Các dấu hiệu trực tiếp dự báo sự tồn tại của khí Hydrate từ tài liệu địa chấn trên khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 2 - 2020, trang 24 - 29  
ISSN-0866-854X  
CÁC DẤU HIỆU TRỰC TIẾP DỰ BÁO SỰ TỒN TẠI CỦA KHÍ HYDRATE  
TỪ TÀI LIỆU ĐỊA CHẤN TRÊN KHU VỰC NƯỚC SÂU THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM  
Nguyễn Thu Huyền1, Trịnh Xuân Cường2, Nguyễn Thanh Tùng1, Nguyễn Trung Hiếu1, Tống Duy Cương1  
Nguyễn Hoàng Sơn1, Vũ Quang Huy1, Nguyễn Mạnh Hùng3, Trần Ngọc Minh1  
1Viện Dầu khí Việt Nam  
2Tập đoàn Dầu khí Việt Nam  
3Công ty Dầu khí Sông Hồng  
Email: huyennt@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Địa chấn là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới để dự báo sự tồn tại và đánh giá định lượng khí hydrate (gas  
hydrate) trong trầm tích biển. Có thể dự báo sự tồn tại của khí hydrate từ tài liệu địa chấn khi xác định được mặt phản xạ mô phỏng đáy  
biển (BSR - bottom simulating reflector) và đới bình ổn (GHSZ - gas hydrate stability zone). Tuy nhiên, một số khu vực không tồn tại mặt  
phản xạ mô phỏng đáy biển nhưng đã phát hiện thấy khí hydrate. Trong trường hợp này, để dự báo sự tồn tại của khí hydrate từ tài liệu  
địa chấn, sẽ dựa vào các dấu hiệu dị thường biên độ.  
Bài báo giới thiệu các dấu hiệu trực tiếp liên quan đến sự tồn tại của khí hydrate trên tài liệu địa chấn như BSR, GHSZ, các dấu hiệu dị  
thường biên độ ở một số phát hiện khí hydrate trên thế giới và dự báo sự tồn tại của chúng trên tài liệu địa chấn ở khu vực nước sâu thềm  
lục địa Việt Nam. Từ kết quả phân tích tài liệu địa chấn cho phép nhận định trên khu vực nước sâu thuộc thềm lục địa Việt Nam, xuất hiện  
nhiều dấu hiệu trực tiếp có liên quan tới sự tồn tại của khí hydrate.  
Từ khóa: Khí hydrate, mặt phản xạ mô phỏng đáy biển (BSR), đới bình ổn (GHSZ), dị thường biên độ.  
1. Giới thiệu  
Phương pháp địa chấn là phương pháp sử dụng  
đã chỉ ra đó là sự hiện diện của một mặt BSR không liên  
quan với hàm lượng khí hydrate cao bên trên [3]. Mặt  
khác, một số khu vực không tồn tại mặt BSR nhưng đã  
phát hiện thấy khí hydrate - như vịnh Mexico [4, 5]. Trong  
trường hợp này để dự báo sự tồn tại của khí hydrate từ  
tài liệu địa chấn, sẽ dựa vào các dấu hiệu dị thường biên  
độ điểm sáng (bright spot), khoảng trắng (blank zone) và  
cột khí (gas chimney) [4 - 6].  
rộng rãi nhất để dự báo, phát hiện gián tiếp và đánh  
giá định lượng khí hydrate trong trầm tích biển. Sự hiện  
diện của hydrate đã được dự báo trên cơ sở mặt phản xạ  
mô phỏng đáy biển (BSR), đánh dấu ranh giới giữa khí  
hydrate và vùng khí tự do [1]. Mặt BSR là mặt chạy song  
song và đảo cực với mặt phản xạ đáy biển. Trong đá trầm  
tích, khí hydrate thường phát triển bên trong khoảng  
không gian lỗ rỗng của đất đá. Thực nghiệm chỉ ra rằng  
khí hydrate tinh khiết có vận tốc là 3,65 - 3,75km/s [2].  
