Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phác đồ hóa trị Docetaxel, Cisplatin và S-1 (DC-S) trong điều trị ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa di căn
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA PHÁC ĐỒ HÓA TRỊ
DOCETAXEL, CISPLATIN VÀ S-1 (DC - S) TRONG ĐIỀU TRỊ
UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN TIẾN XA DI CĂN
1
1
1
LÂM PHƯƠNG NAM , TRẦN THỊ NGỌC MAI , LÂM QUỐC TRUNG ,
1
1
NGUYỄN THỊ DIỆU THÚY , TRẦN VĨNH THỌ
TÓM TẮT
Tổng quan: Ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa và di căn có tỷ lệ tử vong cao. Chúng tôi đã ứng dụng
phác đồ docetaxel, cisplatin và S-1 trong điều trị bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa di căn chưa
từng hóa trị tại khoa Hóa trị ung thư bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 38 bệnh nhân ung thư dạ dày thỏa các tiêu chí: Ung thư dạ
dày mới chẩn đoán, chưa từng điều trị trước đó; Có giải phẫu bệnh là carcinom tuyến; Giai đoạn tiến xa
hoặc di căn không thể phẫu thuật; Đã hóa trị với phác đồ DC-S (docetaxel - cisplatin + S-1) ít nhất 1 chu
kỳ; Có thể trạng tốt (ECOG 0-2).
Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng: Không có trường hợp nào đạt đáp ứng hoàn toàn. 34,21% bệnh nhân có đáp
ứng một phần, 50% trường hợp bệnh ổn định, và có 15,79% trường hợp bệnh tiến triển. Tỷ lệ sống còn
không bệnh tiến triển 1 năm là 25,06% (KTC 95%: 10,86 - 42,21%), trung vị PFS là 7,7 tháng (dao động
2 - 13,57 tháng). Phân tích đơn biến cho thấy nhóm có đáp ứng hóa trị sẽ có sống còn tốt hơn so với
nhóm bệnh tiến triển. Về độc tính của hóa trị: tỷ lệ giảm bạch cầu hạt là 73,68%, 23,68% trường hợp bị
giảm bạch cầu hạt độ 3 - 4. Tỷ lệ tăng men gan (AST/ALT) là 23,68%. 10,52% trường hợp có tăng
creatinine máu độ 1 - 2. Các biến cố bất lợi khác được ghi nhận trong nghiên cứu gồm chán ăn, viêm
miệng, buồn nôn/ nôn và tiêu chảy, đều ở mức độ 1 - 2.
Kết luận: DC-S là phác đồ hóa trị đem lại tỷ lệ đáp ứng cao và dung nạp được đối với bệnh nhân ung
thư dạ dày giai đoạn tiến xa và/hoặc di căn.
nghiệm lâm sàng được tiến hành, hiện tại không có
phác đồ nào được xem là tiêu chuẩn trong điều trị
bước 1 ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa, di căn có
thụ thể HER2 âm tính[2].
GIỚI THIỆU
Ung thư dạ dày vẫn là vấn đề sức khỏe toàn
cầu trong nhiều năm qua. Theo thống kê mới nhất từ
Globocan 2018, ung thư dạ dày đứng hàng thứ 5
sau ung thư phổi, vú, đại trực tràng và tiền liệt tuyến,
tuy nhiên, đây lại là nguyên nhân gây tử vong do ung
thư đứng hàng thứ 3. Đặc biệt, ung thư dạ dày vẫn
có tần suất cao tại các nước Đông Á[1]. Ung thư dạ
dày ở giai đoạn tiến xa, di căn là bệnh lý không thể
điều trị khỏi. Mục tiêu điều trị lúc này là giảm nhẹ
triệu chứng và kéo dài sống còn. Điều trị toàn thân là
phương pháp điều trị hiệu quả nhất. Môt số hóa chất
đã được dùng trong điều trị ung thư dạ dày, bao
gồm fluoropyrimidine, platinum (cisplatin, oxaliplatin),
taxane, và irinotecan. Mặc dù đã có rất nhiều thử
Fluoropyrimidine là một biểu tượng của thuốc trị
ung thư, và trong số đó, 5-FU đã trở thành loại được
sử dụng phổ biến nhất. Các nghiên cứu tiền lâm
sàng về hóa dược đã đưa đến S-1, là sự kết hợp
của tegafur và 2 loại chất điều hòa 5-FU là gimeracil
(CDHP), và oteracil (oxonate), với tỷ lệ phân tử
1:0,4:1, giúp tăng hoạt tính kháng bướu và giảm độc
tính đường tiêu hóa của 5-FU[3].
