Bài giảng Vi sinh vật (Mới nhất)

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN  
-----o0o-----  
BÀI GIẢNG  
Môn học: Vi sinh vật  
Ngành: Nuôi trồng thủy sản  
Trình độ: Cao đẳng  
Năm 2016  
1
NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ VI SINH VẬT  
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ MÔN HỌC  
1. Khái niệm vi sinh vật  
Là những sinh vật có kích thước nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt  
thường. Có cấu tạo đơn bào, đa bào hoặc không có cấu tạo tế bào.  
2. Đối tượng nghiên cứu  
a. Vi khuẩn  
b. Nấm men  
c. Nấm mốc  
d. Xạ khuẩn  
-
-
-
-
Bacteria  
Ascomycetes  
Fungi  
Actinomyces  
Virus  
e. Siêu vi khuẩn -  
f. Thực khuẩn th -  
Bacteriophage  
Ngoài ra vi sinh vật học còn nghiên cứu tảo đơn bào và nguyên sinh động  
vật.  
3. Nhiệm vụ của môn học  
Môn vi sinh vật là một môn khoa học, một ngành của sinh vật học chuyên  
nghiên cứu về sinh trưởng và các chức năng khác của cơ thể vi sinh vật trong  
điều kiện thống nhất với môi trường.  
Vi sinh vật học phát triển rất nhanh, đã được phân chia thành các lĩnh vực  
khác nhau: Vi khuẩn học (Bacteriology), Nấm học (Micology), Tảo học  
(Algologi), Virus học (Virology)…  
Hiện nay, việc phân chia các lĩnh vực còn dựa vào phương hướng ứng  
dụng như: Y vi sinh vật học, Thú y vi sinh vật học, Vi sinh vật học công nghiệp,  
Vi sinh vật học nông nghiệp, …  
Những lĩnh vực nghiên cứu đối với ngành thú y thuỷ sản,  
- Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về hình thái, cấu tạo, sinh lý, sinh  
hoá của các nhóm vi sinh vật thường gặp trong tự nhiên để tìm hiểu các quy luật  
về sự phát sinh, phát triển và tiến hoá của chúng, ….  
- Nghiên cứu vai trò to lớn về nhiều mặt của các nhóm vi sinh vật trong tự  
nhiên nhất là trong thuỷ sản, tìm cách khai thác một cách đầy đủ nhất các tác  
động tích cực của vi sinh vật cũng như tìm cách ngăn chặn một cách hiệu quả  
nhất các tác động có hại của chúng.  
- Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm sinh thái học và sinh vật học của  
các nhóm vi sinh vật, các nhà khoa học đã xây dựng cơ sở cho việc tìm kiếm các  
kỹ thuật nuôi trồng có lợi nhất đối với hoạt động vi sinh vật nhằm nâng cao  
không ngừng sản lượng và phẩm chất hàng hoá thuỷ sản.  
2
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN HỌC  
1. Những tri thức cảm tính trước khi phát hiện ra vi sinh vật  
Trước khi nhận thức được sự có mặt của vi sinh vật trên trái đất, tổ tiên  
chúng ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng những vi sinh  
vật có lợi và tiêu diệt những vi sinh vật có hại. Vào thế kỷ thứ nhất trước công  
nguyên, trong quyển “Ký thăng chi thư” của Trung Quốc đã ghi lại: muốn cho  
cây tốt phải bón phân tằm, không có phân tằm tinh thì dùng phân tằm lẫn tạp  
cũng được. Cũng ở Trung Quốc, cách đây 4000 năm đã đề cập đến kỹ thuât nấu  
rượu và thấy rằng trong quá trình nấu rượu có sự tham gia của các loại mốc  
vàng.  
Trong nông nghiệp: người ta đã khống chế hoạt động của vi sinh vật để  
làm mục nát các chất hữu cơ như ủ phân, cầy lật, vun xới...  
Trong công nghiệp thực phẩm: người ta đã khống chế hoạt động của vi  
sinh vật để nấu rượu, làm đường, muối dưa, ướp muối, làm mứt...  
Trong y học: người ta đã khống chế hoạt động của vi sinh vật để chủng  
đậu đề phòng bệnh đậu mùa, đó là cống hiến to lớn của nền y học cổ đại Trung  
Quốc.  
Tất cả những điều nói trên cho biết trong đời sống và trong sản xuất, con  
người đã biết sử dụng những tác dụng của vi sinh vật trong nhiều mặt. Con  
người đã biết tận dụng một cách có ý thức những quy luật tác dụng của vi sinh  
vật được rút ra bằng những kinh nghiệm thực tế.  
2. Giai đoạn phát hiện ra vi sinh vật  
Giữa thế kỷ XVII chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển mạnh. Do yêu cầu  
của ngành hàng hải, kỹ thuật quang học được chú ý nhiều. Trên cơ sở phát triển  
của quang học, kính hiển vi đã xuất hiện. Leeuwenhock A.V (1632 – 1723) là  
người đầu tiên chế tạo ra kính hiển vi với độ phóng đại 160 lần và lần đầu tiên  
phát hiện thế giới vi sinh vật. Quan sát nước ao tù, các dung dịch nước ngâm các  
chất hữu cơ, bựa răng… Leeuvenhock thấy ở đâu cũng có vô số những sinh vật  
bé nhỏ. Rất ngạc nhiên với những gì mà ông quan sát được ông đã thốt lên: “tôi  
thấy trong bựa răng ở miệng tôi có rất nhiều sinh vật tí hon hoạt động, chúng  
nhiều hơn so với cả dân số của Vương quốc hợp nhất lúc bấy giờ”. Với quan sát  
và phát hiện của mình, năm 1695 Leeuvenhock đã xuất bản cuốn “Bí mật của  
giới tự nhiên’’. Trong tác phẩm này ông ghi chép lại tất cả những gì mà ông  
quan sát được về vi sinh vật.  
Trong khoảng 100 năm tiếp sau đó, tuy rằng đã phát hiện thấy vi sinh vật  
có trên trái đất nhưng vẫn chưa nắm được quy luật sống, tác dụng của chúng  
trong tuần hoàn vật chất. Công tác nghiên cứu trong giai đoạn này chủ yếu là  
miêu tả hình thái và phân loại một cách đơn giản.  