Vì khí hydrate có vận tốc cao hơn vận tốc của chất lỏng  
chiếm chỗ trong khoảng không gian lỗ rỗng của đất đá,  
đá trầm tích chứa khí hydrate bão hòa có vận tốc tương  
đối cao so với trầm tích chứa nước. Bên dưới mặt BSR  
thường quan sát thấy một lớp vận tốc thấp khoảng 1,2  
- 1,5km/s được sinh ra bởi khí chiếm chỗ thay thế nước  
trong không gian lỗ rỗng. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu  
Phân tích tài liệu địa chấn với áp dụng tích hợp các  
phương pháp nghiên cứu kể trên đã cho phép dự báo sự  
tồn tại của khí hydrate ở khu vực nước sâu thuộc thềm lục  
địa Việt Nam.  
Tài liệu sử dụng để dự báo sự tồn tại của khí hydrate  
qua các dấu hiệu trực tiếp chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu  
quý giá trong tìm kiếm thăm dò dầu khí, đó là tài liệu địa  
chấn. Dự báo sự tồn tại khí hydrate từ tài liệu địa chấn trên  
khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam (trình bày ở mục  
3) là kết quả tổng hợp từ công tác minh giải, phân tích  
trên 50.000km tuyến địa chấn 2D trên khu vực nước sâu  
thềm lục địa Việt Nam [7, 8] (Hình 1, 7, 8).  
Ngày nhận bài: 9/12/2019. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 9 - 13/12/2019.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 15/1/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
24  
PETROVIETNAM  
Quần đảo  
Hoàng Sa  
Hình 2. Mặt BSR có hình dáng lặp lại mặt đáy biển (hình trên); mô hình  
vận tốc (hình dưới) thể hiện sự phân dị vận tốc của BSR [2]  
Quần đảo  
Trường Sa  
5], đó là lý do mặt BSR có hình dáng lặp lại mặt  
đáy biển (Hình 2). Đặc tính của BSR phụ thuộc  
vào tần số. Độ phân giải thấp hơn của bề mặt  
địa chấn làm mờ các dạng phản xạ khác, tạo ra  
một dải phản xạ liên tục phẳng [6, 9]. Sự đảo cực  
của mặt BSR là do vận tốc sóng dọc Vp giảm khi  
truyền qua ranh giới đới ổn định. Về nguyên tắc,  
độ tương phản này có thể được gây ra bởi Vp  
cao trong đới trầm tích chứa hydrate bên trên  
của đới ổn định [9] và/hoặc vận tốc thấp trong  
lớp trầm tích chứa khí bên dưới nó [4] (Hình 2).  
Kết quả từ các nghiên cứu khác nhau cho thấy  
với một số trường hợp ngoại lệ, có xuất hiện một  
số mặt phản xạ mạnh BSR chủ yếu gây ra do Vp  
giảm mạnh (Hình 3) vì khí tự do, với sự đóng góp  
tương đối nhỏ từ "nêm hydrate" nằm phía trên  
[4]. Tại một số nơi, phản xạ BSR yếu hơn có thể  
được gây ra do khí hydrate không có đới khí tự  
do bên dưới [10]. Bằng chứng quan trọng chứng  
minh sự đảo cực của mặt BSR là nghịch đảo sóng  
(Waveform inversion): tối ưu hóa mô hình vận  
tốc bề mặt bằng cách so sánh với băng địa chấn  
tổng hợp để có thể làm sáng tỏ các đặc tính của  
đới vận tốc xung quanh mặt BSR [1 - 4, 6], bởi vì  
những đới này thường rất mỏng (nhỏ hơn một  
bước sóng địa chấn). Do đó, dạng sóng của BSR  
Hình 1. Sơ đồ vị trí tài liệu địa chấn sử dụng trong dự báo dấu hiệu trực tiếp  
liên quan tới khí hydrate [7]  
2. Cơ sở lý thuyết phương pháp dự báo khí hydrate từ tài liệu  
địa chấn  
2.1. BSR  
BSR là dấu hiệu trực tiếp được sử dụng để tìm kiếm khí hydrate  
trong trầm tích biển. BSR tồn tại ở đáy của đới bình ổn (GHSZ), nơi  
điều kiện áp suất và nhiệt độ ở ranh giới giữa pha hydrate và khí tự  
do. Sự ổn định này nhạy cảm với nhiệt độ nhiều hơn là với áp suất,  
do đó nơi xuất hiện BSR hầu như là đới đẳng nhiệt. Trong trầm tích  
không bị phá hủy, đới đẳng nhiệt song song với mặt đáy biển [1, 2,  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
25  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Hình 3. Mặt phản xạ BSR (hình trái); vận tốc truyền sóng Vp giảm mạnh (hình phải) [2]  
khi các phản xạ mạnh bên dưới mặt BSR chỉ  
đơn giản là điểm sáng liên quan tới một khu  
vực khí tự do dày. Hiện tượng của vùng Blake  
Ridge có thể là do lượng khí hydrate lớn trong  
những lớp có độ rỗng cao, lượng hydrate cao  
gây ra sự triệt tiêu phản xạ trong khu vực này.  
