Bài giảng Lượng giá sức khỏe thai - Bài: Non-stress Test

Tín chỉ Sản Phụ khoa 1  
Bài giảng trực tuyến  
Bài Team-Based Learning 4-5: Lượng giá sức khỏe thai  
Non-stress Test  
Bài Team-Based Learning 4-5: Lượng giá sức khỏe thai  
Non-stress test.  
Võ Minh Tuấn 1, Trần Nhật Huy 2  
Mục tiêu bài giảng  
Sau khi học xong bài, sinh viên có khả năng  
1. Trình bày được giá trị của Non-stress Test trong việc đánh giá sức khỏe thai  
2. Diễn giải đúng một kết quả Non-stress Test  
3. Trình bày được lưu đồ xử trí thích hợp cho một kết quả Non-stress Test  
Non-stress Test (NST) được xem là một trong những test căn bản dùng trong lượng giá sức khỏe thai. Test được dùng rộng rãi, đơn  
độc hay kết hợp với các lượng giá sức khỏe thai khác.  
CÁC NGUYÊN LÝ CĂN BẢN CỦA NON-STRESS TEST  
Hành não là cơ quan điều phối nhịp tim thai thông qua các đáp ứng trực giao cảm hay đối giao cảm.  
Độ dài của một chu chuyển tim không phải là một trị số bất biến. Nó luôn được điều chỉnh liên tục theo chiều hướng dài ra hay là  
ngắn đi trong vài chu chuyển tim liên tiếp rồi mới được điều chỉnh ngược lại. Sau mỗi lần điều chỉnh, trị số tức thời của tim thai sẽ  
biến động khoảng ±2-3 nhịp. Kết quả là trị số của tim thai sẽ luôn dao động khoảng ±5 nhịp/phút chung quanh trị số nền, trong thời  
gian khoảng vài chu chuyển tim. Khoảng này được hiểu là dao động nội tại ngắn hạn.  
Các tác động lên cung lượng tuần hoàn thai nhi, cả input và output đều có thể ảnh hưởng trên các áp cảm thụ quan, kích hoạt các cung  
phản xạ ly tâm trực hay đối giao cảm, làm tăng hay giảm trị số tức thời của tim thai.  
Cơ chế xuất hiện của nhịp tăng là do các can thiệp trực giao cảm xảy ra khi có một thay đổi làm giảm áp suất trên quai chủ và xoang  
cảnh. Nhịp tim tăng nhằm bù lại output bị sút giảm. Như vậy nhịp tăng thể hiện một hành não bình thường, lành mạnh cũng như sự  
toàn vẹn của các đường trực giao cảm ly tâm và của cơ tim.  
Các nhịp giảm là kết quả của các lệnh ly tâm đối giao cảm, theo sau một biến đổi về áp suất hay về phân áp oxygen, nhằm điều chỉnh  
nhịp tim bù trừ cho các biến đổi này. Các nhịp giảm có ý nghĩa rất khác nhau.  
NST cho phép lượng giá tính toàn vẹn của hành não thai nhi.  
Thực hành NST được dựa trên luận điểm là ở những thai nhi không bị nhiễm toan hoặc tổn thương hành não, thì băng ghi EFM sẽ  
mang 2 đặc điểm: (1) dao động nội tại ngắn hạn bình thường và (2) trị số tức thời của tim thai sẽ tăng nhất thời khi có cử động thai.  
Dao động nội tại bình thường và đáp ứng tăng nhịp tim là dấu chỉ tốt cho thấy một thai nhi bình thường về chức năng thần kinh tự trị.  
Giá trị tiên đoán âm của NST trong một tuần lên đến 99%. Do đó, một băng ghi bình thường đảm bảo một thai nhi khỏe mạnh và  
không cần thực hiện thêm các test khác.  
NST không cho phép kết luận về tình trạng nhiễm toan hay có tổn thương trung ương.  
Ngược lại, nhiều yếu tố hay tác nhân có thể làm giảm dao động nội tại hay mất đáp ứng tăng nhịp: có thể là sự kết hợp với chu kỳ ngủ  
của thai nhi, cũng có thể là kết quả của tình trạng suy yếu hệ thần kinh trung ương bao gồm cả tình trạng thai nhi bị nhiễm toan do  
thiếu oxy. Do có rất nhiều tác nhân có thể ảnh hưởng đến đáp ứng tăng nhịp và đến dao động nội tại nên giá trị dự báo một tình trạng  
thai bất thường của NST không cao. Trong tình huống này, các quyết định tiếp theo như đánh giá lượng nước ối, thực hiện trắc đồ sinh  
vật lý hay Contraction Stress Test (CST, còn được gọi ngắn là ST) cần được tiến hành.  