3. Giai đoạn hình thành và phát triển của môn học  
3
Giữa thế kỷ 19, cùng với sự phát triển công nghiệp tư bản chủ nghĩa, các  
ngành khoa học kỹ thuật nói chung và ngành vi sinh vật nói riêng phát triển rất  
mạnh. Nhiều nhà khoa học đã tiến hành quan sát và nghiên cứu về một số vi  
sinh vật gây bệnh và đề ra một số phương pháp mới để nghiên cứu vi sinh vật.  
Những đóng góp xây dựng cho sự phát triển của vi sinh vật ở giai đoạn này tập  
trung nhất là các công trình nghiên cứu của nhà bác học người pháp Louis  
Pasteur (1822 – 1895). ông là người khai sinh ra vi sinh vật học hiện đại. Các  
công trình nghiên cứu của ông có giá trị lớn về lý thuyết cũng như thực tiễn.  
Những công trình đầu tiên của L. Pasteur nhằm giải quyết vấn đề vai trò của vi  
sinh vật trong các quá trình lên men. Thông qua một loạt thí nghiệm, ông đã  
chứng minh quá trình lên men là kết quả hoạt động của một số vi sinh vật đặc  
biệt. Ông đã nghiên cứu và nhận thấy trong quá trình chuyển biến nước nho  
thành rượu là nhờ tác dụng của nấm men và ông đã tìm cách phòng ngừa sự hoá  
chua của rượu và xác định sự hoá chua của rượu thành dấm là do kết quả hoạt  
động của vi khuẩn. Nghiên cứu của ông chẳng những có tác dụng lớn đến kỹ  
thuật nấu rượu mà còn giải quyết một cách cơ bản một quá trình sinh lý quan  
trọng - quá trình hô hấp. Ông cũng chỉ rõ lên men chính là quá trình hô hấp hiếu  
khí.  
Sau đó ông chuyển sang lĩnh vực nghiên cứu bệnh truyền nhiễm ở người  
và động vật, chủ yếu là bệnh dại và bệnh tả. Đồng thời ông đề ra phương pháp  
phòng trừ bệnh, chế ra các loại vacxin bại liệt, đậu mùa, thương hàn...  
Bên cạnh đó, trên thế giới có nhiều nhà bác học có nhiều cống hiến to lớn  
cho công cuộc nghiên cứu vi sinh vật như:  
Robekok (người Đức): ông đã phát hiện ra nhiều phương pháp nghiên cứu  
vi sinh vật trong đó có phương pháp nuôi cấy và phân lập vi sinh vật.  
Metsnhicop (người Nga): Nghiên cứu sức đề kháng và thuyết miễn dịch.  
Vinogradxki: nghiên cứu những vi sinh vật làm tăng độ phì nhiêu của đất.  
Với ngành thuỷ sản: Nikitinski (Nga) đã nghiên cứu và sử dụng vi sinh  
vật trong chế biến thực phẩm, đề ra phương pháp bảo quản để giữ gìn độ tươi  
của cá.  
4. Vai trò của vi sinh vật trong tự nhiên và đời sống con người  
Vi sinh vật tuy có kích thước nhỏ bé và có cấu trúc cơ thể tương đối đơn  
giản nhưng chúng có tốc độ sinh sôi nảy nở rất nhanh chóng và hoạt động trao  
đổi chất vô cùng mạnh mẽ. Vi sinh vật có khả năng phân giải hầu hết các loại  
vật chất trên trái đất bao gồm cả các chất khó phân giải hoặc các chất gây độc  
hại đến các nhóm sinh vật khác. Ngoài ra, vi sinh vật còn có khả năng tổng hợp  
nhiều hợp chất hữu cơ trong điều kiện nhiệt độ, áp suất bình thường.  
Vi sinh vật phân bố rộng rãi trong tự nhiên: đất, nước, không khí,  
trên cơ thể các sinh vật khác, trên cả các loại lương thực, thực phẩm và các loại  
4
hàng hoá khác. Chúng phân bố theo một hệ sinh thái vô cùng đa dạng: từ lạnh  
đến nóng, từ chua đến kiềm, từ hiếu khí đến yếm khí… Do sự phân bố hết sức  
rộng rãi và hoạt động mạnh mẽ nên vi sinh vật có tác dụng rất lớn trong việc  
tham gia vào các vòng tuần hoàn vật chất trên trái đất.  
Trong thiên nhiên, chúng giữ vai trò chủ yếu trong sự luân chuyển  
liên tục của vật chất. Nếu không có vi sinh vật hay vì một lý do nào đó mà hoạt  
động của vi sinh vật trong tự nhiên ngừng lại dù chỉ một thời gian ngắn cũng có  
thể làm ngừng mọi hoạt động sống khác trên trái đất.  
a. Quan hệ với ngành công nghiệp  
Sản xuất rượu Etylic, Butyric  
Chế biến nước mắm, mì chính, sữa chua, làm bánh mì, làm mứt...  
Chế biến thực phẩm, giữ gìn thực phẩm như ướp lạnh, ướp muối, sấy khô.  
Áp dụng trong kỹ thuật thuộc da, ngâm gai thăm dò mỏ.  
Sản xuất thuốc kháng sinh, vitamin, vacxin.  
b. Quan hệ với ngành nông nghiệp  
Chế biến phân vi sinh vật.  
Chế biến thức ăn cho gia súc, cá  
Vô cơ hoá các chất hữu cơ, chuyển hoá chất vô cơ khó tan thành dễ tan.  
c. Quan hệ với ngành nuôi trồng thuỷ sản  
- Chế biến thức ăn cho động vật thuỷ sản.  
- Làm sạch ao nuôi.  
- Quản lí chất lượng nước cho nuôi trồng thuỷ sản  
d. Quan hệ với y học và thú y  
Nghiên cứu một số vi sinh vật gây bệnh cho người và động vật, từ đó  
người ta biết cách chuẩn đoán bệnh, đề ra phương pháp phòng trị bệnh và sản  
xuất nhiều loại thuốc kháng sinh.  