Ngoài khoảng trắng, các dấu hiệu như  
(gas chimney) (Hình 5), điểm sáng (bright  
spot), điểm mờ (dim out), là các dấu hiệu trực  
tiếp (DHI) tìm kiếm dầu khí và cũng là dấu hiệu  
tìm kiếm khí hydrate.  
Sự thay đổi vận tốc truyền sóng trong  
trầm tích chứa khí, chứa khí hydrate và chứa  
nước tạo ra các hiệu ứng điểm sáng, điểm mờ.  
Do đó các dấu hiệu này cũng được ứng dụng  
để dự báo sự tồn tại của khí hydrate [1, 3, 5,  
9 - 11, 14, 15].  
Hình 4. Mặt cắt địa chấn trong vùng Blake Ridge: Tương phản nổi bật của phản xạ bên trên  
và dưới mặt BSR - khoảng trắng [6]  
Điểm sáng: Có thể xác định được nơi  
trầm tích chứa khí dựa vào đặc trưng phản xạ  
địa chấn pha dương do vận tốc truyền sóng  
thấp, trong khi tại những khu vực trầm tích  
chứa khí hydrate thì dựa vào đặc trưng phản  
xạ địa chấn pha âm do vận tốc truyền sóng  
cao. Dạng phản xạ địa chấn này được gọi là  
điểm sáng. Nơi nào có xuất hiện khí hoặc khí  
hydrate thì có thể sẽ xuất hiện hàng loạt các dị  
thường này.  
là một chuỗi phức tạp các tín hiệu phản xạ từ nóc tới đáy lớp, thực  
chất là mô hình AVO đơn giản.  
2.2. Dị thường biên độ: khoảng trắng, điểm sáng, cột khí  
Khoảng trắng có thể được sử dụng để dự báo vị trí nơi khí hydrate  
thành tạo. Khái niệm khoảng trắng (blank zone) được hình thành và  
phát triển để giải thích hiện tượng tương phản nổi bật của phản xạ  
bên trên và dưới mặt BSR ở vùng Blake Ridge (thuộc vùng biển phía  
Đông Nam nước Mỹ) [4, 6]: Biên độ phản xạ bên trên mặt BSR nói  
chung là thấp hơn nhiều so với phần bên dưới (Hình 4). Theo giả  
thuyết về khoảng trắng, độ tương phản này được gây ra bởi sự giảm  
trở kháng bên trên mặt BSR và phản xạ "bình thường" dưới mặt BSR  
[11]. Tuy nhiên, khi khoan và đo VSP tại chặng 164 (Blake Ridge) [6]  
cho thấy tình trạng ngược lại: phản xạ thấp bên trên mặt BSR "bình  
thường" là do trầm tích đồng nhất một cách bất thường [12] trong  
Cột khí là dị thường phát triển rộng rãi  
và đa dạng gồm kiểu dạng vòm, đẳng thước  
thường gặp tại các đới nâng rìa, đới nâng  
trung tâm và thường tạo thành các hố lõm  
phân bố dọc theo các đứt gãy, thường đứt gãy  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
26  
PETROVIETNAM  
nơi trên thế giới, khí hydrate tồn tại trong trầm tích  
nơi có diapir sét, núi lửa hoạt động [5, 12, 16].  