Trong các nghiên cứu tại Nhật Bản, S-1 giúp cải
thiện tỷ lệ đáp ứng lên tới 48%, và còn cho thấy là
một điều trị phù hợp cho bệnh nhân ngoại trú vì có ít
Ngày nhận bài: 05/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020
Địa chỉ liên hệ: Lâm Phương Nam
Email: nam.lp@umc.edu.vn
1 Khoa Hóa trị ung thư - Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM
215
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
tác dụng phụ. Sau nghiên cứu đơn trị, các nghiên
cứu bắt đầu tăng cường hiệu quả của S-1 bằng kết
hợp với các thuốc hóa trị khác với cơ chế hoạt động
khác. Nghiên cứu pha I/II cho thấy việc kết hợp S-1
với cisplatin cho tỷ lệ đáp ứng lên tới 74% và OS đạt
383 ngày, với độc tính chấp nhận được[6]. Và sau
đó, nghiên cứu pha III so sánh giữa phác đồ phối
hợp với đơn trị (nghiên cứu SPIRITS), cho thấy phối
hợp S-1 và cisplatin cải thiện tỷ lệ đáp ứng (54% so
với 31%), kéo dài PFS (6 tháng so với 4 tháng) và
OS (13 tháng so với 11 tháng) so với S-1 đơn thuần
trong ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển, và đây trở
thành phác đồ điều trị tiêu chuẩn tại Nhật Bản[5].
Tuy nhiên, kinh nghiệm sử dụng S-1 ở các nước
khác ngoài Nhật Bản còn khá hạn chế. Một nghiên
cứu pha III cũng được tiến hành để xác định hiệu
quả thì cho thấy phác đồ S-1 và cisplatin không khác
biệt với phác đồ 5-FU kết hợp cisplatin về tỷ lệ đáp
ứng, PFS, và OS (nghiên cứu FLAGS)[6].
+ Di căn hạch cạnh động mạch chủ bụng
nhóm 16a2 và 16b1 ≥1cm trên CT-scan bụng.
- Có thể được phẫu thuật không triệt để (nối vị -
tràng, mở nuôi ăn, nội soi ổ bụng) trước hóa trị, hoặc
không.
- Đã hóa trị với phác đồ docetaxel - cisplatin +
S-1 ít nhất 1 chu kỳ.
- Có thể trạng tốt (ECOG 0-2).
- Có chức năng tủy xương trong giới hạn cho
phép để hóa trị: bạch cầu hạt >2G/L, tiểu cầu
>100G/L.
- Có chức năng gan - thận trong giới hạn cho
phép để hóa trị: AST, ALT < 1,5 lần giới hạn bình
thường cao, ure, creatinine trong giới hạn bình
thường.
Những bệnh nhân có những tiêu chí sau sẽ bị
loại khỏi nghiên cứu:
Việc phối hợp thêm Docetaxel vào phác đồ S-1
và cisplatin (phác đồ DC-S) đã đem lại nhiều kết quả
đáng mong đợi. Các nghiên cứu pha I và pha II đã
cho kết quả tỷ lệ đáp ứng với phác đồ DC-S từ
76,9 - 87,1%. Tiếp theo đó, nghiên cứu hồi cứu của
Kinoshita (2015) thực hiện trên 57 bệnh nhân ung
thư dạ dày giai đoạn IV điều trị với phác đồ DCS.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đáp ứng một phần
đạt 73,7%, 14% bệnh ổn định, chỉ có 5,3% bệnh tiến
triển. Hơn nữa, có 34 trường hợp (59,6%) được
thực hiện phẫu thuật đảo ngược sau hóa trị, với gần
80% đạt diện cắt R0. Nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ sống
còn toàn bộ 1 năm và 2 năm đạt lần lượt là 70,6%,
và 49,6%[8]. Tại bệnh viện Đại học Y Dược
TP. HCM, chúng tôi đã áp dụng phác đồ DC-S trong
hóa trị ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa - di căn từ
vài năm nay. Nghiên cứu được tiến hành với các
mục tiêu: đánh giá tỷ lệ đáp ứng, và tỷ lệ sống còn
không bệnh tiến triển 1 năm.
