Ảnh hưởng của độ mặn và thức ăn đến sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1855) giai đoạn trôi nổi

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN VÀ THỨC ĂN ĐẾN  
SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG CỦA ẤU TRÙNG ỐC ĐĨA  
(Nerita balteata Reeve, 1855) GIAI ĐOẠN TRÔI NỔI  
EFFECTS OF SALINITY AND FOOD ON GROWTH, SURVIVAL RATE OF MANGROVE  
SNAIL (Nerita balteata Reeve, 1885) AT THE VELIGER LARVAE STAGE  
Vũ Trọng Đại1* và PhạmThị Khanh1  
1 Viện Nuôi Trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang  
Tác giả liên hệ: Vũ Trọng Đại (Email: daivt@ntu.edu.vn)  
Ngày nhận bài: 16/11/2020; Ngày phản biện thông qua: 28/12/2020; Ngày duyệt đăng: 31/12/2020  
TÓM TẮT  
Ốc đĩa N. balteata là đối tượng hải đặc sản của vùng biển tỉnh Quảng Ninh, với giá trị dinh dưỡng và  
giá trị kinh tế cao. Mặc dù đã sản xuất giống thành công nhưng tỷ lệ sống của ấu trùng và con giống còn thấp,  
đặc biệt ở giai đoạn trôi nổi chuyển sang sống đáy. Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, thức ăn lên  
sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc đĩa ở giai đoạn ấu trùng trôi nổi được thực hiện tại Quảng Ninh nhằm tìm ra  
được khoảng độ mặn và loại thức ăn thích hợp nhất cho sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng. Kết quả nghiên  
cứu cho thấy, độ mặn thích hợp nhất cho sinh trưởng của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi là 25 ppt với sinh  
trưởng tuyệt đối đạt cao nhất 8,99 ± 0,4 µm/ngày và tỷ lệ sống đạt 54,11 ± 2,37 %. Khẩu phần thức ăn là tảo  
tươi kết hợp thức ăn tổng hợp là thích hợp nhất cho sinh trưởng của ấu trùng ốc đĩa, tăng trưởng tuyệt đối đạt  
10,35 ± 0,51 µm/ngày, tỷ lệ sống đạt 58,50 ± 3,04 %. Vì thế, nghiên cứu này cho thấy ấu trùng ốc đĩa ở giai  
đoạn trôi nổi có thể nuôi ở điều kiện độ mặn 25 ppt và thức ăn là tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp cho sinh  
trưởng và tỷ lệ sống cao nhất.  
Từ khóa: ấu trùng trôi nổi, độ mặn, ốc đĩa, thức ăn, sinh trưởng  
ABSTRACT  
Mangrove snail N. balteata is a potential aquaculture species with high nutritional and economic value.  
Although the artificial seeds production of this species have been successful but still having problems as low  
survival rate in the process by veliger larvae are transformed into spat larvae. Experiments were conducted to  
determine the effects of salinity and food on growth rate and survival rate of this snail in the stage of veliger  
larvae in Quang Ninh provice. The results showed that the optimal salinity for growth of veliger larvae was  
25 ppt, that resulted in a absoluted growth rate of 8.99 ± 0.4 µm/day and survival rate of 54.11 ± 2.37%. The  
diet of algae combined with commercial feed was most suitable for the growth of mangrove snail at the veliger  
larvae stage with absoluted growth rate and the survival rate reached 10.35 ± 0.51 µm/day and 58.50 ± 3.04 %,  
respectively. These results could contribute technical knowledge of rearing veliger larvae of N. balteata with  
optimal salinity of 25 ppt and diet of algae combined commercial feed.  