2.3. Phản xạ đáy biển  
Phản xạ của đáy biển có thể là một dấu hiệu tốt  
để dự báo sự có mặt của khí hydrate [5, 13, 14, 17].  
Các điểm lộ khí hydrate đáy biển bao gồm gần 100%  
khí hydrate và thường được bao quanh bởi các trầm  
tích với vận tốc Vp cao hơn vận tốc nước biển, vì thế  
có hiện tượng hệ số phản xạ đáy biển tăng.  
3. Dự báo sự tồn tại khí hydrate từ tài liệu địa chấn  
trên khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam  
Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng,  
những nơi có điều kiện lý tưởng cho sự thành tạo khí  
hydrate là vùng trầm tích đáy biển sâu, nơi có nhiệt  
độ thấp và áp suất thủy tĩnh cao và gần các tích tụ khí  
thiên nhiên [2, 5, 17].  
Theo kết quả phân tích do Viện Dầu khí Việt Nam  
thực hiện và đã công bố trên Tạp chí Dầu khí [7, 8],  
dựa trên các dấu hiệu DHI từ tài liệu địa chấn, dự báo  
có khả năng tồn tại khí hydrate ở khu vực nước sâu  
thuộc thềm lục địa Việt (Hình 7 và 8).  
Khí hydrate có thể được phát hiện từ tài liệu  
địa chấn khi xác định được mặt phản xạ mô phỏng  
đáy biển và đới bình ổn. Trên một số lát cắt địa chấn  
thuộc khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam, xuất  
hiện một ranh giới phản xạ mạnh, chạy song song và  
đảo cực với mặt phản xạ đáy biển với biên độ phản  
xạ cao, độ liên tục lớn. Với các đặc tính này có thể dự  
đoán, đây chính là mặt phản xạ mô phỏng đáy biển  
BSR. Ở khu vực nước biển có chiều sâu lớn trên 500m  
thuộc khu vực phía Đông bể Phú Khánh, mặt BSR  
xuất hiện khá liên tục và có thể liên kết được (Hình  
7b). Các hiệu ứng điểm sáng, điểm mờ có thể do sự  
thay đổi vận tốc truyền sóng trong các môi trường  
khác nhau là các dấu hiệu dự báo tồn tại hàm lượng  
khí hydrate cao gây các phản xạ mạnh hoặc phản  
xạ trắng mà quan sát thấy trên Hình 7b, 7c và 8. Mặt  
khác, hiện tượng dị thường biên độ có thể liên quan  
tới khí hydrate này nằm ở vị trí rất gần với khu vực có  
mỏ khí tự nhiên, như vậy kết quả dự báo này dường  
như rất trùng hợp với các nghiên cứu về khí hydrate  
mà thế giới đã công bố [2, 5, 6, 15, 18]. Đây là dấu  
hiệu dị thường biên độ được cho là liên quan tới sự  
tồn tại của khí hydrate ở khu vực nước sâu của bể  
Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn và Tư Chính -  
Vũng Mây.  
Hình 5. Dị thường biên độ (cột khí) có liên quan tới khí hydrate tại vùng biển Otkhosk [13]  
Hình 6. Khí hydrate tại khu vực Kumanonada có nguồn gốc liên quan tới diapir sét  
và hoạt động núi lửa [16]  
sâu hoặc đồng tạo rift. Khi điều kiện bền vững (nhiệt độ - áp  
suất) của GHSZ bị phá vỡ (do mực nước biển hạ thấp trong Đệ  
Tứ, đáy biển nâng lên do hoạt động tân kiến tạo, magma) tạo  
cơ hội đẩy khí thoát lên phía trên gây xáo trộn các lớp trầm tích  
gắn kết yếu và thay đổi địa hình đáy biển [12, 16]. Khí thoát  
ra từ đáy biển làm lõm địa hình tạo nên dạng địa mạo như  
trên, có khi tạo nên dạng địa hình nhô lên (Hình 5). Vùng phát  
triển diapir sét, san hô và núi lửa hoạt động cũng gây ra các dị  
thường biên độ có liên quan tới khí hydrate (Hình 6). Ở nhiều  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
27  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Hình 7. Trích đoạn mặt cắt địa chấn dự báo có khả năng tồn tại khí hydrate trên khu vực nước sâu bể Sông Hồng và Phú Khánh [7]  
Lời cảm ơn  
Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh đạo  
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Viện Dầu khí Việt Nam đã tạo  
điều kiện và cho phép sử dụng tài liệu. Xin trân trọng cảm  
ơn Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Ban chủ nhiệm đề tài  
“Nghiên cứu cấu trúc địa chất và các điều kiện hình thành khí  
hydrate ở vùng nước sâu thềm lục địa miền Trung và Đông  
Nam bộ Việt Namđã hỗ trợ nghiên cứu và viết bài.  