KỸ THUẬT THỰC HIỆN NON-STRESS TEST  
Thực hiện test.  
1. NST là một test được thực hiện ngoài chuyển dạ, tức là khi không có cơn co tử cung. Vắng mặt cơn co tử cung là điều kiện quan  
trọng phải tuân thủ, để đảm bảo rằng test phản ánh thực chất tình trạng của thai nhi, khi không có tác động của bất cứ một tình  
trạng nào có khả năng gây stress.  
2. Thai phụ được khuyên đi tiểu trước, điều này cho phép thu nhận các tín hiệu tốt nhất từ tim thai.  
3. Thai phụ được nằm thoải mái ở tư thế nghiêng trái trên giường hoặc tư thế Fowler nghiêng trái trên ghế tựa, nhằm hạn chế tác  
động của việc chèn ép trên tĩnh mạch chủ dưới gây ảnh hưởng xấu trên dòng hồi lưu về nhĩ phải, làm giảm cung lượng thất trái.  
1 Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: drVo_obgyc@yahoo.com.vn  
2 Thac sĩ, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: tranhuykmf@yahoo.com  
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền.  
1
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1  
Bài giảng trực tuyến  
Bài Team-Based Learning 4-5: Lượng giá sức khỏe thai  
Non-stress Test  
4. Một băng ghi EFM được thực hiện trong thời gian ít nhất là 20 phút. Thai phụ được hướng dẫn để bấm bộ phận đánh dấu cử động  
thai, mỗi khi bà ta cảm nhận được chúng.  
5. Sau 20 phút, tiến hành đánh giá sơ bộ băng ghi NST.  
Nếu băng ghi thỏa điều kiện của một NST đáp ứng bình thường (xem bảng phía dưới) thì có thể kết luận NST đáp ứng bình  
thường và ngưng thực hiện test.  
Nếu băng ghi NST không thỏa ít nhất một trong các tiêu chuẩn của một NST đáp ứng bình thường thì phải tiếp tục thực hiện  
test, trong thời gian 20 phút nữa, hay có thể kéo dài test đến 90 phút. Cơ sở của việc kéo dài thời gian thực hiện test là do khi  
thực hiện NST, có khoảng 40% các trường hợp không có nhịp tim tăng sau 40 phút, và phần lớn trong số này là các thai nhi  
khỏe mạnh. Hiện tượng này được giải thích là do khi ngủ thai nhi sẽ giảm cả cử động lẫn dao động nội tại.  
Kết quả NST được diễn giải tùy theo tuổi thai.  
Do NST được thực hiện với mục đích đánh giá tình trạng sức khỏe thai, nên NST được thực hiện khi thai nhi được đánh giá là đã có  
khả năng sống. Có sự khác biệt trong đánh giá NST cho các thai có tuổi thai dưới 32 tuần vô kinh hay trên 32 tuần vô kinh. Độ trưởng  
thành của hệ thần kinh trung ương (hành não) ảnh hưởng trên khả năng điều phối của nó trên nhịp tim thai.  
Một cách kinh điển, với các thai kỳ có tuổi thai trên 32 tuần vô kinh, NST được coi là bình thường (đáp ứng) khi có ít nhất hai lần tăng  
nhịp tim thai trong 20 phút, trong đó nhịp tăng được đánh giá khi tăng với biện độ ít nhất 15 nhịp so với trị số tim thai căn bản và kéo  
dài ít nhất là 15 giây.  
Khi diễn giải kết quả NST ở thai non tháng cần cẩn trọng. Với các thai kỳ nhỏ hơn 32 tuần, nhịp tăng được xác định khi tăng với biên  
độ hơn 10 nhịp so với trị số tim thai căn bản và kéo dài ít nhất là 10 giây.  
NST với đáp ứng không thỏa đáng đòi hỏi một sự cẩn trọng trong diễn giải.  
