Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thời tiết cực đoan đến hoạt động ương - nuôi cá tra tại sóc trăng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA XÂM NHẬP MẶN VÀ THỜI TIẾT CỰC ĐOAN ĐẾN
HOẠT ĐỘNG ƯƠNG - NUÔI CÁ TRA TẠI SÓC TRĂNG
EFFECTS OF SALTWATER INTRUSION AND EXTREME WEATHER ON STRIPED
CATFISH (PANGASIUS HYPOPTHALMUS) NURSING –GROWING IN SOC TRANG
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Nguyễn Lâm Anh2 và Nguyễn Trọng Lương2
1Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
2Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
Tác giả liên hệ: Nguyễn Văn Quỳnh Bôi (Email: boinvq@ntu.edu.vn)
Ngày nhận bài: 24/09/2020; Ngày phản biện thông qua: 16/11/2020; Ngày duyệt đăng: 24/12/2020
TÓM TẮT
Xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra nhiều ảnh hưởng đối với hoạt động ương – nuôi
cá tra tại Sóc Trăng. Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp khảo sát áp dụng công cụ phỏng vấn dựa
trên bộ câu hỏi bán cấu trúc trên 97 đối tượng là những hộ ương – nuôi cá thể, các quản lý trang trại nuôi của
các công ty và những người nắm thông tin tại Sóc Trăng. Hầu hết các đối tượng đã nhận thức được ảnh hưởng
của xâm nhập mặn và các cực đoan về thời tiết đến hoạt động này và cho rằng tương đối khó khăn trong việc
khắc phục xâm nhập mặn. Ngoài ra, tỷ lệ lớn nhất ở cả 3 nhóm đối tượng đều cho rằng đã có những bất thường
– cực đoan về khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn là vấn đề được quan tâm – lo ngại
nhiều nhất. Trong tương lai, xâm nhập mặn vẫn là vấn đề lo ngại cao nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra
ở tất cả các nhóm đối tượng. Tuy nhiên, biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất thường,… được quan
tâm nhiều hơn bởi những người nắm thông tin nhưng không được đánh giá cao bởi những đối tượng trực tiếp
sản xuất. Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích ứng quan trọng nhất
để ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, bộ câu hỏi khảo sát, Sóc Trăng, ương – nuôi cá tra,
ABSTRACT
Saltwater intrusion and extreme weather caused many impacts on striped catfish nursing – growing in Soc
Trang. Study was carried out by the survey method using the interview tool based on semi-structured questionnaire
on 97 subjects that were individual nursing-fattening households, fish farms managers of companies and key-
informants in Soc Trang. Most of subjects were aware of the effects of saltwater intrusion and extreme weather
to this activity and considered it was rather difficult to overcome saltwater intrusion. In addition, the largest
proportion in all groups showed that there were abnormalities – weather and climate extremes occurred to some
extent and saltwater intrusion was the most concerned problem. In the future, saltwater intrusion would still be
the highest concern for striped catfish farming activity in all groups. However, temperature fluctuations over time,
weather abnormality,... would be more concerned by key-informants but would not lead to much worry by the
group of direct production. Nursing – growing techniques changing for striped catfish would be considered by 3
groups as the most important adaptation measure to cope with climate change and saline intrusion.
Key words: Climate change – salt intrusion, survey questionnaire, Soc Trang, striped catfish nursing – growing,
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Long [9]. Diện tích đất nông nghiệp là 213.114
ha (64,35% tổng diện tích đất) với 71.500 ha
cho nuôi trồng thủy sản [1]. Điều đó chứng tỏ
Sóc Trăng là một tỉnh có tiềm năng để phát triển
nông nghiệp bao gồm cả hoạt động nuôi cá nước
ngọt. Số liệu thống kê của tỉnh những năm gần
đây cho thấy diện tích nuôi cá nước ngọt tương
đối ổn định, thay đổi trong phạm vi 17.738 ha
Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu,
cách thành phố Hồ Chí Minh 231km, cách Cần
Thơ 62 km; nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền
các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau [9]. Tỉnh có diện tích đất tự nhiên 331.187
ha [1], chiếm khoảng 1% diện tích cả nước và
8,3% diện tích của khu vực đồng bằng sông Cửu
2 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
đê điều và cơ sở hạ tầng an toàn [6]. Đối với hoạt
động nuôi cá tra, các biện pháp thích ứng tự phát
làm gia tăng chi phí của người nuôi và hạn chế
khả năng giải quyết vấn đề một cách hệ thống [4].
