hoạch có mùi tanh nồng nếu thải ra môi  
trường sẽ bị ô nhiễm vì có tính kiềm mạnh vậy cần xử trước khi thải ra  
ngoài.  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
17  
1.4. Mật rỉ (hay rỉ đường)  
Mật rỉ sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất đường từ đó đường  
không thể kết tinh một cách kinh tế nữa bởi các công nghệ thông thường. Có hai  
loại rỉ đường: rỉ đường mía và rỉ đường củ cải. Ở Việt Nam chỉ dùng rỉ đường  
mía. So với rỉ đường củ cải thì rỉ đường mía có lượng saccharose thấp hơn nhưng  
lượng đường khử cao hơn. Rỉ đường thường chiếm khoảng 3- 5% trọng lượng  
của mía ép hay 100 tấn mía sẽ tạo ra 3- 5 tấn rỉ đường. Thành phần của rỉ đường  
mía phụ thuộc vào giống mía, thổ nhưỡng, điều kiện canh tác và công nghệ sản  
xuất.  
Rỉ đường mía thu được khi chế biến đường thô là một hỗn hợp phức tạp có  
chứa các đường lên men, các chất hữu cơ, chất chứa nitơ cũng như các hợp  
chất cơ. Trong rỉ đường có 15- 20% là nước, 80- 85% chất khô hoà tan. Trong  
chất khô có từ 25- 40 % là đường, trong đó saccharose chiếm 30-35%, đường  
glucose, fructose chiếm 15- 20%, còn lại những chất không phải đường hoà tan  
trong nước gồm có 30- 32% là các chất hữu cơ như pectin, furfurol, acid hữu cơ,  
caramen, các chất màu, acid amin, vitamin, chất kích thích sinh trưởng và 18-  
2-  
20% là chất có các ion: K+, Na+, Cl-, Ca2+, Mg2+, SO3 … [37].  
Tuy nhiên, rỉ đường cũng những đặc điểm không phù hợp cho quá trình  
nuôi cấy. Muốn sử dụng chúng cho quá trình nuôi cấy đòi hỏi phải có các quá  
trình xử lý thích hợp. Các đặc điểm cần lưu ý mật rỉ bao gồm:  
- Rỉ đường thường có màu sẫm. Màu này khó bị phá huỷ trong quá trình nuôi  
cấy. Sau nuôi cấy chúng sẽ bám vào sinh khối sinh vật và bám vào sản phẩm.  
Việc tách màu ra khỏi sinh khối sản phẩm thường rất tốn kém và rất khó khăn.  
Vì vây phải xử trước khi tiến hành quá trình nuôi cấy.  
- Hàm lượng đường khá cao (thường nằm trong khoảng 40- 50%). Lượng  
đường này chủ yếu là saccharose nên khi tiến hành lên men phải pha loãng tới  
nồng độ thích hợp.  
- Đặc điểm gây khó khăn lớn nhất cho quá trình nuôi cấy hệ keo trong mật  
rỉ. Keo càng nhiều thì khả năng hoà tan oxy càng kém và khả năng trao đổi chất  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
18  
của oxy càng kém. Do đó công việc quan trọng nhất khi sử dụng mật rỉ phải  
phá hệ keo này.  
- Vì rỉ đường chất dinh dưỡng khá lý tưởng nên chúng rất dễ bị vi sinh vật  
xâm nhập và phát triển. Như vậy chất lượng mật rỉ cũng dễ thay đổi theo thời  
gian bảo quản.  
Để giải quyết những đặc điểm không thuận lợi có trong mật rỉ đối với quá  
trình lên men, người ta thường sử dụng acid sunfuric đậm đặc với lượng 3,5kg  
cho một tấn mật rỉ. Khi cho H2SO4 vào mật rỉ, ta có ba cách thực hiện quá trình  
xử lý này :  
+ Cách thứ nhất: Khi cho 3,5kg H2SO4 vào một tấn mật rỉ, người ta khuấy đều  
ở nhiệt độ thường trong thời gian 24h, sau đó ly tâm thu dịch trong.  
+ Cách thứ hai: Khi cho 3,5kg H2SO4 vào một tấn mật rỉ, người ta đun toàn bộ  
lên 850C và khuấy đều liên tục trong 6h, sau đó ly tâm thu dịch trong.  
+ Cách thứ ba: Cho H2SO4 đến khi pH của mật rỉ đạt được giá trị là 4, người ta  
đun nóng đến 120- 1250C trong một phút để các chất cơ kết tủa, sau đó ly tâm  
thu dịch trong.  
Thực hiện một trong ba cách trên sẽ thu được dịch mật rỉ đã loại thể keo và  
màu. Từ mật rỉ đã qua xử lý này đem pha chế thành các loại môi trường nồng  
độ khác nhau.. Tuy nhiên giá trị của mật rỉ trong quá trình nuôi cấy thu nhận sinh  
khối không chỉ do lượng đường saccharose có trong mật rỉ mà còn do các loại  
muối khoáng, các chất kích thích sinh trưởng và các thành phần khác quyết định  
[15].  