Câu hỏi ôn tập  
Câu 1: Khái niệm vi sinh vật ? Đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ môn  
học ?  
Câu 2: Lịch sử phát triển của vi sinh vật ?  
Câu 3 : Ứng dụng của vi sinh trong đời sống và sản xuất ?  
CHƯƠNG I: HÌNH THÁI, CẤU TẠO VI SINH VẬT  
I. VI KHUẨN – BACTERIA  
5
Vi khuẩn là những sinh vật mà cơ thể chỉ gồm một tế bào, chúng có kích  
thước vô cùng nhỏ bé và thay đổi tuỳ từng loài, chiều dài từ một 2 - 8m chiều  
ngang từ 0,2 -2m.  
Vi khuẩn có hình thái, đặc tính sinh vật riêng. Chúng có khả năng gây  
bệnh cho người, động vật và thực vật. Một số trong chúng có khả năng tiết chất  
kháng sinh (Bacillum subtilis,…). Đa số vi khuẩn sống hoại sinh trong tự nhiên.  
Vi khuẩn có hình thái nhất định, hình thái này do màng vi khuẩn quyết  
định, trừ một số vi khuẩn không có màng nên không có hình thái nhất định  
1. Hình dạng  
Dựa theo hình thái bên ngoài của vi khuẩn người ta chia làm các loại sau:  
cầu khuẩn, trực khuẩn, xoắn khuẩn, phẩy khuẩn.  
a. Nhóm cầu khuẩn (Coccaceae)  
Là loại vi khuẩn có hình cầu khoặc elíp. Tuy nhiên, có nhiều loại không  
thật giống với hình cầu, tế bào đứng riêng rẽ hoặc dính lại với nhau. Kích thước  
của cầu khuẩn thay đổi trong khoảng 0,5 - 1m. Tuỳ theo đường kính của mặt  
phẳng phân cắt và đặc tính rời nhau hoặc dính với nhau sau khi phân cắt mà cầu  
khuẩn có một số hình dạng sau :  
Đơn cầu khuẩn (monococcus)  
Thường đứng riêng rẽ từng tế bào một, đa số sống hoại sinh trong đất,  
nước và không khí như Micrococcus roseus, Micrococcus luteus  
Song cầu khuẩn (diplococcus)  
Cầu khuẩn được phân cắt theo một mặt phẳng xác định và dính với nhau  
thành từng đôi một.  
Tứ cầu khuẩn (tetracoccus)  
Cầu khuẩn phân cắt theo hai mặt trực giao và sau đó dính với nhau thành  
từng nhóm 4 tế bào một. Tứ cầu khuẩn thường sống hoại sinh, song cũng có loài  
có khả năng gây bệnh như Tetracoccus homari.  
Bát cầu khuẩn (sarcinacus)  
Cầu khuẩn phân cắt theo ba mặt phẳng trực giao (thẳng góc) tạo thành  
những khối gồm 8 hoặc 16 tế bào dính liền nhau.Trong không khí thường gặp  
một số loài như Sarcinacus lutea khi cấy vào môi trường đặc chúng phát triển  
thành những khuẩn lạc có màu vàng.  
Liên cầu khuẩn (streptolococcus)  
Cầu khuẩn được phân cắt theo một mặt phẳng xác định và dính với nhau  
thành từng chuỗi dài.  
Tụ cầu khuẩn (staphylococcus)  
6
Cầu khuẩn được phân cắt theo các mặt phẳng bất kỳ, sau đó dính lại với  
nhau thành từng chùm nhỏ. Đa số sống hoại sinh, một số có thể gây bệnh cho  
người và động vật như Staphyloccoccus aureus.  
Cầu khuẩn nói chung không có tiên mao, không có khả năng di động.  
b. Nhóm trực khuẩn: (bacillaceae – bacteriaceae)  
Trực khuẩn là tên chung chỉ các loài vi khuẩn có dạng que, hình gậy, kích  
thước của trực khuẩn khoảng 0,5-1 1- 4m. Những trực khuẩn thường gặp  
thuộc các giống sau:  
a. Trực khuẩn không có nha bào ( bacterium)  
b. Trực khuẩn có nha bào (bacilllus)  
Dạng 2 đầu vuông: trực khuẩn nhiệt thán  
Dạng 2 đầu tròn: trực khuẩn thương hàn  
Dạng 2 đầu phình to như quả tạ: trực khuẩn bạch hầu  
Dạng phình to ở giữa như trực khuẩn uốn ván  
c. Nhóm xoắn khuẩn: (spirillaceae)  
Là loại vi khuẩn có một hay nhiều vòng xoắn: có 2 dạng:  
Phẩy khuẩn (Vibrio) có một vòng xoắn  
Xoắn khuẩn (Spirillum) có nhiều vòng xoắn.  
2. Cấu tạo của tế bào vi khuẩn  
a. Màng tế bào vi khuẩn (thành tế bào)  
Màng tế bào nằm trong lớp vỏ nhầy hay giáp mô và bên ngoài màng  
nguyên sinh chất. Trong điều kiện bình thường, màng tế bào nằm sát liền màng  
nguyên sinh chất.  
Cấu tạo:  
Màng tế bào chiếm từ 25 - 30% khối lượng khô của vi khuẩn, màng có  
nhiều lớp, được cấu tạo chủ yếu là glycopeptit (mucopeptit, peptidoglycal,  
murein). Hàm lượng glycopeptit trong màng tế bào vi khuẩn chiếm tới 95%.  
Chức năng:  
- Là khung để giữ cho tế bào vi khuẩn có hình thái nhất định.  
- Hỗ trợ sự vận chuyển của tiên mao.  
- Cần thiết cho quá trình phân cắt bình thường của tế bào.  
- Màng có cấu trúc cứng chịu được áp suất nội tế bào (áp suất này khoảng  
25 atm) nên giúp cho vi khuẩn chống lại được các tác nhân vật lý và hoá học có  
hại ở bên ngoài.  
7
- Có liên quan mật thiết đến tính kháng nguyên, tính gây bệnh (khả năng  
sinh nội độc tố, tính mẫn cảm với thẻ thực khuẩn).  
b. Màng tế bào chất:  
Dưới lớp màng tế bào là lớp màng tế bào chất (Cytoplasmic  
membrane), lớp màng này bao bọc toàn bộ lớp nguyên sinh chất và nhân.  