Theo Brown và Patrick thì thời gian không có nhịp tăng liên hệ chặt chẽ với sự tổn thương của thai nhi. Họ kết luận rằng các thai nhi  
không có nhịp tim tăng sau hơn 80 phút thì thai có thể đã bị tổn thương và tiếp tục không thể có nhịp tăng nào khác. Điều này cũng  
được ghi nhận bởi Leveno và cộng sự. Chính vì lý do trên, khi thai nhi không có nhịp tim tăng sau hơn 40 phút, bác sĩ lâm sàng cần  
thận trọng và việc theo dõi tim thai qua monitor nên được tiếp tục. Các khảo sát bổ túc cũng nên được tiến hành.  
Vấn đề lay gọi thai nhi không làm thay đổi kết quả của NST.  
Trước nay, việc kích thích và lay gọi thai nhi bằng tay thường được sử dụng trên lâm sàng nhằm thay đổi kết quả của một NST không  
đáp ứng. Tuy nhiên, trong một tổng quan gồm 3 nghiên cứu trên Cochrane với 1100 thai phụ nhằm xác định hiệu quả của phương  
pháp này, đã cho thấy việc kích thích này không làm giảm tỉ lệ của các NST không đáp ứng. Do đó, hiện không có khuyến cáo việc  
thực hiện kích thích lay gọi thai nhi bằng tay trên lâm sàng.  
ĐỌC VÀ DIỄN GIẢI KẾT QUNST  
Phương thức đánh giá NST và thái độ thực hành theo Hiệp hội các nhà Sản khoa và Phụ khoa Canada (SOGC)  
Non-stress test  
NST bình thường  
(Đáp ứng)  
NST không điển hình  
(Không đáp ứng)  
Thông số  
NST bất thường  
100-110  
> 160 kéo dài < 30 phút  
Tăng baseline  
< 100  
> 160 kéo dài > 30 phút  
Tim thai căn bản thất thường  
Trị số tim thai căn bản  
(nhịp/phút)  
110-160  
5 , kéo dài > 80 phút  
25 , kéo dài > 10 phút  
Nhịp hình sin  
Dao động nội tại  
(nhịp/phút)  
6-25  
5 , kéo dài < 40 phút  
5 , kéo dài 40-80 phút  
Không có  
hoặc nhịp giảm bất định < 30 giây  
Nhịp giảm bất định > 60 giây  
Nhịp giảm muộn  
Nhịp giảm  
Nhịp giảm bất định 30-60 giây  
≤ 2 nhịp tăng trong 40-80 phút  
≤ 2 nhịp tăng trong 40-80 phút  
≥ 2 nhịp tăng, tăng ≥ 15 nhịp, kéo dài ít  
nhất 15 giây, trong 40 phút làm NST  
Thai đủ tháng  
≤ 2 nhịp tăng trong > 80 phút  
≤ 2 nhịp tăng trong > 80 phút  
Nhịp tăng  
≥ 2 nhịp tăng, tăng ≥ 10 nhịp, kéo dài ít  
nhất 10 giây, trong 40 phút làm NST  
Thai < 32 tuần  
Cần hành động khẩn cấp  
Đánh giá tổng thể tình trạng hiện tại,  
thực hiện ngay siêu âm hay thực hiện  
BBP là cần thiết  
Việc đánh giá tiếp theo cần dựa vào bối  
cảnh lâm sàng  
Hành động  
Việc đánh giá tiếp theo là cần thiết  
Một số trường hợp cần lấy thai ra  
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền.  
2
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1  
Bài giảng trực tuyến  
Bài Team-Based Learning 4-5: Lượng giá sức khỏe thai  
Non-stress Test  
Ban đầu, NST được phân loại thành đáp ứng hay không đáp ứng dựa vào sự hiện diện hay không hiện diện của tiêu chuẩn nhịp tim  
thai tăng.  
Tuy nhiên, các thông số khác như nhịp tim thai căn bản, dao động nội tại, nhịp giảm... là các biểu hiện tổng thể của thai nhi lành mạnh  
hay đang có vấn đề. Vì thế, chúng cũng cần được ghi nhận và đánh giá. Để có sự nhất quán và rõ ràng trong việc diễn giải kết quả,  
Hiệp hội Sản Phụ Khoa Canada (SOGC) chia các kết quả NST thành bình thường, không điển hình và bất thường.  