Key words: veliger larvae; salinity, mangrove snail, feed, growth, survival rate  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
và giá trị kinh tế cao (Đặng Khánh Hùng và  
ctv, 2012). Tuy nhiên, ốc đĩa là đối tượng mới  
nên sản lượng ốc đĩa cung cấp cho thị trường  
hoàn toàn là khai thác từ tự nhiên từ đó làm  
cho nguồn lợi ốc đĩa ngoài tự nhiên đang đứng  
trước nguy cơ cạn kiệt (Vũ Trọng Đại và ctv,  
Ốc đĩa (Nerita balteata) là loài động vật  
chân bụng có phân bố chính ở các vùng biển  
khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới (Frey và  
Vermeij, 2008) và được xem là món ăn đặc  
sản do có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 19  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
2014). Hiện nay, trên thế giới chỉ có một số  
công trình nghiên cứu về phân loại, phân bố và  
một số đặc điểm sinh học của ốc đĩa (Siong và  
Reuben, 1998; Hurtado và ctv., 2007; Frey và  
Vermeij, 2008). Ở nước ta, nhóm nghiên cứu  
của Trường Đại học Nha Trang đã thực hiện  
các nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản  
và lần đầu tiên thành công trong sản xuất giống  
đối tượng này tại Quảng Ninh (Ngô Anh Tuấn  
và ctv, 2013).  
Mặc dù đã thành công trong quá trình sản  
xuất giống nhân tạo nhưng ốc đĩa là đối tượng  
có thời gian phát triển phôi kéo dài (Phùng  
Thế Trung và ctv, 2014) và đặc biệt tỷ lệ sống  
của ấu trùng khi chuyển giai đoạn từ trôi nổi  
sang giai đoạn sống đáy thấp (Ngô Anh Tuấn  
và ctv, 2013) làm cho hiệu quả sản xuất giống  
đối tượng này ở quy mô đại trà còn gặp nhiều  
khó khăn. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng  
của độ mặn và thức ăn đến sinh trưởng và tỷ  
lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi  
nhằm tìm ra được khoảng độ mặn và loại thức  
ăn phù hợp là rất cần thiết, góp phần nâng cao  
tỷ lệ sống của ấu trùng khi chuyển sang giai  
đoạn sống bám, từ đó bổ sung cơ sở khoa học  
quan trọng tiến tới xây dựng hoàn thiện quy  
trình sản xuất giống đối tượng này ở quy mô  
đại trà.  
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 5/2018 đến  
tháng 12/2018  
Địa điểm nghiên cứu: Công ty Cổ phần  
Nhật Long, Quảng Ninh.  
2. Phương pháp bố trí thí nghiệm  
2.1. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng và  
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn veliger  
Thí nghiệm được bố trí gồm 3 nghiệm thức  
(NT) độ mặn: NT1 độ mặn 20 ppt, NT2 độ mặn  
25 ppt và NT3 độ mặn 30 ppt, mỗi NT được  
lặp lại 4 lần, thời gian thí nghiệm kéo dài 40  
ngày, dùng tỷ lệ pha độ mặn giữa nước ngọt và  
nước biển để có độ mặn theo nghiệm thức thí  
nghiệm. Nguồn nước máy được chứa trong bể  
composite và sục khí 24h trước khi sử dụng để  
hạ độ mặn.  
Độ mặn ban đầu của nguồn nước cấp là 25  
ppt (tương ứng với NT2), tiến hành tăng hoặc  
hạ độ mặn từ từ để ấu trùng quen với sự thay  
đổi độ mặn, cứ mỗi 30 phút tăng hoặc hạ độ  
mặn 1‰ đến khi đạt được các mức độ mặn  
tương ứng với các nghiệm thức thí nghiệm.  
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào 8h  
và 14h, sử dụng thức ăn là các loài tảo đơn bào  
(Nannochloropsis oculata, Isochrysis galbana),  
tỷ lệ phối trộn 1:1, mật độ tảo cho ăn 15.000  
– 30.000 tb/mL. Trước khi cho ăn, tảo được  
lọc qua lưới lọc tảo để loại bỏ chất vẩn, xác  
tảo. Tiến hành thay nước 2 ngày/lần, lượng  
nước thay 50% và theo dõi các điều kiện môi  
trường và quan sát khả năng vận động, bắt  
mồi của ấu trùng.  