Vì lý do này, người nuôi cá tra vùng ven biển sẽ
giảm sút lợi nhuận vì ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu. Phân tích của Kam và cộng sự (2012) cũng
cho thấy chi phí thích ứng tự phát của người nuôi
sẽ giảm đi nhiều nếu có các biện pháp thích ứng
kế hoạch của nhà nước [5]. Bài viết này trình bày
các kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng xâm nhập
mặn và những cực đoan về thời tiết đến hoạt động
ương – nuôi cá tra tại Sóc Trăng thông qua khảo
sát nhằm đánh giá khả năng thích ứng của hoạt
động nuôi cá tra trong bối cảnh biến đổi khí hậu
và xâm nhập mặn.
(2010), 18.456 (2015) và 17.924 (2018) với chỉ
số phát triển năm 2018 là 105,01% [1].
Tuy nhiên, hoạt động nông nghiệp nói
chung và nuôi cá nước ngọt nói riêng ở đồng
bằng sông Cửu Long, bao gồm tỉnh Sóc Trăng,
đã và đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
và nước biển dâng.
Cho đến nay, đã có nhiều công bố về ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thủy
sản, cụ thể là hoạt động nuôi cá tra tại Việt Nam.
Vụ Nuôi trồng thủy sản (2008) cho rằng xâm nhập
mặn sẽ gây tác hại đến nghề nuôi cá tra và nếu độ
mặn cao hơn 4‰ sẽ không phù hợp cho đối tượng
nuôi này. Phan và cộng sự (2009) đã dẫn chứng
các ao nuôi gần biển có sản lượng giảm sút mà
nguyên nhân có thể từ biến động độ mặn do thủy
triều. Trong năm 2011 xâm nhập mặn gia tăng ở
tỉnh Bến Tre với độ mặn cao đã làm tăng tỷ lệ chết
và giảm tốc độ sinh trưởng của cá tra so với năm
2010 [3]. Tương tự như Bến Tre, với vị trí ven biển
Đông, hoạt động nuôi cá tra tại tỉnh Sóc Trăng
chắc chắn bị ảnh hưởng bởi vấn đề này. Theo đó,
việc đề xuất các giải pháp thích ứng với tình hình
biến đổi khí hậu – nước biển dâng cần thiết phải
được đặt ra. Trong thực tế, xâm nhập mặn do mực
nước biển dâng sẽ lan rộng về phía thượng lưu
khiến cho một phần diện tích đang dùng nuôi cá
tra không còn phù hợp nữa. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam (MARD) đã đề ra
chương trình hành động thích ứng với biến đổi
khí hậu của ngành giai đoạn 2008-2020 tập trung
vào đảm bảo sự an toàn của cư dân, sản xuất nông
nghiệp và an ninh lương thực bền vững, hệ thống
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2/2020
đến tháng 6/2020 theo phương pháp khảo sát áp
dụng công cụ phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi bán
cấu trúc (semi-structured questionnaire) đối với
các nhóm đối tượng là những hộ ương – nuôi
cá thể, các quản lý trang trại nuôi của các công
ty và những người nắm thông tin tại Sóc Trăng.
Nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ niên
giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2018. Nguồn
số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa trên quá trình
phỏng vấn những hộ ương - nuôi cá tra, các quản
lý trại nuôi cá tra thương phẩm thuộc các công
ty và những người am hiểu tình hình nuôi cá tra
tại địa phương thông qua bộ câu hỏi điều tra.
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Bảng 1. Mẫu điều tra
Số 4/2020
Người nắm thông tin
(am hiểu - key informant) thuộc các công ty nuôi cá thể
Quản lý trại nuôi Hộ ương -
Đối tượng
Tổng số
Số phiếu khảo sát
40
12
45
97
Ghi chú:
- Người nắm thông tin bao gồm các cán bộ thuộc Chi cục thủy sản tỉnh Sóc Trăng và Trung tâm giống vật nuôi của tỉnh; Phòng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trạm Khuyến nông các huyện Long Phú, Cù Lao Dung và Kế Sách, cùng với cán bộ quản lý địa phương
từ cấp thôn.
- Quản lý trại nuôi thuộc các công ty là những cán bộ kỹ thuật hoặc quản lý nhân sự đang làm việc tại các trại nuôi cá tra thuộc các công ty.