1.5. Giới thiệu về hệ thống ánh sáng đèn Led trong nuôi cấy tảo  
Vấn đề môi trường đang là thách thức lớn của nhân loại. Việc thải khí CO2 của  
các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch được coi là một trong những  
nguyên nhân chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính làm cho khí hậu nóng dần lên, dẫn  
đến hàng loạt những biến đổi khí hậu trên thế giới trong những năm gần đây. Do  
vậy, tiết kiệm điện năng vấn đề của tất cả các quốc gia trên thế giới không  
phân biệt nước giàu hay nghèo. Tiết kiệm điện năng trước hết sử dụng hợp  
lý các thiết bị tiêu thụ điện trong đó có các thiết bị chiếu sáng, tạo ra môi trường  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
19  
ánh sáng tiện nghi cho con người mà còn tiết kiệm chi phí cho điện năng tiêu thụ  
và các chi phí khác. Nhưng trong hoàn cảnh thiếu hụt điện năng như bây giờ, đèn  
Led là lựa chọn số 1, vừa bởi hiệu quả chiếu sáng cao, vừa bởi hiệu quả tiết kiệm  
điện [16].  
LED là viết tắt của Light-Emitting-Diode có nghĩa “đi-ốt phát sáng” là một  
nguồn sáng phát sáng khi có dòng điện tác động lên nó. Được biết tới từ những  
năm đầu của thế kỷ 20, công nghệ LED ngày càng phát triển từ những diode phát  
sáng đầu tiên với ánh sáng yếu đơn sắc đến những nguồn phát sáng đa sắc,  
công suất lớn và cho hiệu quả chiếu sáng cao.  
Hình 1.5: Đèn Led và hệ thống đèn Led xanh dùng trong nuôi tảo  
Hoạt động của LED dựa trên công nghệ bán dẫn. Trong khối điốt bán dẫn,  
electron chuyển từ trạng thái có mức năng lượng cao xuống trạng thái có mức  
năng lượng thấp hơn sự chênh lệch năng lượng này được phát xạ thành những  
dạng ánh sáng khác nhau. Màu sắc của LED phát ra phụ thuộc vào hợp chất bán  
dẫn đặc trưng bởi bước sóng của ánh sáng được phát ra.  
Một đặc điểm của đèn LED là ít tiêu hao năng lượng và không nóng. Bóng  
đèn truyền thống, đèn neon, đèn halogen... đều cần từ 110- 220V mới cháy được,  
trong khi đèn LED trắng chỉ cần từ 3- 24V để phát sáng. Nhiệt độ làm việc của  
bóng đèn LED cao hơn nhiệt độ môi trường khoảng 5- 80C, thấp hơn so với đèn  
huỳnh quang thông thường khoảng 13- 250C. Đèn LED có hiệu suất sáng cao  
hơn, do đó tiết kiệm khoảng 75% điện năng so với các đèn chiếu sáng thông  
thường. LED còn có tính chất sáng nhanh, tắt nhanh nên khi nhiệt chưa tạo ra thì  
đã ngắt dòng điện, cho nên nhiệt độ tỏa ra không nhiều (nhiệt là nguyên nhân  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Đồ án tốt nghiệp  
20  
chính làm giảm tuổi thọ cho các thiết bị chiếu sáng). Đèn LED có tuổi thọ rất cao  
vượt qua 50.000 giờ (tương đương với 6 năm thắp sáng liên tục). Chất lượng ánh  
sáng thân thiện, không tia cực tím, không bức xạ tia hồng ngoại, phát nhiệt của  
ánh sáng thấp, không chứa thủy ngân và những chất hại… không nhấp nháy,  
không gây nhức mỏi mắt [36].  
Do ít tiêu hao năng lượng nên đèn LED có thể sử dụng ở vùng sâu vùng xa mà  
không cần nhà máy phát điện công suất cao. Đèn LED trắng thể sử dụng với  
pin mặt trời gần đây nhất với pin nhiên liệu chạy bằng hỗn hợp nước rượu.  
Đèn pin dùng LED trắng thể sử dụng dễ dàng khi bị mất điện, chỉ cần vài  
cục pin vẫn thể thắp sáng được đèn.  
Hiện nay đèn Led được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu về quang  
sinh học như sự tổng hợp chlorophyll ( Tripathy và Brown, 1995), quang hợp  
(Tennessen và cộng sự, 1994) và phát sinh hình thái ( Hoenecke và cộng sự,  
1992; Robin và cộng sự, 1994) [16].  
Một vài loại cây trồng được báo cáo là đã trồng thành công dưới hệ thống Led  
như: cây tiêu, dưa, lúa mỳ, bó xôi ( Bula và cộng sự, 1991; Hoenecke, 1992;  
Brown và Schuerger, 1994; Yanagi và Okamoto, 1994), những cây khoai tây  
nuôi cấy trong ống nghiệm ( Miyashita và cộng sự, 1995) [16].  
Từ 1996 đến 2007, Dương Tấn Nhựt cộng sự đã ứng dụng thành công hệ  
thống phát sáng Led trên một số loại cây trồng như dâu tây, bạch đàn, hồ điệp,  
lan, cúc…Những cây trồng nuôi cấy dưới hệ thống đèn Led không những sinh  
trưởng phát triển tốt ở điều kiện invitro mà còn cả ở điều kiện exvitro. Những  
nghiên cứu về giải phẫu học, quang hợp cũng chứng minh rằng những cây nuôi  
cấy dưới hệ thống đèn Led thì tốt hơn khi so sánh với hệ thống chiếu sáng bằng  
đèn neon.  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo  
GVHD: TS. Đặng Đức Long  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 66 trang yennguyen 04/04/2022 2960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đồ án Nghiên cứu các điều kiện nuôi cấy thu sinh khối và các phương pháp thu hoạch, bảo quản tảo Spirulina platensis", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docdo_an_nghien_cuu_cac_dieu_kien_nuoi_cay_thu_sinh_khoi_va_cac.doc