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên  
cứu  
2.2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và  
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn veliger  
Thí nghiệm được bố trí với 3 nghiệm thức  
(NT) thức ăn: NT1 - Tảo tươi – TT (N. oculata,  
I. galbana, tỷ lệ 1:1, mật độ 20.000-30.000 tb/  
mL); NT2 - thức ăn tổng hợp – TATH (AP0 và  
Frippark, tỷ lệ 1:1, liều lượng 1g/m³/ngày);  
NT3 – TT+TATH: tảo tươi (N. oculata, I.  
galbana, tỷ lệ 1:1, mật độ 10.000-15.000 tb/  
mL) kết hợp với thức ăn tổng hợp (AP0 và  
Frippark, tỷ lệ 1:1, liều lượng 0,5g/m³/ngày).  
Các nghiệm thức được lặp lại 4 lần, thời gian  
thí nghiệm là 40 ngày.  
Đối tượng nghiên cứu: Ốc đĩa, tên khoa học  
Nerita balteata Reeve, 1855, tên địa phương  
ốc đẻ đen.  
Các thí nghiệm được bố trí trong các xô  
nhựa thể tích 18 lít, nước biển trước khi sử  
Hình 1: Ấu trùng ốc đĩa N. balteata giai đoạn  
trôi nổi.  
20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
dụng được lọc qua lõi lọc bông kích thước  
0,5 µm. Kiểm tra và điều chỉnh các thông số  
môi trường nước: pH = 7,5 – 8,5, nhiệt độ 28  
± 2ºC, độ mặn 25 ± 1 ‰. Định lượng ấu trùng  
giai đoạn trôi nổi một ngày tuổi vào các xô thí  
nghiệm, mật độ ương 100 con/lít. Bố trí sục  
khí, điều chỉnh chế độ sục khí vừa phải, thời  
gian sục khí 24/24.  
(Trong đó: L1, L2 lần lượt là chiều cao vỏ  
của ấu trùng ở thời điểm kiểm tra t1, t2)  
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều cao  
vỏ của ấu trùng được tính theo toàn thời gian  
ương ấu trùng (40 ngày) và trong từng thời  
gian thí nghiệm, sau mỗi 10 ngày ương.  
Hàng ngày cho ấu trùng ăn hai lần vào 8h  
và 14h, trước khi cho ăn các loại tảo được lọc  
qua lưới lọc để loại bỏ xác tảo, cặn vẩn. Thức  
ăn tổng hợp ở NT2 và NT3, trước khi cho ấu  
trùng ăn phải cà qua vợt nhằm đảm bảo kích cỡ  
thức ăn phù hợp với phương thức ăn lọc của ấu  
trùng. Tiến hành thay nước 2 ngày/lần, lượng  
nước thay 50% và theo dõi các điều kiện môi  
trường và quan sát khả năng vận động, bắt mồi  
của ấu trùng.  
Tỉ lệ sống của ấu trùng (%):  
(Trong đó: Nt: số ấu trùng sau t ngày ương  
nuôi; N0: số ấu trùng ban đầu)  
Tỷ lệ sống của ấu trùng được tính theo toàn  
thời gian ương ấu trùng (40 ngày) và trong từng  
thời gian thí nghiệm, sau mỗi 10 ngày ương.  
Các số liệu được thu thập, tính toán và trình  
bày dưới dạng giá trị trung bình ± sai số chuẩn  
(MEAN ± SE) trên phần mềm Microsoft Office  
Excel, 2010 và SPSS phiên bản 22,0. Sử dụng  
phép phân tích phương sai một yếu tố (one-way  
ANOVA) để kiểm định sự khác nhau của các giá  
trị trung bình giữa các nghiệm thức. Đánh giá sự  
sai khác của các giá trị trung bình sau phân tích  
phương sai (Post Hoc Test) bằng phương pháp  
kiểm định Duncan. Khác nhau giữa các giá trị  
được xác định ở mức ý nghĩa p < 0,05.  
Định kỳ 10 ngày/lần, lấy mẫu để xác định  
các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DLG  
µm/ngày) và tỷ lệ sống (%) của ấu trùng.  