- Hộ ương - nuôi cá thể là những hộ đã và đang thực hiện hoạt động ương và nuôi cá tra.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Theo số liệu khảo sát ban đầu vào tháng 2
năm 2020 về hiện trạng, trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng có 5 công ty đang tham gia hoạt động
nuôi cá tra (tập trung tại huyện Long Phú,
Cù Lao Dung và Kế Sách) và khoảng 50 hộ
tham gia hoạt động ương và nuôi cá tra trên
toàn tỉnh. Trên cơ sở này, nghiên cứu đã khảo
sát thông qua các nhân viên quản lý của 11
trại thuộc 5 công ty này. Đối với số hộ ương
– nuôi, do huyện Long Phú không còn các
hộ tham gia hoạt động này với tính chất cá
thể và những hộ tại huyện Cù Lao Dung chỉ
nuôi với quy mô đáp ứng nhu cầu địa phương
nên việc khảo sát các hộ ương - nuôi cá thể
tập trung vào huyện Kế Sách trong thời gian
từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Với kích
thước tổng thể không quá lớn nên đề tài đã
khảo sát 45 hộ tham gia hoạt động ương-nuôi
(chủ yếu tại huyện Kế Sách) nhằm đảm bảo
yêu cầu về mặt kích thước mẫu (> 33) [8].
Kích thước mẫu khảo sát được trình bày qua
bảng 1.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng phỏng vấn
chuyên sâu (in-depth interview) một số cán bộ
thuộc Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng, nhân
viên quản lý kỹ thuật các trại nuôi thuộc các
công ty và người nuôi lâu năm nhằm xác định
các thông tin chi tiết về một vài khía cạnh liên
quan đến hoạt động nuôi không thu được qua
điều tra khảo sát.
Số liệu thu tập được xử lý theo các nội dung
khảo sát trên phần mềm MS. Excel phiên bản
2013. Kiểm định “Khi bình phương” (Chi
square) được áp dụng để khảo sát mối liên
hệ giữa đối tượng khảo sát với ý kiến phản
hồi, thực hiện bởi phần mềm SPSS phiên bản
22.0.
1. Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và hiện
tượng thời tiết cực đoan đến nghề nuôi cá tra
Kết quả khảo sát đánh giá của các bên liên
quan (người ương - nuôi cá thể, quản lý trại
nuôi của các công ty và người nắm thông tin
về hoạt động nuôi cá tra) về tần suất xảy ra và
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu - xâm nhập mặn
đến hoạt động nuôi cá tra tại Sóc Trăng được
trình bày qua bảng 2 và 3. Bảng 2 cho thấy các
bên liên quan đã nhận thức được ảnh hưởng của
vấn đề này. Rất ít ý kiến cho rằng không có hiện
tượng bất thường hay cực đoạn nào về khí hậu
– thời tiết xảy ra - chỉ 11,11% nhóm hộ nuôi cá
thể và 5% những người am hiểu (bảng 2). Phân
tích thống kê về tần suất xảy ra những biểu hiện
của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn đối với
hoạt động nuôi cá tra theo ý kiến của các nhóm
đối tượng khảo sát cho thấy mặc dù ý kiến phản
hồi về vấn đề này không giống nhau ở các nhóm
nhưng sự khác nhau này không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Phần lớn ở cả 3 nhóm khảo sát đều
cho rằng đã có những bất thường – cực đoan về
khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó. Điều
này đưa đến những lo ngại trong phần lớn cộng
đồng ương – nuôi cá tra.