- Đã từng hóa trị - xạ trị trước đó vì bệnh lý ung
thư khác.
- Ung thư dạ dày đã điều trị tái phát/ tiến triển.
Phác đồ dùng trong nghiên cứu
Trong nghiên cứu sử dụng phác đồ DC-S,
trong đó:
- Docetaxel 35mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
và ngày 15, chu kỳ 28 ngày.
- Cisplatin 35mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1 và
ngày 15, chu kỳ 28 ngày.
- S-1 80mg/m2/ngày, chia 2 lần uống mỗi ngày,
trong 14 ngày, chu kỳ 28 ngày.
Đánh giá đáp ứng theo tiêu chuẩn RECIST 1.1.
Độc tính của hóa trị sẽ được đánh giá theo tiêu
chuẩn CT-CAE 4.0.
ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phép kiểm được sử dụng gồm Chi bình
phương đối với biến định tính, phép kiểm t-student
với biến định lượng. Biến sống còn được ước tính
theo phương pháp Kaplan-Meier, và phân tích đơn
biến bằng phép kiểm Log-rank, phân tích đa biến
bằng hồi qui Cox, với giá trị p < 0,05 được xem là có
ý nghĩa thống kê.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên 38
bệnh nhân ung thư dạ dày điều trị tại khoa Hóa trị ung
thư - Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM từ
01/01/2018 đến hết 31/12/2018, thỏa các tiêu chí sau:
- Ung thư dạ dày mới chẩn đoán, chưa từng
điều trị trước đó.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
- Có giải phẫu bệnh là carcinom tuyến.
Chúng tôi ghi nhận có 38 trường hợp thỏa tiêu
chí nghiên cứu. Giới nam chiếm phần lớn trong
nghiên cứu, với 24 trường hợp, chiếm 63,16%.
Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu là 51,68 ± 12,53
tuổi, với trung vị tuổi là 54 tuổi. Giai đoạn T trong
nghiên cứu được đánh giá theo phân loại TNM của
AJCC/UICC phiên bản 8. Chúng tôi ghi nhận có
- Giai đoạn tiến xa hoặc di căn không thể phẫu
thuật:
+ Bướu lớn, xâm lấn các tạng lân cận.
+ Di căn gan, phúc mạc, hoặc các tạng trong
ổ bụng.
216
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
55,56% là bướu T4a, xâm lấn đến thanh mạc dạ
dày, và 44,44% bướu T4b. Trong 38 trường hợp
được nghiên cứu, thì có 4 trường hợp không ghi
nhận di căn xa trước mổ (chiếm 10,53%), còn lại 34
trường hợp di căn xa (chiếm 89,47%). Vị trí di căn
thường được ghi nhận nhất là di căn phúc mạc, di
căn hạch cạnh động mạch chủ bụng và gan.
Nghiên cứu của Kinoshita trên 57 trường hợp
ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa - di căn, điều trị với
phác đồ DC-S giống với chúng tôi, cũng có kết quả
tốt hơn nghiên cứu của chúng tôi: không có trường
hợp nào đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần
chiếm 73,7%, bệnh ổn định chiếm 14%. Chỉ có 3
trường hợp bệnh tiến triển, chiếm 5,3%[8].
Có 37 trường hợp ghi nhận được vị trí bướu
trước điều trị, trong đó có 3 trường hợp bướu ở tâm
vị (chiếm 8,11%), 9 trường hợp bướu ở thân vị
(24,32%), bướu ở hang môn vị chiếm phần lớn với
20 trường hợp (54,05%), và 5 trường hợp bướu
dạng lan tỏa chiếm toàn bộ dạ dày (litinis plastica)
(13,51%). Các đặc điểm của dân số nghiên cứu trên
đây cũng khá phù hợp với các nghiên cứu trước đây
trên thế giới về ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa.
Nghiên cứu hồi cứu của Ohnuma trên 111
trường hợp ung thư dạ dày tiến xa - di căn hóa trị
với phác đồ DC-S, cho kết quả tốt hơn so với chúng
tôi rất nhiều, với tỷ lệ đáp ứng toàn bộ (ORR) là
83,3% ở nhóm không di căn phúc mạc và 82,4% ở
nhóm di căn phúc mạc nhẹ, 80% ở nhóm di căn
phúc mạc nhiều[11]. Một nghiên cứu khác tại Nhật
Bản với 259 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn
di căn, được hóa trị với nhiều phác đồ khác nhau,
gồm cisplatin-S1, docetaxel-cisplatin-S1, cisplatin-
Trong 38 trường hợp, chúng tôi ghi nhận có 19
trường hợp được phẫu thuật trước, chiếm 50%.