8
Cấu tạo: Màng tế bào dày khoảng 50-100A0 (1A0 = 10-1nm = 10-4 m =  
10-7 mm), màng có cấu tạo 3 lớp: lớp ngoài cùng và lớp trong cùng là hai lớp  
protein, ở giữa là lớp photpholipid, lớp photpholipid lại gồm hai lớp phân tử,  
một lớp có gốc quay vào trong (kỵ nước), một lớp có gốc quay ra ngoài (ưa  
nước)  
Chức năng:  
- Khống chế sự vận chuyển trao đổi ra, vào tế bào của các chất dinh  
dưỡng và các sản phẩm trao đổi chất.  
- Duy trì áp suất thẩm thấu của tế bào.  
- Tham gia vào quá trình trao đổi chất.  
- Là nơi xảy quá trình sinh tổng hợp một số thành phần của tế bào, nhất là  
các thành phần của màng tế bào và giáp mô.  
- Là nơi tiến hành quá trình photphoryl oxy hoá và photphoryl quang  
hợp.  
- Cung cấp năng lượng cho sự hoạt động của tiên mao.  
c. Tế bào chất  
Cấu tạo:  
Là thành phần chính của tế bào vi khuẩn. Đây là một khối dịch ở thể keo,  
trong suốt, không đồng nhất, chứa 80 - 90% nước, thành phần còn lại là  
lipoprotein.  
Khi còn non tế bào chất có cấu tạo đồng nhất, bắt mầu giống nhau khi  
nhuộm mầu. Khi già, xuất hiện những không bào và các thể ẩn nhập (thể vùi,  
granlulosse) mà tế bào chất trở nên có dạng lổn nhổn, bắt mầu không đều và có  
tính chiết quang khác nhau.  
Tế bào chất của tế bào vi khuẩn rất khác tế bào chất của tế bào thực vật.  
Trong tế bào chất của tế bào thực vật có cấu trúc phức tạp với trung thể  
(centroxome), ty thể (mitochrondla), bộ máy golgi, lạp thể, có chuyển động  
dòng nội bào. ở vi khuẩn, cấu trúc của tế bào chất rất đơn giản. Trong tế bào  
chất của các vi khuẩn trưởng thành, người ta quan sát thấy có nhiều cơ quan  
khác nhau: mezosome, ribosome (40 -60%), không bào, các hạt dự trữ.  
Chức năng:  
- Tổng hợp protein và đóng vai trò quan trọng trong quá trình dinh dưỡng  
của vi khuẩn.  
- Ngoài ra trong tế bào chất còn chứa lipit, glucid và protein. Chúng  
thường kết hợp với nhau tạo thành phức hợp: gluxit – lipit – protit và kim loại  
mạnh như Mg.  
9
Có thể phân biệt các loài vi khuẩn nhờ cách nhuộm tế bào chất bằng các  
loại thuốc nhuộm khác nhau.  
Ví dụ: Dùng phương pháp nhuộm gram vi khuẩn để xác định được vi  
khuẩn thuộc dạng vi khuẩn nào: vi khuẩn gram (+), vi khuẩn gram (-)  
d. Nhân  
Cấu tạo:  
Nhân là một bộ phận của tế bào vi khuẩn chứa đựng bộ máy di truyền  
(ADN) (chiếm 1 - 2% trọng lượng khô của tế bào). ADN là chất đặc trưng của vi  
khuẩn, vì có nhiều acid này nên nhân có tính ưa kiềm đối vối các thuốc nhuộm  
kiềm. ở các tế bào động vật và thực vật, tế bào chất ít ưa kiềm nên dễ dàng phân  
biệt được với nhân.  
Nhân tế bào vi khuẩn không phân chia thành khối rõ rệt như của tế bào  
nhiều vi sinh vật khác (nấm men, nấm mốc,... ).  
Trước đây có ý kiến cho rằng vi khuẩn không có nhân hoặc chỉ là các  
hình thức tương tự như nhân, có ý kiến cho rằng nhân chưa phải là nhân thực sự  
mà là các hạt nhiễm sắc phân tán trong tế bào chất, có ý kiến khác lại cho rằng  
vi khuẩn chưa phải là nhân thực sự mà là các nhiễm sắc thể riêng biệt. Với  
những nghiên cứu mới đây về di truyền học, người ta thấy cấu trúc chứa ADN  
của vi khuẩn chưa phải là nhân thực sự mà chỉ là thể nhân. Thể nhân được coi  
như nhiễm sắc thể được cấu tạo chủ yếu bằng axít Digoxyribonucliec (AND)  
xoắn kép rất dài.  
- Thể nhân không có màng nhân giới hạn giữa thể nhân và nguyên sinh  
chất.  
- Thể nhân được cấu tạo bởi môt sợi nhiễm sắc thể duy nhất của tế bào, đó  
là một sợi ADN xoắn, sợi ADN tròn và chỉ là một phân tử ADN khép kín.  
- Ngoài nhiễm sắc thể, nhiều vi khuẩn có chứa ADN ngoài nhiễm sắc thể  
là plasmid (sợi ADN xoắn kép dạng vòng kín), có khả năng sao chép độc lập.  
Chức năng: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh sản của vi khuẩn  
và điều khiển việc tổng hợp protid. ở mỗi một vi khuẩn khác nhau, số lượng  
nhân và vị trí đứng của nhân có khác nhau.  
e. Giáp mạc (vỏ nhầy hoặc lớp dịch nhầy)  
Cấu tạo: Giáp mạc là sự phát triển phình to ra của lớp keo nhầy ngoài  
màng tế bào, khi chất nhầy đó nhiều và đặc sẽ hình thành giáp mạc.  
Chức năng  
- Dùng để chống đỡ với điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Ví dụ: Bọn phế cầu  
nhờ có lớp giáp mạc mà nó không bị bạch cầu tiêu diệt.  
- Sự hình thành giáp mạc do chức năng sinh lý của cơ thể đòi hỏi.  