3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu  
Kích thước chiều cao vỏ ấu trùng: là khoảng  
cách lớn nhất kéo dài từ đỉnh vỏ phía trước  
miệng vỏ, được đo bằng kính hiển vi có gắn  
thước đo trên trắc vi thị kính, số lượng mẫu đo  
30 ấu trùng/lần.  
Số lượng ấu trùng trong bể được xác định  
bằng phương pháp định lượng thể tích, bằng  
cách sử dụng cốc thủy tinh 200 mL lấy mẫu ở 5  
vị trí khác nhau bất kì trong thể tích thí nghiệm  
để xác định mật độ ấu trùng trong từng thời  
điểm thu mẫu, từ đó xác định được tỷ lệ sống  
của ấu trùng.  
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO  
LUẬN  
1. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng  
và tỷ lệ sống của ấu trùng  
Ấu trùng trôi nổi mới nở được bố trí thí  
nghiệm với mật độ ban đầu 100 con/lít, điều  
kiện môi trường được duy trì trong khoảng  
thích hợp cho ốc đĩa: nhiệt độ: 26 – 30ºC, pH:  
7,5 – 8,5.  
Công thức tính tốc độ tăng trưởng tuyệt đối  
về chiều cao (DLG):  
Bảng 1: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi ở các độ mặn khác nhau sau 40  
ngày ương  
DLG (µm/  
ngày)  
7,48 ± 0,5a  
8,99 ± 0,4b  
7,79 ± 0,7a  
Tỷ lệ sống  
(%)  
45,83 ± 1,44a  
54,11 ± 2,37b  
43,67 ± 1,53a  
Nghiệm thức  
Lđầu (µm)  
Lcuối (µm)  
20 ppt  
25 ppt  
30 ppt  
355,3 ± 2,9  
353,4 ± 2,8  
356,9 ± 2,8  
647,2 ± 6,2a  
704,1 ± 1,5b  
660,7 ± 6,1a  
Lđầu: Chiều cao vỏ ấu trùng ban đầu; Lcuối: Chiều cao vỏ ấu trùng khi kết thúc thí nghiệm; DLG: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối chiều cao  
vỏ ấu trùng theo ngày; Các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 21  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
Bảng 1 cho thấy, có sự sai khác có ý nghĩa  
về chiều cao vỏ của ấu trùng ốc đĩa ở các độ  
mặn khác nhau khi kết thúc thí nghiệm, trong  
đó, ở độ mặn 25 ppt, chiều cao của ấu trùng đạt  
giá trị lớn nhất (704,1 ± 1,5 µm) (p<0,05). Ở độ  
mặn 20 ppt và 30 ppt, chiều cao của ấu trùng  
không có sự sai khác có ý nghĩa, dao động từ  
647,2 ± 6,2 µm tới 660,7 ± 6,1 µm) (p>0,05).  
Tương tự, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều  
cao của ấu trùng ốc đĩa đạt cao nhất là 9,9 ±  
1,5 µm/ngày ở nghiệm thức độ mặn 25 ppt, cao  
hơn có ý nghĩa so với các nghiệm thức khác  
(p<0,05). Không có sự sai khác có ý nghĩa về  
tốc độ sinh trưởng của ấu trùng giữa nghiệm  
thức độ mặn 20 ppt và 30 ppt.  
ngày đầu thí nghiệm, dao động trong khoảng  
5,55 – 7,55 µm/ngày và không có sự sai khác  
có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p>0,05).  
Tuy nhiên, từ ngày ương thứ 30 trở đi, có sự  
sai khác có ý nghĩa thông kê về tốc độ tăng  
trưởng của ấu trùng giữa các nghiệm thức. Ấu  
trùng có mức tăng trưởng tuyệt đối cao nhất  
có ý nghĩa ở độ mặn 25 ppt tương ứng là 9,28  
µm/ngày và 11,13 µm/ngày sau 30 và 40 ngày  
ương so với hai nghiệm thức còn lại (p<0,05).  
Tốc tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng thấp  
nhất ở nghiệm thức 20 ppt, nhưng không có sự  
sai khác có ý nghĩa so với nghiệm thức 30 ppt  
(p>0,05). Kết quả nghiên cứu này tương tự với  
nghiên cứu của Ngô Anh Tuấn và ctv (2013)  
với tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng  
đạt giá trị cao nhất ở độ mặn 25‰.  