Trong các phẫu thuật trước hóa trị này, thì chỉ có 5
trường hợp là được cắt bán phần hoặc toàn phần
dạ dày làm sạch kèm nạo hạch D2, chiếm 26,32%.
Lý do của các phẫu thuật làm sạch này phần lớn vì
biến chứng của ung thư dạ dày (thủng, xuất huyết
tiêu hóa, hoặc hẹp môn vị nặng). Còn lại là phần lớn
là phẫu thuật nối tắt (nối vị tràng) hoặc phẫu thuật
mở dạ dày / hỗng tràng ra da nuôi ăn, hoặc chỉ nội
soi ổ bụng thám sát kèm sinh thiết.
capecitabine,
irinotecan-S1,
cisplatin-paclitaxel,
nghiên cứu này cho thấy phần lớn bệnh nhân đạt
đáp ứng ở mức bệnh ổn định (49,8%), với tỷ lệ đáp
ứng toàn bộ là 36,3% và tỷ lệ kiểm soát bệnh là
86,1%[12]. Kết quả này tương tự như trong nghiên
cứu của chúng tôi. Gợi ý rằng phác đồ DC-S tại dân
số Việt Nam trên đối tượng ung thư dạ dày giai đoạn
trễ cũng đạt đáp ứng tương tự như các phác đồ hóa
trị khác.
Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng ghi nhận
những trường hợp đạt đáp ứng một phần có thể
chuyển phẫu thuật đảo ngược (conversion surgery):
6/38 trường hợp có thể phẫu thuật cắt dạ dày (bán
phần/ toàn phần) kèm nạo hạch D2, và đạt diện cắt
R0 sau phẫu thuật, chiếm 15,79%. Những trường
hợp này đều được làm rửa dịch ổ bụng làm tế bào
học để xác định tình trạng di căn phúc mạc, và đều
có kết quả âm tính. Phẫu thuật đảo ngược được
định nghĩa là phẫu thuật nhắm tới đạt diện cắt R0
cho những trường hợp trước đó không thể phẫu
thuật sau khi đã đạt đáp ứng tố với hóa trị[12]. Phẫu
thuật đảo ngược với diện cắt R0 giúp cải thiện sống
còn, trong đó hóa trị trước là phương pháp có nhiều
tiềm năng nhất. Nghiên cứu của Mieno và
Yamaguchi cho thấy phẫu thuật đạt R0 có tỷ lệ sống
còn cao hơn đáng kể so với nhóm còn bướu R1/R2,
và những trường hợp có phẫu thuật đảo ngược
cũng tốt hơn những trường hợp không thể phẫu
thuật[13],[12]. Nghiên cứu của Yamguchi trên 259 bệnh
nhân ung thư dạ dày di căn, được hóa trị nhiều phác
đồ khác nhau, thì ghi nhận tỷ lệ phẫu thuật đảo
ngược cũng ở mức 32,4%, cao hơn so với nghiên
Tỷ lệ đáp ứng
Dựa trên tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng của
RECIST và theo đánh giá của bác sĩ chẩn đoán hình
ảnh kết hợp với bác sĩ điều trị, chúng tôi ghi nhận
không có trường hợp nào đạt đáp ứng hoàn toàn, có
13 trường hợp đạt đáp ứng một phần (34,21%),
19 trường hợp bệnh ổn định (50%) và 6 trường hợp
bệnh tiến triển (15,79%).
Tại Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Đinh Thị
Hải Duyên công bố năm 2017 với phác đồ TCX
(paclitaxel-carboplatin-capecitabine) trên 30 trường
hợp ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa-di căn, thì tỷ lệ
đáp ứng hoàn toàn là 3,3%, 40% đáp ứng một phần,
và 46,7% bệnh ổn định[9]. Tỷ lệ này cũng khá tương
đồng với chúng tôi, trên cùng một cỡ mẫu tương đối
nhỏ. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Hùng với phác đồ docetaxel-cisplatin, không có sự
kết hợp của S-1, cho thấy tỷ lệ bệnh tiến triển lên tới
29,1%, điều này có thể gợi ý tính hiệu quả khi kết
hợp thêm S-1 trong điều trị. Tác giả ghi nhận yếu tố
có liên quan đến đáp ứng điều trị là liều điều trị đạt
cứu của chúng tôi[12]
.