10  
- Dự trữ thức ăn  
- Tích luỹ một số sản phẩm trao đổi chất.  
- Giúp vi khuẩn bám vào bề mặt của một số giá thể  
g. Nha bào  
Một số loài vi khuẩn, thường là các vi khuẩn Gram dương như giống trực  
khuẩn Bacillus và Clostridium trong những giai đoạn phát triển nhất định có thể  
hình thành trong tế bào những thể hình tròn hay hình bầu dục được gọi là bào tử  
hay nha bào (spore)  
Nha bào là hình thức tiềm sinh của vi khuẩn, nó giúp vi khuẩn vượt qua  
những điều kiện bất lợi của ngoại cảnh, nha bào thường được sinh ra trong  
những điều kiện khó khăn như môi trường nghèo nàn, chất dinh dưỡng thiếu,  
nhiệt độ, pH không thích hợp, môi trường tích luỹ nhiều sản phẩm trao đổi chất  
bất lợi.  
Sự hình thành nha bào: Đầu tiên tế bào chất và chất nhân tập trung lại ở  
một vị trí nhất định trong tế bào, sau đó hình thành một màng bắt đầu là màng tế  
bào chất. Màng này ngăn cách khối nhân và phần tế bào chất với phần lại của vi  
khuẩn, tế bào chất tiếp tục cô đặc lại. Đó là giai đoạn tiền nha bào, tiền nha bào  
được bao bọc bởi các lớp màng và chuyển thành nha bào. Thời gian hình thành  
nha bào tuỳ vào từng loài vi khuẩn có thể từ 18 - 20 giờ.  
Nha bào có sức đề kháng cao đối với các nhân tố vật lý và hoá học như  
nhiệt độ, tia cực tím, áp suất và các chất sát trùng.  
Với nhiệt độ: ở một số vi khuẩn ưa nhiệt sau khi đun sôi 5 ngày mới diệt  
được nha bào, ở nhiệt độ 1800C nha bào của Clostridium botolinum chịu được  
trong 10 phút. Trong điều kiện nhiệt độ thấp và sự khô cạn, nha bào có thể sống  
được một thời gian rất dài. Nha bào ở vi khuẩn nhiệt thán Bacillus anthracis có  
thể sống tới 18 năm hoặc lâu hơn nữa ở trạng thái tiềm sinh.  
Dưới tác động của các loại hoá chất cũng như các loại bức xạ, cùng một  
nồng độ, cùng một thời gian tác động có thể tiêu diệt dễ dàng tế bào dinh dưỡng  
của vi khuẩn nhưng không tiêu diệt được nha bào.  
VD: Trong dung dịch phenol 5% tế bào dinh dưỡng của vi khuẩn chết rất  
nhanh, nhưng nha bào có thẻ sống tới 25 ngày, hoặc trong dung dịch HgCl2 1%  
tế bào dinh dưỡng của vi khuẩn chết ngay còn nha bào sống được trên 2 giờ.  
Khi gặp điều kiện thuận lợi như nhiệt độ, độ ẩm, độ pH, chất dinh dưỡng  
phù hợp, nha bào sẽ nảy mầm và phát triển thành vi khuẩn thể dinh dưỡng mới.  
Thời gian để chuyển từ nha bào sang thể dinh dưỡng kéo dài từ 10 phút đến vài  
giờ. Khi đó nha bào hút nước, trương lên, màng nứt ra hoặc bị phân huỷ dưới tác  
dụng của các enzym chứa trong nha bào khi nẩy mầm và tạo thành vi khuẩn.  
Những vi khuẩn hình thành nha bào có tính đề kháng cao.  
11  
Hình dạng: Nha bào hình cầu, bầu dục, trứng có thể đứng ở giữa hoặc ở  
đầu tế bào.  
Hình 3: Quá trình hình thành nha bào  
h. Tiên mao  
Một số loài vi khuẩn có khả năng di động một cách chủ động nhờ những  
cơ quan đặc biệt gọi là tiên mao.  
Tiên mao của vi khuẩn có kích thước rất mảnh, chiều rộng khoảng 0.01-  
0.05m; chiều dài thay đổi tuỳ từng loại vi khuẩn, trung bình 6-9m, có khi dài  
đến 80-90m.  
Vị trí sắp xếp và số lượng tiên mao trên thân vi khuẩn thay đổi tuỳ từng  
loại vi khuẩn.  
- Có nhiều loại vi khuẩn không có tiên mao, có loại  
- Đơn mao (monotricha): chỉ có một tiên mao ở một đầu của vi khuẩn  
- Song mao hay lưỡng mao (amphotricha): mỗi đầu có một tiên mao  
- Chùm mao: một đầu hoặc ở hai đầu có một chùm mao hoặc lưỡng chùm  
mao.  
- Chu mao: tiên mao mọc ở khắp cơ thể (peritricha).  
Vị trí phân bố của tiên mao trên vi khuẩn quyết định đặc tính của vi  
khuẩn. Tốc độ di động của những vi khuẩn có tiên mao mọc ở một đầu có khả  
năng di động nhanh, mạnh và theo một đường rõ rệt; tốc độ này có thể đạt tới  
60m/giây, có loại đạt 200m/giây. Vi khuẩn có chùm mao thì di động chậm  
hơn và không theo một quy luật nhất định nào, di động lung tung tứ phía.  
Chức năng: Tiên mao làm cho vi khuẩn di động vận động xoay vần xung  
quanh, xoáy trôn ốc, xoáy như một cái chong chóng hay co rút như làn sóng.  
12  
Ngoài ra có một số vi khuẩn không sinh tiên mao nhưng vẫn di động  
được.  
Ví dụ: Niêm vi khuẩn di động được nhờ sự biến hình cơ thể  
Xoắn khuẩn di động được nhờ sự đàn hồi của cơ thể.  
II. NẤM MEN – ASCOMYCETES  
Nấm men phân bố rộng rãi trong tự nhiên, phân bố nhiều ở những nơi có  
hàm lượng đường cao, pH thấp.  
- Nấm men là vi sinh vật tồn tại ở trạng thái đơn bào  
- Đa số sinh sản theo lối nảy chồi, đôi khi sinh sản theo lối phân cắt.  