Tăng trưởng tuyệt đối về chiều cao của ấu  
trùng trong thời gian ương là khá đều nhau ở 20  
(Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).  
Hình 2: Tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi ở các độ mặn khác nhau  
theo thời gian thí nghiệm.  
Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giảm dần theo  
thời gian thí nghiệm và có sự sai khác giữa các  
nghiệm thức thí nghiệm, trong đó tỷ lệ sống của  
ấu trùng ở nghiệm thức 25 ppt luôn cao hơn so  
với các nghiệm thức còn lại nhưng sự sai khác  
chỉ ghi nhận được ở ngày ương thứ 20 (78,17 ±  
1,26%) và 40 (54,17 ± 2,36%) (p<0,05). Tỷ lệ  
sống của ấu trùng ở nghiệm thức 20‰ và 30‰  
khá đều nhau và không có sự sai khác (p>0,05).  
Sau 40 ngày ương, tỷ lệ sống của ấu trùng giao  
động từ 43,67 – 45,83%. Như vậy, độ mặn 25  
ppt là ngưỡng độ mặn thích hợp nhất cho sinh  
trưởng và phát triển của ấu trùng ốc đĩa giai  
đoạn trôi nổi.  
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của  
Ngô Anh Tuấn và ctv (2013), với tỷ lệ sống ấu  
trùng ốc đĩa đạt cao nhất là 74,9% ở độ mặn  
25‰. So sánh với kết quả nghiên cứu trên đối  
tượng động vật chân bụng khác như ốc nhảy,  
thì tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc đĩa  
trong nghiên cứu này thấp hơn. Sinh trưởng và  
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc nhảy giai đoạn trôi  
nổi đạt giá trị cao nhất là 29,03 µm/ngày và  
86,38% ở độ mặn 30‰ (Dương Văn Hiệp và  
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
(Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).  
Hình 3: Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi theo thời gian thí nghiệm.  
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng  
và tỷ lệ sống của ấu trùng  
ctv, 2010), tỷ lệ sống của ấu trùng veliger ốc  
hương đạt giá trị cao nhất là 73% sau 11 ngày  
ương ở độ mặn 35‰ (Nguyễn Thị Xuân Thu  
và ctv, 2000). Trong khi đó, kết quả nghiên cứu  
của Vũ Trọng Đại và ctv (2018) cho thấy độ  
mặn 30‰ là tốt nhất cho sinh trưởng (39,1 ±  
4,74 µm/ngày) và tỷ lệ sống (70,4 ± 2,52%)  
của ấu trùng ốc nhảy giai đoạn trôi nổi.  
Thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn đến sinh  
trưởng của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi  
được bố trí trong điều kiện môi trường: nhiệt  
độ: 26 – 30ºC, độ mặn: 25 ± 1‰, pH: 7,5 – 8,5.  