Để làm rõ mối quan tâm – lo ngại của các
đối tượng, các vấn đề được nghiên cứu chi tiết
hơn với kết quả được trình bày ở bảng 3. Kết
quả bảng 3 chỉ ra rằng xâm nhập mặn là vấn
đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất ở cả 3
nhóm đối tượng khảo sát (chiếm tỷ lệ 97,78%
ở nhóm hộ ương – nuôi cá thể và 100% ở 2
nhóm còn lại). Những vấn đề được quan tâm
tiếp theo lần lượt là thời tiết bất thường (chiếm
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
tỷ lệ 88,89% ở nhóm hộ ương – nuôi cá thể,
95% ở nhóm những người am hiểu và 100%
ở nhóm quản lý trang trại công ty), biến động
nhiệt độ theo thời gian (chiếm tỷ lệ 91,67%
ở nhóm quản lý trang trại công ty, 93,33% ở
nhóm hộ ương nuôi cá thể và 95% ở nhóm
những người am hiểu),…Vấn đề ít được quan
tâm nhất là ảnh hưởng của lũ lụt đến hoạt động
nuôi cá tra (chiếm tỷ lệ 8,33% ở nhóm quản
lý trang trại công ty, 11,1% ở nhóm hộ ương
– nuôi cá thể và 22,5% ở nhóm những người
am hiểu). Tương tự ở bảng 2, hầu hết sự khác
biệt về ý kiến phản hồi đối với những vấn đề
cụ thể được trình bày qua bảng 3 không có ý
nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng khảo
sát (p>0,05); duy nhất sự khác biệt về ý kiến
phản hồi đối với sự thay đổi lượng mưa có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ ý kiến phản hồi
rằng biến động thời tiết đã đưa đến ảnh hưởng
của lũ đối với hoạt động sản xuất không đồng
nhất và rõ ràng, tập trung nhiều nhất vào việc
gây ảnh hưởng đến công trình nuôi. Ngược với
những ý kiến phản hồi về thay đổi lượng mưa,
chế độ gió và lũ lụt; các nhận định về thời tiết
bất thường, biến động nhiệt độ theo thời gian
và đặc biệt là xâm nhập mặn khá đồng nhất
và chiếm tỷ lệ rất cao qua khảo sát. Kết quả
này khẳng định biến đổi khí hậu và xâm nhập
mặn đã ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá tra
tại Sóc Trăng. Các ý kiến phản hồi chỉ ra rằng
thời tiết ngày càng cực đoan hơn và kéo dài
hơn với các hiện tượng bất thường phổ biến
xuất hiện trong khoảng thời gian 3 năm trở
lại đây và mạnh nhất vào năm 2019 – 2020.
Cụ thể là nắng nóng kéo dài từ tháng 2 – 4 và
tháng 11 – 12 với nền nhiệt độ cao làm nước
bốc hơi nhanh dẫn đến làm trầm trọng hơn
tình trạng nhiễm mặn, đồng thời kết hợp gây
ảnh hưởng đến cá nuôi. Ngược lại, mùa mưa
từ tháng 5 đến tháng 10 có xu hướng kéo dài
với lượng mưa lớn hơn và gió mạnh vào thời
gian này. Ngày càng xuất hiện nhiều giông
hơn trong mùa mưa và nước mặn xâm nhập từ
tháng 10 – 12 là thời điểm giao mùa nên cá dễ
bị bệnh (đặc biệt đối với hoạt động ương cá).
Nếu nắng nóng kéo dài và nhiệt độ tăng cao
làm cá dễ bị xuất huyết, lở loét; nếu lạnh kéo
dài làm cá dễ bị gan thận mủ. Đồng thời, từ
tháng 6 đến tháng 12 hàng năm thường có áp
thấp nhiệt đới gây mưa bão, qua đó ảnh hưởng
đến hoạt động ương – nuôi cá.
Để làm rõ hơn nhận thức của các bên liên
quan đến hoạt động ương – nuôi cá tra về những
khó khăn đặt ra, đánh giá xếp hạng những vấn
đề có khả năng tác động đến hoạt động ương
nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến đã được khảo
sát với kết quả trình bày qua bảng 4. Các phân
tích thống kê được xem xét dựa trên tỷ lệ ý kiến
phản hồi tương ứng với bậc xếp hạng của mỗi
yếu tố ảnh hưởng. Kết quả phân tích cho thấy
đánh giá những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt
động ương – nuôi cá tra bao gồm xâm nhập mặn
và tăng chi phí đầu tư không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng
(p>0,05). Ngược lại, có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê trong việc xếp hạng những vấn đề gia
tăng dịch bệnh, biến động giá cả thị trường và
những vấn đề khác (biến động nhiệt độ, thời tiết
thất thường,…) (p<0,05). Xét riêng biệt từng
nhóm đối tượng khảo sát, tỷ lệ ý kiến phản hồi
thể hiện quan điểm rất đa dạng. Tuy nhiên, kết
quả bảng 4 cũng cho thấy rằng xâm nhập mặn
đã thật sự ảnh hưởng đến hoạt động ương nuôi
cá tra tại Sóc Trăng, thể hiện qua ý kiến phản
hồi từ tất cả các nhóm đối tượng khảo sát đều
xếp hạng tác động của vấn đề này ở mức cao
nhất. Với vị trí ở hạ lưu sông Cửu Long tiếp giáp
với biển, dễ dàng hiểu được xâm nhập mặn ngày
càng tác động đến hoạt động nuôi cá tra tại Sóc
Trăng. Nghiên cứu với cá có khối lượng trung
bình 25g đã cho thấy độ mặn 9‰ làm tốc độ
sinh trưởng của cá giảm rõ rệt [2]. Điều này cũng
phù hợp với khuyến cáo của Vụ Nuôi trồng thủy
sản (2008) khi cho rằng xâm nhập mặn sẽ gây
tác hại đến nghề nuôi cá tra và nếu độ mặn cao
hơn 4‰ sẽ không thích hợp cho đối tượng nuôi
này. Theo đó, người nuôi trên địa bàn nghiên
cứu cố gắng giữ nước ao có độ mặn dưới 7‰.