Tài liệu tham khảo  
Hình 8. Trích đoạn mặt cắt địa chấn dự báo có khả năng tồn tại khí hydrate  
trên khu vực nước sâu bể Tư Chính - Vũng Mây [8]  
1. Thomas H.Shipley, Mark H.Houston, Richard T.Buffler,  
F.Jeanne Shaub, Kenneth J.Mcmillen, John W.Ladd, J.Lamar  
Worzel. Seismic evidence for widespread possible gas hydrate  
horizons on continental slopes and rises. American Association  
Petroleum Geologists Bulletin. 1979; 63(12): p. 2204 - 2213.  
4. Kết luận  
Phương pháp địa chấn là phương pháp sử dụng rộng  
rãi nhất để dự báo gián tiếp và định lượng khí hydrate  
trong trầm tích biển. Khí hydrate có thể được khoanh  
vùng phát hiện từ tài liệu địa chấn khi xác định được mặt  
phản xạ mô phỏng đáy BSR hoặc từ các dị thường biên  
độ (khoảng trắng, điểm sáng, điểm mờ, cột khí).  
2. M.B.Helgerud, J.Dvorkin, A.Nur, A.Sakai, T.Collett.  
Elastic-wave velocity in marine sediments with gas hydrates:  
Effective medium modeling. Geophysical Research. 1999;  
26(13): p. 2021 - 2024.  
Theo kết quả phân tích tài liệu địa chấn trên khu vực  
nước sâu thềm lục địa Việt Nam, đã phát hiện, liên kết  
được mặt phản xạ mô phỏng đáy biển - BSR và xác định  
các dị thường biên độ địa chấn có khả năng liên quan  
tới khí hydrate phân bố ở khu vực Nam bể Phú Khánh,  
Đông Nam bể Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây.  
3. Anne M.Trehu, Guibiao Lin, Edward Maxwell, Chris  
Goldfinger. A seismic reflection profile across the cascadia  
subduction zone offshore central Oregon: New constraints  
on methane distribution and crustal structure. Journal of  
Geophysical Research Solid Earth. 1995; 100: p. 15101 -  
15116.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
28  
PETROVIETNAM  
4. J.Korenaga, W.S.Holbrook, S.C.Singh, T.A.Minshull.  
Natural gas hydrates on the southeast U.S. margin:  
Constraints from full waveform and travel time inversions  
of wide-angle seismic data. Journal Geophysical Research.  
1997; 102: p. 15345 - 15365.  
inversion. Journal of Geophysical Research Atmospheres.  
1994; 99: p. 4715 - 4734.  
11. Myung Woong Lee, D.R.Hutchinson, Warren  
F.Agena, W.P.Dillon, John J.Miller, B.A.Swift. Seismic  
character of gas hydrates on the southeastern U.S.  
continental margin. Marine Geophysical Research. 1994;  
16(3): p. 163 - 184.  
5. Michael D.Max. Natural gas hydrate in oceanic and  
permafrost environments. Kluwer Academic Publishers,  
Netherlands. 2003.  
12. Charles K.Paull, William J.Beulow, William Ussler III,  
Walter S. Borowski. Increased continental-margin slumping  
frequency during sea-level lowstands above gas hydrate-  
bearing sediments. Geology. 1996; 24(2): p. 143 - 146.  