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng sau:  
Chiều cao vỏ của ấu trùng có sự sai khác có  
Bảng 2: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi sử dụng các loại thức ăn khác  
nhau sau 40 ngày ương nuôi  
DLG (µm/  
Nghiệm thức  
Lđầu (µm)  
Lcuối (µm)  
Tỷ lệ sống (%)  
ngày)  
Tảo tươi (TT)  
354,2 ± 1,9  
353,8 ± 2,1  
697,5 ± 7,8a  
672,1 ± 7,6a  
8,73 ± 0,48a  
7,85 ± 0,56a  
60,33 ± 4,04b  
51,67 ± 2,08a  
Thức ăn tổng hợp (TĂTH)  
Tảo tươi + thức ăn tổng hợp  
(TT+TĂTH)  
363,2 ± 1,8  
777,4 ± 3,2b 10,35 ± 0,51b  
58,50 ± 3,04b  
Các chữ cái khác nhau trong cùng cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05); Lđầu: Chiều cao vỏ ấu trùng ban đầu; Lcuối  
:
Chiều cao vỏ ấu trùng khi kết thúc thí nghiệm; DLG: tốc độ tăng trưởng chiều cao vỏ đặc trưng theo ngày;  
ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p<0,05). Sinh  
trưởng về chiều cao vỏ của ấu trùng ốc đĩa đạt  
giá trị lớn nhất (777,4 ± 3,2 µm) ở nghiệm thức  
sử dụng thức ăn là tảo tươi kết hợp với thức  
ăn tổng hợp và thấp nhất (672,1 ± 7,6 µm) ở  
nghiệm thức sử dụng thức ăn tổng hợp sau 40  
ngày ương nuôi. Trong khi đó, không có sự sai  
khác có ý nghĩa về kích thước chiều cao của ấu  
trùng giữa hai nghiệm thức sử dụng thức ăn là  
tảo tươi và thức ăn tổng hợp (p>0,05). Tốc độ  
tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng đạt giá trị cao  
nhất là 10,35 ± 0,51 µm/ngày ở nghiệm thức sử  
dụng tảo tươi kết hợp với thức ăn tổng hợp, cao  
hơn có ý nghĩa thống kê so với hai nghiệm thức  
còn lại và có giá trị thấp nhất ở nghiệm thức  
cho ăn bằng thức ăn tổng hợp (7,85 ± 0,56 µm/  
ngày) nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa  
thống kê so với nghiệm thức cho ăn bằng tảo  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 23  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
TATH: thức ăn tổng hợp; TT+TĂTH: Tảo tươi + Thức ăn tổng hợp.  
Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05  
Hình 4: Tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi sử dụng các loại thức ăn  
khác nhau theo thời gian thí nghiệm.  
tươi (8,73 ± 0,48 µm/ngày) (p>0,05).  
luôn thấp hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức  
sử dụng thức ăn là hỗn hợp tảo tươi kết hợp  
với thức ăn tổng hợp (p<0,05).  
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của ấu trùng  
trong thời gian thí nghiệm có sự sai khác có  
ý nghĩa giữa các nghiệm thức (p<0,05). Ở  
nghiệm thức sử dụng thức ăn là tảo tươi kết  
hợp thức ăn tổng hợp, tốc độ tăng trưởng tuyệt  
đối của ấu trùng là cao nhất ở ngày ương thứ  
20 (11,44 ± 0,33 µm/ngày). Ở nghiệm thức  
sử dụng thức ăn là tảo tươi thì tốc độ tăng  
trưởng của ấu trùng có xu hướng tăng lên  
theo thời gian thí nghiệm, từ 8,61 µm/ngày  
ở ngày ương thứ 10 tới 9,52 µm/ngày ở ngày  
ương 40. Sau 30 và 40 ngày ương, tốc độ tăng  
trưởng của ấu trùng ở nghiệm thức tảo tươi  
và tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp không  
có sự sai khác có ý nghĩa, nhưng cao hơn có  
ý nghĩa so với nghiệm thức sử dụng thức ăn  
tổng hợp. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng  
của ấu trùng ở nghiệm thức cho ăn bằng thức  
ăn tổng hợp cho thấy xu hướng trái ngược hẳn  
với tốc độ tăng trưởng giảm dần theo thời gian  
thí nghiệm, cao nhất là 8,85 µm/ngày ở ngày  
ương thứ 20 và thấp nhất là 6,46 µm/ngày khi  
kết thúc thí nghiệm. Kết quả so sánh thống kê  
cũng cho thấy tăng trưởng tuyệt đối của ấu  
trùng ở nghiệm thức sử dụng thức ăn tổng hợp  
Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giảm dần  
theo thời gian thí nghiệm và có sự sai khác có  
ý nghĩa giữa nghiệm thức sử dụng thức ăn là  
tảo tươi và nghiệm thức tảo tươi kết hợp thức  
ăn tổng hợp so với nghiệm thức chỉ cho ăn  
bằng thức ăn tổng hợp (p<0,05). Tỷ lệ sống  
của ấu trùng ở cả 3 nghiệm thức thí nghiệm  
khá đều và dao động từ 71,67 - 74,50% sau  
20 ngày ương. Tuy nhiên, từ ngày ương thứ  
30 thì tỷ lệ sống của ấu trùng giảm mạnh, thấp  
nhất là 63,50 ± 1,32% ở nghiệm thức cho ăn  
bằng thức ăn tổng hợp (p<0,05). Đến ngày  
ương thứ 40, tỷ lệ sống của ấu trùng ở nghiệm  
thức cho ăn bằng tảo tươi và tảo tươi kết hợp  
thức ăn tổng hợp dao động từ 58,50 – 60,33%  
cao hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức chỉ  
sử dụng thức ăn tổng hợp (51,67 ± 2,08%).  