Để bảo đảm chất lượng nước, trong khoảng thời
gian này người nuôi phải giảm cho ăn. Điều này
làm giảm tốc độ sinh trưởng của cá dẫn đến làm
giảm năng suất và sản lượng vụ nuôi [7]. Riêng
vấn đề biến động nhiệt độ theo thời gian, thời
tiết thất thường,…không được đánh giá cao bởi
nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất nhưng
lại được quan tâm nhiều hơn bởi nhóm đối
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
tượng là những người am hiểu. Điều này có thể
là nhờ vào những biện pháp khắc phục như đào
sâu ao, dự trữ nước ngọt để thay nước,… nên
ảnh hưởng tăng chậm của biến động nhiệt độ
theo thời gian và thời tiết thất thường,…trên địa
bàn nghiên cứu vẫn chưa đưa đến những thiệt
hại tức thời và trực quan để được những người
ương – nuôi cá tra ưu tiên quan tâm. Ngược lại,
với quan điểm của nhà quản lý, những người am
hiểu lại cho rằng các vấn đề này cần được quan
tâm với tính chất có khả năng tác động đến hoạt
động ương nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến.
thấy hiện tượng xâm nhập mặn gây ảnh hưởng
đến hoạt động ương – nuôi cá tra đã trở nên
thường xuyên hơn, xuất hiện sớm hơn với mức
độ nghiêm trọng hơn tùy theo khu vực. Thông
thường, hiện tường này xảy ra từ ngày 7 – 14
Âm lịch hàng tháng với độ mặn nước sông ở
Sóc Trăng có thể lên đến 13‰ - 16‰. Để thích
ứng với tình hình biến đổi khí hậu – xâm nhập
mặn, người ương – nuôi cá tra phải có các biện
pháp khắc phục nhằm bảo đảm hoạt động (bảng
5). Kết quả ở bảng 5 cho thấy không có nhóm
đối tượng nào đồng tình với ý kiến ngừng hoạt
động – chuyển đổi ngành nghề. Điều này tiếp
tục khẳng định ương – nuôi cá tra là một hoạt
động sinh kế gắn bó với một bộ phận lớn nông
dân ở Sóc Trăng. Kết quả xử lý thống kê chỉ
ra hầu hết việc lựa chọn các biện pháp khắc
phục những khó khăn gây ra bởi xâm nhập mặn
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các nhóm đối tượng (p>0,05); ngoại trừ duy
nhất trường hợp phản hồi về việc áp dụng biện
pháp củng cố công trình (p<0,05).
Việc thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra
(giảm mật độ, tăng cường sức đề kháng cho
cá nuôi, nuôi theo quy trình khép kín và giảm
cho ăn để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập
mặn,…) đều được cả 3 nhóm khảo sát xem như
là biện pháp thích ứng quan trọng nhất (lần
lượt chiếm tỷ lệ 75,56%, 83,33% và 90% ở các
nhóm hộ cá thể, quản lý trang trại công ty và
người am hiểu). Trong bối cảnh chịu nhiều ảnh
hưởng của biến đổi
2. Các biện pháp thích ứng của người nuôi
Trước những ảnh hưởng tiêu cực gây ra do
biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, cần phải có
những biện pháp khắc phục nhằm duy trì hoạt
động ương – nuôi cá tra. Kết quả khảo sát về
khả năng khắc phục những tác động do biến
đổi khí hậu – xâm nhập mặn (bảng 3) cho thấy
ý kiến phản hồi có sự khác biệt giữa các nhóm
đối tượng khảo sát (p<0,05). Đáng lưu ý, tỷ
lệ lớn ý kiến từ những người ương nuôi cá tra
trong thực tế cho rằng rất khó khăn hoặc tương
đối khó khăn trong việc khắc phục vấn đề này
(lần lượt chiếm các tỷ lệ 35,56% và 46,67%