Một NST bình thường - trước đây gọi là đáp ứng, có ý nghĩa rằng thai nhi không bị đe dọa trong ở thời điểm hiện tại, trong những  
điều kiện hiện tại. Trong hầu hết trường hợp, test có giá trị đảm bảo trong khoảng thời gian là một tuần, nếu như không có bất cứ  
sự kiện nào khác xảy ra trong thời gian đó. Do đó, thời gian lập lại NST phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ cũng như tình trạng cụ  
thể trên lâm sàng. Trong trường hợp một NST bình thường và không có nghi ngờ về thiểu ối thì không cần thiết thực hiện thêm  
các test khác như BPP hay stress test.  
Một NST không điển hình đòi hỏi đánh giá toàn bộ bối cảnh lâm sàng cũng như tình trạng thai nhi. Nên xem xét việc ngưng NST  
và cần thực hiện các test khác cao hơn. Một NST không điển hình cần thêm các test hỗ trợ khác.  
Đối với NST bất thường đòi hỏi những đánh giá ngay lập tức và có thể xem xét đến can thiệp chấm dứt thai kỳ.  
Vai trò của NST trong các bệnh lý khác nhau là khác nhau.  
Hiện chưa có khuyến cáo thực hiện NST một cách thường quy.  
Việc thực hiện NST nhằm đánh giá sức khỏe thai nhi trước sinh có thể được thực hiện ở những thai phụ có các yếu tố nguy cơ ảnh  
hưởng xấu đến kết cục của thai kỳ như đái tháo đường, tăng huyết áp, thai chậm tăng trưởng trong tử cung (Intrauterine growth  
restriction - IUGR) ... Cần lưu ý rằng tùy theo bệnh lý nền mà NST có thể có những vai trò khác nhau.  
Có thể ví dụ như trong đái tháo đường thai kỳ, do khả năng xảy ra các biến động đột ngột về đường huyết (Gestational Diabetes  
Mellitus - GDM), nên một NST bình thường không đủ để đảm bảo một kết cục tốt trong một tuần. Người ta khuyến cáo rằng với  
GDM, NST cần được thực hiện hai lần một tuần.  
Hay trong trường hợp của IUGR, cần phân biệt hai trường hợp khác nhau là IUGR xuất hiện sớm hay muộn. Trong IUGR xuất hiện  
rất sớm thì vai trò của velocimetry Doppler sẽ là nổi trội, các biến động trên NST chỉ xuất hiện rất muộn và diễn biến xấu rất nhanh  
chóng. Ngược lại, trong IUGR xuất hiện muộn, khi các diễn biến xảy đến tuần tiến với tốc độ chậm hơn, NST phối hợp với các thông  
số chỉ báo khác sẽ có vai trò quan trọng.  
Hình 1: NST bình thường  
Băng ghi NST ghi nhận một baseline bình thường, với dao động nội tại bình thường.  
Nhiều nhịp tăng đạt yêu cầu trong thời gian thực hiện test. Một vài nhịp ngắn, nhọn  
không phải là yếu tố nguy cơ.  
Một NST bình thường có ý nghĩa rằng thai nhi không bị đe dọa trong ở thời điểm  
hiện tại, trong những điều kiện hiện tại. Trong hầu hết trường hợp, test có giá trị  
đảm bảo trong khoảng thời gian là một tuần, nếu như không có bất cứ sự kiện nào  
khác xảy ra trong thời gian đó. Do đó, thời gian lập lại NST phụ thuộc vào các yếu  
tố nguy cơ cũng như tình trạng cụ thể trên lâm sàng.  
Hình 2: NST bất thường  
Băng ghi NST trên ghi nhận sự vắng mặt hoàn toàn của cử động thai và nhịp tăng  
trong thời gian khảo sát. Biểu đồ với dao động nội tại tối thiểu, kèm theo các nhịp  
giảm tuần tiến với Nadir lệch pha với cơn co duy nhất quan sát được cho phép xếp  
NST này vào nhóm bệnh lý.  
Đối với NST bất thường đòi hỏi những đánh giá ngay lập tức và có thể xem xét đến  
can thiệp chấm dứt thai kỳ.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. SOGC, Fetal health surveillance: Antepartum and intrapartum consensus guideline, september, 2007.  
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền.  
3
pdf 3 trang yennguyen 14/04/2022 3800
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Lượng giá sức khỏe thai - Bài: Non-stress Test", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_luong_gia_suc_khoe_thai_bai_non_stress_test.pdf