Không có sự sai khác có ý nghĩa về tỷ lệ sống  
của ấu trùng giữa nghiệm thức cho ăn bằng  
tảo tươi so với nghiệm thức cho ăn bằng tảo  
tươi kết hợp với thức ăn tổng hợp (p>0,05).  
Như vậy, thức ăn có ảnh hưởng lớn đến sinh  
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa ở giai  
24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
TATH: thức ăn tổng hợp; TT+TĂTH: Tảo tươi + Thức ăn tổng hợp.  
Các chữ cái khác nhau trong cùng ngày ương thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê, p < 0,05  
Hình 5: Tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi sử dụng các loại thức ăn khác nhau  
theo thời gian thí nghiệm.  
đoạn trôi nổi, khẩu phần thức ăn là tảo tươi và  
tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp sẽ cho kết quả  
tốt nhất về sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng.  
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ngô  
Anh Tuấn và ctv (2013), nhóm tác giả đã khẳng  
đinh rằng, khẩu phần thức ăn là tảo tươi kết hợp  
thức ăn tổng hợp là tốt nhất cho sinh trưởng và  
phát triển của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn trôi nổi  
với tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình 9,74  
µm/ngày và tỷ lệ sống trung bình 67,1%.  
tác kỹ thuật đơn giản và đặc biệt là giảm sự  
phụ thuộc vào nguồn tảo tươi nuôi sinh khối.  
Vì vậy, kết quả nghiên cứu này có thể mở ra  
một hướng đi mới trong sản xuất giống các loài  
động vật thân mềm nói chung và ốc đĩa nói  
riêng nhờ đơn giản hóa được kỹ thuật cho ăn,  
chủ động trong sản xuất và kiểm soát được sinh  
trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng.  
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ  
1. Kết luận  
Theo Quayle and Newkirk (1989), khi ương  
nuôi ấu trùng các loài động vật thân mềm thì  
việc cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng  
của thức ăn là điều kiện quan trọng để duy trì  
sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng cao và ổn  
định. Theo đó, nếu nguồn thức ăn cung cấp cho  
ấu trùng không đủ về số lượng cũng như chất  
lượng thì ấu trùng có thể ngừng sinh trưởng  
hoặc có thể có tốc độ sinh trưởng âm và tỷ lệ  
sống rất thấp. Do đó, ở hai nghiệm thức sử  
dụng thức ăn là các loại tảo tươi hoặc tảo tươi  
kết hợp với thức ăn tổng hợp thì sinh trưởng và  
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa là tốt nhất.  
Độ mặn 25‰ là thích hợp nhất cho sinh  
trưởng và phát triển của ấu trùng ốc đĩa giai đoạn  
ấu trùng trôi nổi, tăng trưởng tuyệt đối đạt 8,99  
± 0,4 µm/ngày và tỷ lệ sống đạt 54,11 ± 2,37 %.  
Thức ăn là tảo tươi (N. oculata I. galbana)  
hoặc tảo tươi kết hợp thức ăn tổng hợp (APo  
và Frippark) là các loại thức ăn thích hợp nhất  
cho sinh trưởng và phát triển của ấu trùng ốc  
đĩa giai đoạn ấu trùng trôi nổi với tốc độ tăng  
trưởng tuyệt đối của ấu trùng đạt 10,35 ± 0,51  
µm/ngày và tỷ lệ sống đạt 58,50 ± 3,04 %.  