- Đa số nấm men có thành tế bào cấu tạo bởi mannan, nhiều loài có khả  
năng lên men đường và thích nghi với môi trường chứa đường cao, có tính axít  
cao.  
1. Hình thái và cấu tạo  
a. Hình thái  
Nấm men là vi sinh vật điển hình cho nhóm nhân chuẩn (Eucaryote).  
- Hình dạng: tuỳ loài nấm men mà tế bào có hình cầu, hình trứng, hình  
ovan, hình elip, hình sao, hình lưỡi liềm, hình thoi, hình tam giác,...  
- Kích thước: tế bào nấm men thường lớn gấp 10 lần tế bào vi khuẩn.  
Loại nấm men được nhà máy rượu, nhà máy bia sử dụng là Saccharomyces  
cerevisiae, có kích thước thay đổi trong khoảng 4,5m - 21m, có thể thấy rõ  
được dưới kính hiển vi quang học với độ phóng đại 40 lần.  
- Có loài nấm men có khuẩn ti hoặc khuẩn ti giả (các tế bào nối với nhau  
thành chuỗi dài ).  
b. Cấu tạo tế bào nấm men  
* Thành tế bào (màng)  
- Cấu tạo: Thành tế bào dày khoảng 2,5x104m. Thành tế bào nấm men  
chiếm khoảng 80% chất polysaccharit, phần còn lại là protein chiếm khoảng 10 -  
20%, trong đó có một phần là các enzim.  
- Chức năng: Duy trì hình dạng của tế bào, cản trở sự xâm nhập có hại từ  
bên ngoài.  
Tế bào chất  
Trong tế bào chất chứa các cơ chất nguyên sinh (tế bào chất) và các bào  
quan.  
13  
Tế bào chất là phần dịch thể tồn tại ở trạng thái lỏng, chiếm hầu hết  
thể tích của tế bào. Nằm lẫn trong tế bào chất là tất cả các bào quan của tế bào  
như:  
- Riboxom:  
+ Số lượng thay đổi tuỳ theo từng loài, từng giai đoạn phát triển và giai  
đoạn nuôi cấy.  
+ Có khả năng tổng hợp protein mạnh.  
- Không bào: Điều hoà áp suất thẩm thấu, tham gia vào quá trình trao đổi  
chất, đièu hoà các quá trình sinh trưởng và phát triển của tế bào.  
- Các hạt dự trữ: hạt lipid, hạt glicogen và hạt tinh bột.  
- Ti thể: có cấu trúc giống như nấm sợi và các sinh vật có nhân khác.  
ADN của ti thể nấm men là một phân tử dạng vòng, ADN của ti thể nấm men  
chiếm 15 - 23% tổng lượng ADN của toàn tế bào nấm men.  
+ Là nơi cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của nấm men.  
+ Tham gia vào quá trình tổng hợp protein và photpholipid nhưng là  
protein có trọng lượng phân tử thấp.  
Hình 4. Cấu tạo của nấm men  
14  
Nhân  
Nhân được bao bọc bởi một màng nhân. Nhân của tế bào nấm men rõ  
ràng hơn nhân của vi khuẩn: đã có xu hướng phân hoá và tập trung hơn, có  
màng nhân, dịch nhân, nhân con và các nhiễm sắc thể.  
Hình dạng nhân thay đổi theo tuổi: khi còn non nhân hình tròn nằm giữa  
tế bào, khi già nhân hình dẹt nằm sát thành tế bào.  
2. Sinh sản  
Nấm men có nhiều phương thức sinh sản khác nhau tuỳ từng loài.  
a. Sinh sản vô tính: Có 3 kiểu sinh sản  
Sinh sản theo lối nảy chồi:  
Khi tế bào nấm men trưởng thành sẽ nảy ra một chồi nhỏ, chồi lớn dần  
lên, nhân của tế bào mẹ sẽ được nhân đôi và chuyển 1 nhân cùng một phần tế  
bào chất sang chồi, hình thành vách ngăn để ngăn cách với tế bào mẹ tạo nên  
một tế bào mới. Tế bào con được hình thành có thể tách khỏi tế bào mẹ hoặc  
dính trên tế bào mẹ và tiếp tục nảy sinh thành tế bào mới.  
Sinh sản theo lối phân cắt (trực phân): lối phân cắt này là hình thức  
phân cắt trực phân tương tự như ở vi khuẩn. Tế bào mẹ dài ra, ở giữa hình thành  
một vách ngăn chia tế bào mẹ thành 2 tế bào con, mỗi tế bào con chứa một nhân.  
Tạo thành nang bào tử: nhân của tế bào mẹ được nhân lên và chia thành  
nhiều phần bằng nhau. Nguyên sinh chất bao quanh những nhân đó tạo thành  
bào túi có vỏ dày và mất bớt nước. Lúc đó, tế bào mẹ trở thành nang bào tử  
b. Sinh sản hữu tính  
Khi hai tế bào đứng gần nhau ở mỗi đầu của hai tế bào lồi lên và tiến sát  
vào nhau, sau khi tiếp xúc màng tế bào sẽ nứt ra, hai tế bào tiếp hợp với nhau tạo  
thành hợp tử (2N), nhân của hợp tử phân chia làm 2,4 hoặc 8 nhân mới, và mỗi  
một nhân con cùng với một phần nguyên sinh chất tạo thành bào tử túi.  
3. Ứng dụng  
Rất nhiều loài nấm men được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất công  
nghiệp (sản xuất bia, rượu, nước giải khát), chăn nuôi (sinh khối phục vụ chăn  
nuôi như cao nấm men, lipit nấm men,...)  
Nấm men có vai trò chuyển hoá vật chất trong thuỷ vực. Trong các thuỷ  
vực có nhiều xác thực vật thì nấm men rất phát triển chúng phân giải cellulose  
thành axít nên những thuỷ vực này thường có pH thấp).  
Đặc biệt loài Saccharomycess cerevisiae, men hoạt tính (Active Microbe),  
men sống đặc biệt (Special live Germ), dùng làm sạch đầm (dùng 2-3kg/1 mẫu  
đầm).  