100%[10]
.
217
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Tỷ lệ sống còn không bệnh tiến triển 1 năm
Biểu đồ 1. Biểu đồ Kaplan-Meier về sống còn không bệnh tiến triển
Qua 38 trường hợp nghiên cứu, với thời gian theo dõi trung vị là 9,2 tháng, có 26/38 biến cố PFS xảy ra
(chiếm 68,42%). Chúng tôi ghi nhận trung vị thời gian sống còn không bệnh tiến triển là 7,7 tháng, trung bình
7,59 ± 3,25 tháng (2 - 13,57 tháng). Tỷ lệ sống còn không bệnh tiến triển 1 năm là 25,06% (khoảng tin cậy
95%: 10,86 - 42,21%).
Phân tích sống còn bằng phép kiểm Log-rank, chúng tôi ghi nhận yếu tố lớn tuổi và có đáp ứng với điều trị
thì có liên quan với sống còn không bệnh tiến triển tốt hơn. Phân tích này cũng thực hiện với nhiều yếu tố khác
tuy nhiên không phát hiện sự khác biệt có ý nghĩa trong các phân nhóm. Điều này có thể thấy, việc phẫu thuật
cắt dạ dày làm sạch trước hóa trị đối với những trường hợp đã tiến xa hoặc di căn có thể không đem lại lợi ích
gì về mặt sống còn. Phẫu thuật đảo ngược sau hóa trị giúp cải thiện tiên lượng sống còn, tuy nhiên không đạt
ý nghĩa thống kê, điều này có thể do phân phối không đều trong các phân nhóm và do cỡ mẫu nhỏ.
Bảng 1. Phân tích dưới nhóm về PFS 1 năm
Phân nhóm
Nhóm tuổi: ≤ 60/ >60
Tỷ lệ PFS 1 năm (%)
18/50
Giá trị p
0,0385
0,523
0,586
0,121
0,544
0,109
0,55
Giai đoạn T: T4a/T4b
30, 0/22, 50
Giai đoạn N: N1/N2/N3
33, 33/11, 76/43, 08
10/28, 11
Giai đoạn M: M0/M1
Di căn gan: có/không
14, 29/27, 96
37, 88/15, 63
19, 23/33, 33
20, 0/45, 71
Di căn phúc mạc: có/không
Di căn hạch dọc động mạch chủ bụng: có/ không
Cắt dạ dày trước hóa trị: có/ không
Đáp ứng hóa trị: PR/ SD/ PD
Phẫu thuật đảo ngược sau hóa trị: có/ không
0,159
0,00
27, 69/31, 58/0
55, 56/18, 75
0,0519
hưởng đến PFS không và cũng không thấy khác biệt
có ý nghĩa giữa các nhóm. Tác giả chỉ ghi nhận một
yếu tố tiên lượng độc lập với PFS là thể trạng tốt
So sánh với các nghiên cứu tại Nhật, thì có
nghiên cứu hồi cứu của Ohnuma trên 111 trường
hợp được điều trị với phác đồ DCS trong ung thư dạ
dày tiến xa, di căn, trong thời gian theo dõi dài hơn
chúng tôi (23,7 tháng), thì ghi nhận thời gian trung vị
PFS là 7,6 tháng và tỷ lệ PFS-1 năm là 33,9%,
tương tự với chúng tôi. Và tác giả cũng phân tích
các yếu tố như vị trí di căn phúc mạc thì có ảnh
(PS=0)[11]
.
Độc tính của phác đồ DC-S
Có 28/38 trường hợp bị giảm bạch cầu hạt tất
cả các mức độ (chiếm 73,68%), trong đó giảm bạch
cầu hạt độ 3 và độ 4 có 9 trường hợp, chiếm
218
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
23,68%. Chúng tôi ghi nhận có 1 trường hợp bị
sốt giảm bạch cầu hạt độ 4 cần nhập viện nội trú để
điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL,
Torre LA, Jemal A (2018), “Global cancer
statistics 2018: GLOBOCAN estimates of
incidence and mortality worldwide for 36 cancers
in 185 countries”, CA Cancer J Clin, 68(6):
394-424.