6. W.T.Wood, C.Ruppel. Seismic and thermal  
investigations of the Blake Ridge gas hydrate area.  
Proceedings of the Ocean Drilling Program Scientific  
Results. 2000; 164: p. 253 - 264.  
13. G.D.Ginsburg, V.A.Soloviev. Submarine gas  
hydrate. 1998.  
7. Nguyễn Thu Huyền, Nguyễn Trung Hiếu, Tống Duy  
Cương, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Danh Lam, Trịnh  
Xuân Cường. Sử dụng phương pháp phân tích AVO trong  
tìm kiếm thăm dò khí hydrate và khả năng áp dụng tại Việt  
Nam. Tạp chí Dầu khí. 2015; 4: trang 14 - 20.  
14. E.Dendy Sloan, Jr.Marcel Dekker. Clathrate  
hydrate of natural gases. Second edition. 1998.  
15. W.F.Waite, et all. First measurements of P- and  
S-wave speed on pure methane gas hydrate. EOS. 1998; 79.  
8. Trịnh Xuân Cường, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn  
Hoàng Sơn, Tạ Quang Minh. Dấu hiệu và dự báo vùng có  
triển vọng khí hydrate ở Biển Đông Việt Nam. Tạp chí Dầu  
khí. 2016; 7: trang 23 - 32.  
16. Takashi Uchida. Methane hydrate: A future energy  
resource? Special lecture in The Technology Research Center,  
Japan Oil, Gas and Metals National Corporation. 2006.  
17. I.S.Gramberg.  
geophysical exploration of gas hydrate accumulations  
offshore Vietnam. 2011.  
Complex marine geology-  
9. R.D.Hyndman, G.D.Spence. A seismic study of  
methane hydrate marine bottom-simulating reflectors.  
Journal Geophysical Research. 1992; 97: p. 6683 - 6698.  
18. Charles K.Paull, Ryo Matsumoto. Proceedings  
of the ocean drilling program scientific results. Leg 164  
Overview. 2000; 164.  
10. Timothy  
A.Minshull,  
Satish  
C.Singh,  
G.K.Westbrook. Seismic velocity structure at a gas hydrate  
reflector, offshore western Colombia, from full waveform  
DIRECT INDICATORS FOR PREDICTING GAS HYDRATE OCCURRENCE BY  
SEISMIC DATA IN DEEPWATER AREAS OF VIETNAM’S CONTINENTAL SHELF  
Nguyen Thu Huyen1, Trinh Xuan Cuong2, Nguyen Thanh Tung1, Nguyen Trung Hieu1, Tong Duy Cuong1  
Nguyen Hoang Son1, Vu Quang Huy1, Nguyen Manh Hung3, Tran Ngoc Minh1  
1Vietnam Petroleum Institute  
2Vietnam Oil and Gas Group  
3PVEP Song Hong  
Email: huyennt@vpi.pvn.vn  
Summary  
Seismic methods are the most widely used approach for detection and quantification of gas hydrate in marine sediments. It appears  
that bottom simulating reflector (BSR) distribution and gas hydrate stability zone (GHSZ) may be the best indicators for gas hydrate  
occurrence. However, BSRs are absent in many locations where gas hydrates are known to occur. In this case, the amplitude anomalies  
may be a good proxy of gas hydrate.  
This paper presents several examples of gas hydrate discoveries in the world as well as gas hydrate prediction from seismic data in  
deepwater areas of Vietnam. From the results of Vietnamese seismic data analysis, it can be considered that there are many indicators  
related to the existence of gas hydrates in the deepwater areas of the continental shelf of Vietnam.  
Key words: Gas hydrate (GH), Bottom Simulating Reflector (BSR), Gas Hydrate Stability Zone (GHSZ), amplitude anomaly.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2020  
29  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 5120
Bạn đang xem tài liệu "Các dấu hiệu trực tiếp dự báo sự tồn tại của khí Hydrate từ tài liệu địa chấn trên khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcac_dau_hieu_truc_tiep_du_bao_su_ton_tai_cua_khi_hydrate_tu.pdf