15  
Nấm men còn làm thức ăn cho các đối tượng nuôi Daphnia, ấu trùng muỗi  
lắc... Các loài này là thức ăn tươi sống cho các đối tượng nuôi thuỷ sản như ấu  
trùng tôm, cá,...và tăng cường tiêu hoá cho tôm.  
Nấm men còn được dùng làm nguồn thức ăn trực tiếp cho động vật không  
xương sống.  
Trong quá trình nuôi nhuyễn thể cũng cho thấy rằng sau 30-40 ngày ăn  
thức ăn vi sinh vật trọng lượng của nhuyễn thể được thay đổi như sau:  
Bảng tăng trọng của nhuyễn thể sau 30-40 ngày nuôi bằng vi sinh vật:  
Loài nhuyễn thể  
Vi sinh vật dùng làm thức ăn  
(tăng % so với khối lượng ban đầu)  
Azotob  
Nấm  
Trực  
khuẩn  
acter  
150  
men  
150  
Musculium  
100  
-
-
100 -  
Musculium  
trưởng  
thành  
13 - 48  
9,7  
29 - 57  
1,9  
-
Limna caovata  
10,3 - 9,9  
33,3  
55,4  
33,3  
Bithynia tentacalata  
3,1 –  
6,3 – 30  
17,5 - 17  
III. NẤM MỐC – FUNGI  
Nấm mốc (molds, moulds) là tên chung để chỉ tất cả các nhóm nấm không  
phải là nấm men mà cũng không phải là các nấm lớn có mũ như nấm rơm, nấm  
gỗ.  
1. Hình thái, cấu tạo  
a. Hình thái  
Nấm mốc phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, cơ thể đơn bào hoặc đa bào,  
do nhiều khuẩn ty phân tán và bào tử hợp thành cơ thể nấm.  
Nấm mốc có hình sợi phân nhánh, những sợi này sinh trưởng ở đỉnh và  
phát triển rất nhanh, tạo thành một đám chằng chịt các sợi, từng sợi được gọi là  
khuẩn ty hay sợi nấm (hypha), còn các đám sợi thì được gọi là khuẩn ty thể hay  
hệ sợi nấm (mycellum).  
b. Cấu tạo  
Nấm mốc có cấu tạo gồm khuẩn ty và bào tử  
Khuẩn ty: Là những sợi nấm phân nhánh, phát sinh từ bào tử mà ra, chiều  
ngang của khuẩn ty từ 3 - 10m, lớn gấp 10 lần chiều ngang của vi khuẩn. Tuỳ  
từng loài nấm mốc khác nhau mà chúng có hình thái khác nhau:  
16  
- Sợi nấm hình lò xo, hình xoắn ốc.  
- Sợi nấm hình hươu.  
- Sợi nấm hình lược, hình lá cây dừa.  
Một số sợi nấm phát triển sâu vào cơ chất và hấp thụ các loại thức ăn chứa  
trong đó gọi là sợi nấm cơ chất hoặc sợi nấm dinh dưỡng (khuẩn ty cơ chất hay  
khuẩn ty dinh dưỡng). Một số sợi nấm khác phát triển trên bề mặt cơ chất gọi là  
sợi nấm khí sinh (khuẩn ty khí sinh). Một số khuẩn ti khí sinh phát triển thành  
khuẩn ti sinh sản.  
Bào tử: Là tế bào sinh sản chủ yếu của nấm mốc. Khi nấm mốc trưởng  
thành sẽ xuất hiện các khuẩn ty khí sinh, từ khuẩn ty khí sinh sẽ sản sinh ra các  
bào tử.  
- Bào tử vô tính: gồm 4 loại  
+ Bào tử đốt: các khuẩn ti có sự ngắt đốt, mỗi đốt là một bào tử  
+ Bào tử màng dày: trên các đoạn khuẩn ti sinh sản xuất hiện các phần lồi  
hình tròn hoặc hơi tròn có màng dày bao bọc. Bên trong hình thành bào tử.  
+ Bào tử nang: đầu khuẩn ti sinh sản phình to dần tạo thành bọc có nhiều  
bào tử.  
+ Bào tử đính: các bào tử được hình thành một cách tuần tự, liên tiếp từ  
đầu khuẩn ti sinh sản. Có 3 hình thức hình thành bào tử đính:  
Có sự phân cắt khuẩn ti sinh sản thành từng đốt (có thể gọi là bào tử đốt).  
Bào tử phía đầu khuẩn ti sinh sản là bào tử già nhất, những bào tử hình  
thành sau đẩy bào tử hình thành trước lên phía trước.  
Bào tử phía đầu khuẩn ti sinh sản là bào tử non nhất, từ đầu bào tử ban  
dàu nảy chồi để hình thành những bào tử khác.  
- Bào tử hữu tính:  
+ Bào tử noãn: trên đỉnh tế bào xuất hiện noãn khí và hùng khí cạnh nhau.  
Trong noãn khí chứa một hoặc nhiều noãn cầu. Sau khi tiếp xúc với nhau, hùng  
khí hình thành một hoặc vài ống xuyên sang noãn khí. Một nhân và một phần  
nguyên sinh chất được chuyển sang noãn khí để thụ tinh tạo thành một noãn bào  
tử. Sau một thời gian phân chia giảm nhiễm, bào tử phát triển thành gệ khuẩn ti  
mới.  
+ Bào tử tiếp hợp: khi 2 tế bào gần nhau, mỗi tế bào sẽ xuất hiệnmấu lồi  
gọi là nguyên phôi nang. Hai mấu lồi tiếp xúc với nhau tạo thành một hợp tử  
màng dày gọi là bào tử tiếp hợp. Bào tử tiếp hợp sẽ nảy mầm và phát triển thành  
một nang chứa bào tử.  
+ Bào tử túi: tạo hùng khí và túi gío tử cái. Thể sinh túi hình thành một số  
sợi thụ tinh. Khi tiếp xúc với sợi thụ tinh, hùng khí chuyển hết khối nguyên sinh  
17  
chất chứa nhân vào thể sinh túi và tạo thành túi bào tử. Bào tử sẽ phát tán và nảy  
mầm khi gặpđiều kiện thuận lợi.  