Phần lớn các trường hợp bị thiếu máu độ 1 và
độ 2 (chiếm 86,84%), chỉ có 2 trường hợp ở độ 3 trở
lên (chiếm 5,26%).
Giảm tiểu cầu ít gặp với phác đồ DC-S với
26,32% trường hợp bị giảm tiểu cầu độ 1, không gặp
trường hợp nào giảm nặng độ 3 - 4.
2. Avital I, Nissan A, Golan T, Lawrence YR,
Stojadinovic A (2019), “Chapter 53: Cancer of
the Stomach”. In: DeVita VT, Lawrence TS,
Kết quả này của chúng tôi cũng thống nhất với
kết quả của nghiên cứu của tác giả Kinoshita tại
Nhật, với phác đồ DC-S giống với chúng tôi (giống
về liều lượng và thời gian sử dụng). Tác giả cho thấy
tỷ lệ giảm bạch cầu hạt độ 3 - 4 là 31,6%, tỷ lệ thiếu
máu độ 3-4 là 7%, còn tỷ lệ giảm tiểu cầu độ 3 - 4 là
1,8%[8].
Rosenberg
SA,
DeVita,
Hellman,
and
Rosenberg’s cancer: principles & practice of
oncology, 11th edition, Wolters Kluwer.
3. Krasniqi E, Pellicori S, Formica V (2015).
“Emerging role of S-1 in gastric cancer”, Indian J
Med Paediatr Oncol; 36(4): 219-228.
Nghiên cứu hồi cứu của Ohnuma cũng sử dụng
phác đồ DC-S thì cho thấy độc tính giảm bạch cầu
hạt độ 3 - 4 lên tới 73%, và 85,1% bị giảm bạch cầu
hạt mọi mức độ. Tỷ lệ sốt giảm bạch cầu hạt độ 3 - 4
là 14,9%. Thiếu máu thì gặp với tỷ lệ thấp hơn là
28,4%, và giảm tiểu cầu chỉ gặp ở 21,6%. Sự khác
biệt có thể do khác biệt về liều dùng của docetaxel
4. Mahlberg R, Lorenzen S, Thuss-Patience P,
Heinemann V, Pfeiffer P, Möhler M (2017), “New
Perspectives in the Treatment of Advanced
Gastric Cancer: S-1 as a Novel Oral 5-FU
Therapy in Combination with Cisplatin”,
Chemotherapy, 62: 62-70.
5. Koizumi W, Narahara H, Hara T, Takagane A,
Akiya T, Takagi M, et al (2008). “S-1 plus
cisplatin versus S-1 alone for first-line treatment
of advanced gastric cancer (SPIRITS trial): A
phase III trial”, Lancet Oncol; 9:215-21.
và cisplatin trong nghiên cứu này so với chúng tôi[11]
.
Trong 38 trường hợp, chỉ có 9 trường hợp tăng
men gan AST/ALT, trong đó phần lớn là tăng độ 1
(chiếm 15,79%), 1 trường hợp tăng độ 4, cần hoãn
điều trị (tương ứng 2,63%).
6. Krasniqi E, Pellicori S, Formica V (2015).
“Emerging role of S-1 in gastric cancer”, Indian J
Med Paediatr Oncol; 36(4): 219-228.
Có 3 trường hợp bị tăng creatinine máu độ 1,
và 1 trường hợp tăng độ 2, tương ứng là 7,89% và
2,63%.
7. Mahlberg R, Lorenzen S, Thuss-Patience P,
Heinemann V, Pfeiffer P, Möhler M (2017), “New
Perspectives in the Treatment of Advanced
Gastric Cancer: S-1 as a Novel Oral 5-FU
Therapy in Combination with Cisplatin”,
Chemotherapy, 62: 62-70.
Các biến cố bất lợi trên đường tiêu hóa được
ghi nhận trong nghiên cứu gồm có chán ăn, viêm
miệng, buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy, đều ghi nhận ở
tần suất thấp, và chủ yếu ở độ 1. Trong đó cao nhất
là độc tính chán ăn và nôn ói, chiếm tương ứng
21,05% và 18,42%.