2. Khuyến nghị  
Cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của  
độ mặn và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ  
sống của ấu trùng ốc đĩa ở các giai đoạn phát  
triển khác nhau và ương nuôi trong các thể  
tích lớn hơn.  
Mặt khác, việc sử dụng kết hợp tảo tươi với  
thức ăn tổng hợp để ương nuôi ấu trùng ốc đĩa  
cho tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống cao như  
trên là một lợi thế lớn, mang lại nhiều ưu điểm  
trong quá trình ương nuôi ấu trùng, do thao  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 25  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 4/2020  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Tiếng Việt  
1. Vũ Trọng Đại, Phùng Thế Trung và Ngô Anh Tuấn (2014). Đặc điểm phân bố và hiện trạng khai thác ốc đĩa  
(Nerita balteata Reeve, 1855) tại Quảng Ninh. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề thủy  
sản 2014-tập 2, 215-219.  
2. Vũ Trọng Đại, Ngô Văn Mạnh và Lại Văn Hùng, 2018. Ảnh hưởng của thức ăn và độ mặn lên sinh trưởng và  
tỷ lệ sống của ấu trùng ốc nhảy Strombus canarium (Linnaeus, 1758) tại Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học Trường  
Đại học Cần Thơ. 54 (Số chuyên đề: Thủy sản) (1): 45-50.  
3. Đặng Khánh Hùng, Vũ Trọng Đại, Ngô Anh Tuấn, Nguyễn Đình Huy (2014). Nghiên cứu một số đặc điểm  
sinh học sinh sản của ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1855) ở Quảng Ninh. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy  
sản, số 1/2014, 114-119.  
4. Dương Văn Hiệp, 2010. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản suất giống ốc nhảy Strombus  
canaium. Báo cáo tổng kết đề tài trung tâm KHKT và SX giống thủy sản Quảng Ninh.  
5. Lê Thị Ngọc Hòa, Dương Văn Hiệp, Phan Thị Thương Huyền, Lê Thị Thu Hương, Nguyễn Văn Hà, Kiều  
Tiến Yên, 2009. Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm ốc nhảy  
(Strombus canarium linneaus, 1758). Báo cáo tổng kết đề khoa học, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.  
Tiếng Anh  
6. Quayle D. B and Newkirk G. F., 1989. Farming Bivalve Molluscs Methods Study and Development.  
Advances in World Aquaculture, volume I (1989), pp. 1-120.  
7. Nguyễn Thị Xuân Thu, Hứa Ngọc Phúc, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Mai Duy Minh, Phan Đăng Hùng, Nguyễn  
Văn Hà, Kiều Tiến Yên, Nguyễn Văn Uân, 2000. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống nhân  
tạo và nuôi thương phẩm ốc hương (Babylonia areolata). Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ, Bộ  
Thủy sản.  
8. Phùng Thế Trung, Vũ Trọng Đại và Ngô Anh Tuấn (2014). Qúa trình phát triển phôi và ảnh hưởng của độ  
mặn, mật độ lên kết quả ấp trứng ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1855). Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần  
Thơ. Số chuyên đề thủy sản 2014-tập 1, 259-263.  
9. Frey M. A. and Vermeij G. J., 2008. Molecular phylogenies and historical biogeography of a circumtropical  
group of gastropos (Genus: Nerita): Implications for regional diversity patterns in the marine tropics. Molecular  
Phylogenetics and evolution 48: 1067-1086.  
10. Hurtado L. A., Frey M., Gaube P. and Pfeiler E., 2007. Geographical subdivision, demographic history  
and gene flow in two sympatric species of intertidal snails, Nerita scabricosta and Nerita funiculata, from the  
tropical eastern Pacific. Mar Biol 151: 1863-1873.  
11. Siong K. T. and Reuben C., 1998. Taxonomy and Distribution of the Neritidae (Mollusca: Gastropoda) in  
Singapore: 481-494.  
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
pdf 8 trang yennguyen 22/04/2022 380
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của độ mặn và thức ăn đến sinh trưởng, tỷ lệ sống của ấu trùng ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1855) giai đoạn trôi nổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_do_man_va_thuc_an_den_sinh_truong_ty_le_song_c.pdf