ở nhóm hộ ương – nuôi cá thể, và 33,33% và
66,67% ở nhóm quản lý trại nuôi của các công
ty). Trong khí đó, mặc đù đa số ý kiến đánh giá
tương đối khó khăn (82,5%), vẫn có một tỷ lệ
tương đối ở nhóm người am hiểu (12,5%) cho
rằng không gặp khó khăn trong việc khắc phục
vấn đề này. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho
Bảng 2. Nhận thức về biến đổi khí hậu của các đối tượng liên quan đến hoạt động ương –
nuôi cá tra
Hiện tượng bất thường - cực đoan xảy ra
(% ý kiến đánh giá)
Quan tâm – lo ngại của những người
được khảo sát (% ý kiến đánh giá)
Đối tượng
đánh giá
Rất thường Ở mức nào
xuyên đó
Không bất
thường
Tương đối
lo ngại
Không lo
ngại
Rất lo ngại
Người ương –
nuôi (n=45)
20,0a (9/45) 68,89a (31/45) 11,11a (5/45) 22,22a (10/45) 66,67a (30/45) 11,11a (5/45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
41,57a (5/12) 58,33a (7/12)
25,0a (10/40) 70,0a (28/40)
0,0a(0/12)
5,0a (2/40)
33,33a (4/12) 66,67a (8/12)
17,5a (7/40) 82,5a (33/40)
0,0a (0/12)
0,0a (0/40)
Người am
hiểu (n=40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 3. Các vấn đề gây ra bởi biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động ương – nuôi cá tra
Khó khăn trong khắc phục
Hiện tượng (% ý kiến đánh giá)
(% ý kiến đánh giá)
Đối tượng
đánh giá
Biến động
nhiệt độ
theo thời
gian
Thay
đổi
lượng
mưa
Xâm
nhập
mặn
Thời
tiết bất
thường
Thay
đổi chế Lũ lụt
độ gió
Tương Không
Rất khó
khăn
đối khó
khăn
khó
khăn
Người
ương
– nuôi
(n=45)
97,78a
88,89a
93,33a
33,33a
31,11a
11,1a
(5/45)
35,56a
(16/45) (21/45)
46,67a
17,77a
(8/45)
(44/45) (40/45) (42/45) (15/45) (14/45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
0a (0/12)
100a
100a
91,67a
33,33a
(4/12)
58,33a
(7/12)
8,33a
(1/12)
33,33a
(4/12)
66,67a
(8/12)
(12/12) (12/12) (11/12)
Người am
100a 95a 95a
87,5b
47,5a
22,5a
2,5b
82,5b
12,5b
hiểu (n=40) (40/40) (38/40) (38/40) (35/40) (19/40)
(9/40)
(1/40)
(34/40)
(5/40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05), những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Bảng 4. Đánh giá những vấn đề có khả năng tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra trong
5 – 10 năm đến
Tác
động
Vấn đề khác
(biến động
nhiệt độ,
thời tiết thất
thường,…)
(% ý kiến
đánh giá)
Biến động
giá cả - thị
trường (%
ý kiến đánh
giá)
Đối
tượng
đánh
giá
Xâm nhập
mặn (% ý
kiến đánh
giá)
Gia tăng dịch Tăng chi phí
bệnh (% ý
kiến đánh
giá)
đầu tư (%
ý kiến đánh
giá)
Xếp hạng
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
81,82a (36/44)
11,36a (5/44)
4,55a (2/44)
2,22a (1/44)
0a (0/44)
75a (9/12)
8,33a (1/12)
0a (0/12)
0a (0/12)
16,67a (2/12) 33,33a,b (4/12)
75,49a (31/39) 23,08b (9/39)
10,26a (4/39)
2,56a (1/39)
5,13a (2/39)
2,56a (1/39)
2,27a (1/44)
0a (0/44)
6,82a (3/44)
0a (0/25)
0a (0/25)
20a (5/25)
32a (8/25)
48a (12/25)
0b (0/12)
8,33b (1/12)
0b (0/12)
33,33b (4/12)
47,73a (21/44) 47,73a (21/44) 36,36a (16/44)
18,18a (8/44) 38,64a (17/44) 40,91a (18/44)
4,55a (2/44)
25a (12/44)
0a,b (0/12)
50a,b (6/12)
16,67a,b (2/12) 41,67a (5/12)
0a,b (0/12)
Hộ ương
– nuôi
các thể
(n=44)
13,64a (6/44)
0a (0/44 )
0a (0/12)
15,91a (7/44)