8. Kinoshita J, Fushida S, Tsukada T, Oyama K,
Okamoto K, Makino I, Nakamura K, Miyashita T,
Tajima H, Takamura H, Ninomiya I, Ohta T
(2015), “Efficacy of conversion gastrectomy
following docetaxel, cisplatin, and S-1 therapy in
potentially resectable stage IV gastric cancer”,
EJSO; 41: 1354-1360.
Nghiên cứu hồi cứu của Ohnuma và Sato với
phác đồ DC-S cũng cho kết quả khá tương đồng với
chúng tôi, là phần lớn bệnh nhân bị chán ăn và buồn
nôn, tuy nhiên tần suất ghi nhận được cao hơn
nhiều so với chúng tôi[11]
.
KẾT LUẬN
9. Đinh Thị Hải Duyên, Nguyễn Trọng Hiếu, Trần
Đăng Khoa (2017), “Đánh giá kết quả điều trị
phác đồ TCX trên bệnh nhân ung thư dạ dày giai
đoạn tiến xa và di căn tại bệnh viện Ung bướu
Hà Nội”, Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 4:
207-217.
Phác đồ DC-S đem lại hiệu quả trong điều trị
ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa, di căn, và với độc
tính chấp nhận được, có thể xử trí được. Tuy nhiên,
cần thêm nhiều nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn
để khẳng định thêm về hiệu quả của phác đồ này.
219
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
10. Nguyễn Văn Hùng, Vũ Hồng Thăng, Lê Văn
Thành, Vũ Văn Thế (2016), “Đáp ứng phác đồ
hóa chất Docetaxel – Cisplatin trong ung thư dạ
dày giai đoạn muộn”, Tạp chí Ung thư học Việt
Nam, 3: 412 - 419.
12. Yamaguchi K, Yoshida K, Tanahashi T,
Takahashi T, Matsuhashi N, Tanaka Y, Tanabe
K, Ohdan H (2018), “The long-term survival of
stage IV gastric cancer patients with conversion
therapy”, Gastric Cancer, 21:315-323
11. Ohnuma H, Sato Y, Hirakawa M, et al. (2018),
“Docetaxel, cisplatin and S-1 (DCS) combination
chemotherapy for gastric cancer patients with
peritoneal metastasis: a retrospective study”,
Cancer Chemotherapy and Pharmacology,
13. Mieno H, Yamashita K, Hosoda K, et al. (2017),
“Conversion
surgery
after
combination
chemotherapy of docetaxel, cisplatin and S-1
(DCS) for far-advanced gastric cancer”, Surg
Today, DOI 10.1007/s00595-017-1512-z.
220
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
Background: The advanced and metastatic stage of gastric cancer still have high mortality rate. We
applied the DC-S regimen (docetaxel, cisplatin and S - 1) in treatment for newly diagnosed advanced and
metastatic gastric cancer in Chemotherapy Department of University Medical Center at Ho Chi Minh city.
Method: We did a retrospective study in 38 gastric cancer patients with these criteria: newly diagnosed
gastric cancer, adenocarcinoma of the gastric, avanced stage or metastatic stage, treated with chemotherapy
with DC-S regimen at least 1 cycle, with good performance status (ECOG 0 - 2).
Results: The response rate: there was no case of complete response. 34.21% of cases had partial
response, stable disease in 50% and disease progression in 15.79%. 1 - year progression free survival was
25.06% (95% CI: 10.86 - 42.21%), median PFS was 7.7 months (range from 2-13.57 months). Univariate
analysis revealed that response with chemotherapy correlated with better survival. Chemotherapy toxicities: the
neutropenia rate was 73.68%, with 23.68% of cases were grad 3 - 4 neutropenia. Rate of elevated
transaminase (AST/ALT) was 23.68%. Increased creatinine grad 1 - 2 in 10.52% of cases. Other adverse
events were anorexia, stomatitis, nausea/vomit and diarrhea, all was in grad 1 - 2.
Conclusion: Chemotherapy with DC-S regimen had high response rate and well-tolerant in patients with
advanced stage and/or metastatic gastric cancer.
Keywords: Gastric cancer, DC-S, S1, advanced stage, metastatic.
221
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phác đồ hóa trị Docetaxel, Cisplatin và S-1 (DC-S) trong điều trị ung thư dạ dày giai đoạn tiến xa di căn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- danh_gia_hieu_qua_va_tinh_an_toan_cua_phac_do_hoa_tri_doceta.pdf