+ Bào tử đảm: do tế bào 2 nhân ở đỉnh sợi phình to tạo thành. Hai nhân  
kết hợp với nhau hình thành một nhân lưỡng bội. Sau quá trình phân chia giảm  
nhiễm cho 4 nhân đơn bội và tạo thành 4 bào tử đảm  
Hình 5. Quá trình hình thành bào tử ở nấm mốc  
Nấm mốc có hạch nhân phân hoá rõ rệt, có xu hướng tập trung ở giữa.  
Tế bào chất khi non đồng đều, khi già có nhiều hạt.  
2. Sinh sản : có hai hình thức sinh sản  
a. Sinh sản vô tính:  
Sinh sản nội sinh:  
Các sợi khuẩn ty thể đến một giai đoạn có khả năng sinh sản, trên đầu  
xuất hiện một nhánh, đỉnh nhánh có mầu sắc gọi là sợi khuẩn ty (sợi khuẩn ty có  
khả năng sinh sản bằng bào tử). Khi gặp gió cuống sinh bào tử bị gãy, bào tử  
phát tán đi xa.  
Đính bào tử  
Khi sinh sản xuất hiện nang đỉnh, từ nang đỉnh sinh ra đính bào tử điển  
hình cho sinh sản loại này là: Aspegillus orygae  
b.Sinh sản hữu tính:  
18  
Khi sinh sản, hai sợi khuẩn ty thể đứng gần nhau, sát hai màng với nhau,  
màng mất đi, chúng trao đổi chất cho nhau tạo thành hợp tử. Khi gặp điều kiện  
thuận lợi hợp tử này nảy mầm cho cơ thể nấm mới.  
3. Ứng dụng của các dạng nấm mốc thường gặp :  
a. Mốc trắng  
Họ mốc trắng Mucoraceae  
Giống  
Mucor  
Rhizopus  
Giống  
Giống Mucor  
Có trong men rượu ta, có khả năng hoá đường. Khuẩn ty thể có màu trắng  
như bong mỗi cuống sinh bào tử mang một bào tử. Mucor có tác dụng biến tinh  
bột thành rượu.  
Giống Rhizopus  
Hoại sinh trên ruột bánh mì, ngô bung, thể sợi màu trắng chuyển sang  
nâu. Nấm này mang rễ giả.  
b. Mốc xanh:  
Khuẩn ty thể màu xanh, mỗi cuống sinh bào tử mang nhiều bào tử. Đại  
diện là: Penicillum chrysogenum.  
Ứng dụng: điều chế kháng sinh penicillin  
c. Mốc lòng tôm  
Họ nấm cúc: Aspegillaceae  
Giống: Aspegilla  
Sinh sản bằng đính bào tử, cuống đính bào tử phình to ở phía đầu, xung  
quanh đầu có nhiều cuống nhỏ mang những chuỗi đính bào tử nhẹ, khô, dễ bay  
xa, thường ký sinh trên bánh mỳ ẩm, ngô bung, vỏ bưởi, gỗ, vải ẩm...  
Nấm có dạng sợi chằng chịt bám vào vật chủ. Nấm cúc có màu vàng, đỏ  
hoặc lòng tôm.  
Ưu điểm: Điều chế kháng sinh Aspegillin, Clavacxin (chữa nhiễm trùng)  
Điều chế A xit citric  
19  
Làm đường, bánh mì (sử dụng men amilaga từ asperrgilus orygae, bằng  
cách thêm vào bột nhào (20 – 30g chế phẩm khô của amilaga / tấn bột) nhằm cải  
thiện chất lượng bánh mì (hương vị thơm, màu đỏ, xốp, hàm lượng đường cao)  
Trong sản xuất rượu bia thay amilaga từ mạch nha bằng chế phẩm men từ  
nấm mốc.  
Tác hại: gây bệnh nấm tai  
d. Mốc nước:  
Họ mốc nước: Saprolegniaceae  
Bộ nấm noãn  
Lớp nấm tảo: phycomycetes  
Mốc nước sống hoại sinh trong nước, trên cơ thể trứng cá, sâu bọ hay các  
sinh vật ở nước, nấm bám thành chùm sợi trắng.  
Đại diện: Saprolegnia (nấm thuỷ mi)  
Trước khi cho cá chép đẻ người ta thường nghe thời tiết. Nếu có gió mùa  
đông bắc, chưa cho đẻ thì tạm dừng, còn đã cho đẻ thì phải làm vệ sinh giá thể  
bằng (thuốc tím 5 ppm, muối ăn 1-2%).  
4. Vai trò của nấm mốc trong tự nhiên  
Nấm mốc góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các vòng tuần hoàn vật  
chất trong tự nhiên, chúng có khả năng phân giải mạnh mẽ các hợp chất hữu cơ  
phức tạp.  
Sử dụng nấm mốc để sản xuất tương.  
Sản xuất các chế phẩm enzim như amylaza, protoeaza,...  
Nhiều loại nấm mốc có khả năng tiết chất kháng sinh có giá trị như:  
penixilin, fuzidin, fumagilin.  
Bên cạnh đó, nấm mốc cũng là nguyên nhân gây ra nhiều tổn thất cho  
mùa màng, lương thực, thực phẩm, hàng hoá, vải vóc, dụng cụ quang học, phim  
ảnh, sách vở, ...  
IV. XẠ KHUẨN – ACTINOMYCES  
1. Hình thái và cấu tạo  
Xạ khuẩn (Actinomyces) là một nhóm vi sinh vật đơn bào, phân bố rộng  
rãi trong tự nhiên: trong đất, trong nước và trong các cơ chất hữu cơ.  
Trước đây người ta cho rằng xạ khuẩn là một loài nấm, nhưng hiện nay  
nhờ những nghiên cứu tỷ mỷ về tế bào học, người ta coi xạ khuẩn là sinh vật quá  
độ giữa vi khuẩn và nấm vì ở xạ khuẩn có những đặc điểm vừa giống vi khuẩn  
vừa giống nấm.  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 72 trang yennguyen 22/04/2022 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Vi sinh vật (Mới nhất)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_vi_sinh_vat_moi_nhat.pdf