0a (0/44)
0a,b (0/12)
50a,b (6/12)
25a,b (3/12)
8,33a,b (1/12)
16,67a,b (2/12) 58,33b (7/12)
35,90b (14/39) 15,38c (6/39)
50a (6/12)
Quản
lý trang
trại
0a (0/12)
8,33a (1/12)
2,56a (1/39)
(n=12)
41,03b(16/39) 61,54a (24/39) 28,21b (11/39) 28,21c (11/39)
10,26b (4/39) 30,77a (12/39) 23,08b (9/39) 38,46c (15/39)
12,82b (5/39)
12,82b (5/39)
Người
am hiểu
(n=39)
2,56a (1/39)
0a (0/39)
7,69b (3/39)
5,13b (2/39)
2,56c (1/39)
12,82c (5/39)
Ghi chú:- 1 hộ nuôi và 1 người am hiểu chỉ nêu ý kiến đánh giá mà không xếp hạng các tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra
- Chỉ có 25 hộ ương – nuôi đánh giá về mục vấn đề khác như thời thiết bất thường, cực đoan, biến động nhiệt độ
- Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05),
những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 5. Biện pháp khắc phục (và dự kiến biện pháp khắc phục) các ảnh hưởng của xâm nhập
mặn đối với hoạt động ương – nuôi cá tra
Đối với hoạt động nuôi cá tra (% ý kiến đánh giá)
Ngừng nuôi/
Nuôi đối
tượng mới
(% ý kiến
đánh giá)
Chuyển đổi
ngành nghề (%
ý kiến đánh
giá)
Biện pháp
khác (khoan
giếng và
Đối tượng
khảo sát
Thay đổi kỹ Thay đổi
thuật nuôi mùa vụ
Củng cố
công trình
dành ao trữ
nước ngọt)
Người ương –
nuôi (n=45)
75,56a (34/45) 15,56a (7/45) 24,44a (11/45) 15,56a (7/45) 11,11a (5/45)
0a (0/45)
Quản lý
trang trại
(n=12)
83,33a (10/12) 8,33a (1/12)
0a (0/12)
41,67a (5/12) 12,67a (2/12) (Không khảo sát)
Người am
hiểu (n=40)
90a (36/40) 12,5a (5/40) 65b (26/40)
25a (10/40) 10a (4/40%)
0a (0/40)
Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05),
những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Khí hậu mà cụ thể là hiện tượng xâm nhập
mặn, việc bảo đảm tỷ lệ sống, giảm dịch bệnh và
thúc đẩy tăng trưởng của cá nuôi để ổn định năng
suất bằng những biện pháp kỹ thuật thực sự là ưu
tiên hàng đầu. Ngược lại, biện pháp thay đổi mùa
vụ khó khả thi với đa số người nuôi (tỷ lệ lựa chọn
thấp) do hoạt động ương - nuôi cá tra gần như tiến
hành quanh năm, đặc biệt là thời gian nuôi kéo
dài, thậm chí phải gối vụ từ năm này qua năm sau.
Nhóm biện pháp củng cố công trình (nâng cao
và gia cố bờ bao, đào sâu ao đến 4 – 5 m) được
hai nhóm đối tượng là các hộ ương – nuôi cá thể
và những người am hiểu ưu tiên hơn so với biện
pháp thay đổi mùa vụ với 24,44% và 65% số ý
kiến phản hồi. Riêng ở nhóm những người quản
lý trang trại của các công ty, không có ý kiến nào
lựa chọn biện pháp này. Đối với nhóm những hộ
ương – nuôi cá thể, có thể do thiếu nhân lực nên
hệ thống công trình mà đặc biệt là đê bao không
kịp khắc phục khi bị ảnh hưởng bởi triều cường
và lũ. Ngược lại, với đội ngũ nhân lực đông, điều
này không trở thành vấn đề đối với các trại nuôi
thuộc các công ty. Liên quan đến các biện pháp
kỹ thuật, đối với hoạt động ương – nuôi cá tra,
việc bảo đảm chất lượng nước mà trước hết là
ổn định độ mặn đóng vai trò rất quan trọng. Trên
cơ sở này, ưu tiên thứ hai đối với cả 3 nhóm đối
tượng khảo sát là khoan giếng để chủ động nguồn
cấp nước ngọt và nuôi luân phiên để dành ao dự
trữ nước ngọt trước tác động của xâm nhập mặn.
Biện pháp thích ứng có tỷ lệ lựa chọn gần như
thấp nhất so với những biện còn lại đối với cả 3
nhóm đối tượng khảo sát là nuôi những giống cá
tra mới có khả năng chịu mặn cao hoặc tìm một
đối tượng mới có hiệu quả kinh tế tương đương
để thay thế. Có thể hiểu được điều này vì người
nuôi nói chung thường xem xét vấn đề dựa trên
thực tế vì hiện tại vẫn chưa thấy công bố nào về
giống cá tra chịu mặn cao cho dù đã có những
nghiên cứu của Đại học cần Thơ và Viện Nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản II, cũng như việc thay
thế loài nuôi khác sẽ phải tốn chi phí thay đổi
công trình nuôi và tìm thị trường mới.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Dựa trên kết quả khảo sát, có thể đưa đến
những kết luận và đề xuất sau:
1. Kết luận
- Những hộ ương – nuôi cá thể, các quản
lý trang trại nuôi cá của các công ty và những
người nắm thông tin (cán bộ thuộc các cơ quan
– ban ngành có liên quan và cán bộ quản lý địa
8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
phương) tại Sóc Trăng đã nhận thức được ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn
đến hoạt động ương – nuôi cá tra. Với tỷ lệ lớn
nhất ở cả 3 nhóm, tất cả đều cho rằng đã có
những bất thường – cực đoan về khí hậu – thời
tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn
là vấn đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất.
- Trong 5 đến 10 năm đến, xâm nhập mặn
được đánh giá vấn đề đưa đến mối lo ngại cao
nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra ở
tất cả các nhóm đối tượng. Đa số những người
được khảo sát đều cho rằng tương đối khó khăn
trong việc khắc phục vấn đề này. Bên cạnh đó,
biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất
thường,… được quan tâm nhiều hơn bởi những
người nắm thông tin nhưng không được đánh giá
cao bởi nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất.
- Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra (giảm
mật độ, tăng cường sức đề kháng cho cá nuôi,
nuôi theo quy trình khép kín và giảm cho ăn
để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập mặn,…)
được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích
ứng quan trọng nhất trước ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu và xâm nhập mặn.
2. Đề xuất ý kiến
- Mở rộng nghiên cứu đối với nhóm hộ nuôi đáp
ứng nhu cầu địa phương tại huyện Cù Lao Dung.
- Nghiên cứu nên được tiếp tục theo khía
cạnh xây dựng khả năng thích ứng (với biến
đổi khí hậu – xâm nhập mặn) cho hoạt động
ương – nuôi cá tra tại Sóc Trăng.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực
hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ GD&ĐT
“Nghiên cứu ảnh hưởng xâm nhập mặn đến
nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus
Sauvage, 1878) tại Sóc Trăng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Chi cục thống kê tỉnh Sóc Trăng (2018). “Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2018”. Nhà Xuất bản
Thống Kê.
2. Nguyễn Chí Lâm, Đỗ Thị Thanh Hương, Vũ Nam Sơn và Nguyễn Thanh Phương (2011). “Ảnh hưởng của
độ mặn lên thay đổi sinh lý và tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống”. Tạp chí Khoa
học 2011, số 17a các trang 60-69, Trường Đại học Cần Thơ
3. Sở NN&PTNT Bến Tre (Ben Tre DARD) (2012). “Báo cáo tình hình nuôi cá tra năm 2011 và kế hoạch cho
năm 2012”.
Tiếng Anh
4. Anh Lam Nguyen, Minh Hoang Truong, JohanAJ Verreth, Rik Leemans, Roel H Bosma and Sena S De Silva
(2015). “Exploring the climate change concerns of striped catfish producers in the Mekong Delta, Vietnam”.
SpringerPlus (2015) 4:46. (DOI 10.1186/s40064-015-0822-0)
5. Kam, S.P., Badjeck, M.C., The, L., The, L., Tran, N., (2012). “Autonomous adaptation to climate change by
shrimp and catfish farmers in Vietnam’s Mekong River delta”. WorldFish Working Paper: 2012-24.
6. MARD (Ministry of Agriculture and rural Development), (2008). “Action plan framework for adaptation
and mitigation of climate change of the agriculture and rural development sector period 2008-2020”. MARD,
Ha Noi, Vietnam
7. Phan, Lam T., Bui, Tam M., Nguyen, Thuy T.T., Gooley, G.J., Ingram, B.A., Nguyen Hao V., Nguyen
Phuong T. De Silva Sena S., (2009). “Current status of farming practices of striped catfish, Pangasianodon
hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam”. Aquaculture, 296, 227-236.
8. Ram C. Bhujel, (2008). “Statistics for aquaculture”. Asian Institute of Technology (AIT). Wiley-Blackwell.
Trang web
dia-ly; truy cập ngày 10-2-2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thời tiết cực đoan đến hoạt động ương - nuôi cá tra tại sóc trăng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- anh_huong_cua_xam_nhap_man_va_thoi_tiet_cuc_doan_den_hoat_do.pdf