Bài giảng Ngư loại - Ngành: Nuôi trồng thủy sản

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN  
-----o0o-----  
BÀI GIẢNG  
Môn học: Ngư loại  
Ngành: Nuôi trồng thủy sản  
Trình độ: Cao đẳng  
Năm 2016  
1
BÀI MỞ ĐẦU  
1. VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MÔN NGƯ LOẠI  
Hiện nay trên trái đất có khoảng 13,5 triệu loài sinh vật, trong đó khoảng  
45000 loài là động vật có xương sống (Cá, Chim, Thú,...) còn lại là động vật  
không xương sống (Côn trùng, giáp xác, động vật thân mềm, động thực vật thuỷ  
sinh và thực vật trên cạn...). Trong số 45000 loài động vật có xương sống, cá có  
khoảng 29500 loài cá (FishesBase, 2006). Cá là nhóm đầu tiên trong ngành động  
vật có xương sống. Chúng xuất hiện sớm nhất và có lịch sử phát triển lâu đời  
nhất, có thể nói cá là nhóm rất phong phú về thành phần loài và đa dạng sinh  
học cao trong ngành động vật có xương sống. Đồng thời cá là nguồn thực phẩm  
hàng ngày của nhân dân, là đối tượng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế  
quốc dân, đặc biệt có giá trị hàng hoá cao trong buôn bán và xuất khẩu thu ngoại  
tệ ở những nước có nền kinh tế đang phát triển.  
Từ buổi sơ khai, con người sống bằng nghề săn bắt hái lượm cũng đã biết  
phân biệt và đặt tên cho các loài cá bằng ngôn ngữ địa phương, năm - 384-322  
(Trước công nguyên) thời Aristode đánh dấu sự hình thành ngư loại học. Buổi  
đầu của thời kỳ sơ khai chỉ là đặt tên, phân loại và nghiên cứu hình thái cá. Về  
sau khi xã hội càng phát triển, hiểu rõ vị trí và tầm quan trọng của nhiều loài cá  
đối với đời sống con người thì vấn đề nghiên cứu về cá càng ngày càng sâu rộng  
hơn, nghiên cứu kỹ hơn về nhiều lĩnh vực như: hình thái giải phẫu cá, phân loại  
cá, sinh lý sinh thái cá, địa lý phân bố...  
Ngư loại học (Ichthyology) là môn khoa học nghiên cứu về cá, nghiên cứu  
các đặc điểm về hình thái, giải phẫu, sinh thái, sinh lý, phôi sinh học, phân loại  
và phân bố của cá, ...  
Ngư loại học là môn khoa học cơ bản chiếm vị trí khá quan trọng không  
những trong khoa học: lưu giữ, bảo tồn tính đa dạng sinh học... mà còn trong  
thực tiễn: nghiên cứu phát triển nguồn lợi, khai thác các loài cá, giới thiệu thuần  
2
hoá các loài cá trở thành những đối tượng cá nuôi có giá trị... góp phần phát  
triển bền vững nghề cá.  
Ngày nay, với sự tích luỹ và phát triển không ngừng của khoa học nghiên  
cứu về cá, những nghiên cứu bổ sung sâu sắc hiểu biết về cá đã hình thành nhiều  
lĩnh vực nghiên cứu riêng, các môn học riêng:  
- Hình thái giải phẫu: Nghiên cứu hình thái ngoài và cấu tạo bên trong, cấu  
trúc gen...  
- Sinh lý sinh thái cá: Nghiên cứu chức năng của các cơ quan trong cơ thể cá,  
mối quan hệ giữa cá với môi trường và các sinh vật khác.  
- Phôi sinh học: Nghiên cứu sự phát triển phôi của cá.  
- Phân loại cá: Trên cơ bản nghiên cứu hình thái cấu tạo, sinh lý sinh thái,  
phôi sinh học... tiến hành định loại và sắp xếp chúng vào hệ thống phân loại.  
- Địa lý phân bố cá: Nghiên cứu sự phân bố địa lý, quy luật phân bố và vùng  
phân bố của chúng.  
- Nghiên cứu sinh sản, dinh dưỡng của cá: Quá trình thành thục và sinh sản  
của các loài cá trong tự nhiên và trong nhân tạo. Dinh dưỡng và thức ăn của các  
loài cá ở các giai đoạn.  
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nuôi và khai thác cá: Nuôi cá ao, nuôi  
cá hồ chứa... Khai thác cá trên sông biển và hồ.  
- Di truyền chọn giống cá: Nghiên cứu quy luật di truyền của cá, các đặc  
điểm biến dị, đột biến..., nguyên tắc và cơ sở chọn giống cá...  
Ngoài ra nói đến ngư loại học là nói đến nghiên cứu cơ sở khoa học của nghề  
nuôi cá, khai thác, công nghệ chế biến và kinh tế nghề cá...  
Ngư loại học trong giai đoạn hiện nay được hiểu và có nhiệm vụ nghiên cứu  
chính là nghiên cứu hình thái, giải phẫu, sinh lý, sinh thái cá, định loại các loài  
cá, sắp xếp vào hệ thống phân loại, nghiên cứu sự phân bố, vùng phân bố của cá,  
nghiên cứu tính đa dạng sinh học và nguồn lợi cá trong các thuỷ vực.  
Sự phát triển của ngư loại học gắn liền với sự phát triển nghề cá, là một  
trong những mắt xích quan trọng đối với sự phát triển nghề cá, là môn cơ bản rất  
quan trọng trong nghề cá, hay nói cách khác ngư loại học là môn sinh học tổng  
hợp về cá giúp cho học sinh, sinh viên cũng như các nhà nghiên cứu, các ngư  
dân nuôi và khai thác cá hiểu được những kiến thức cơ bản nhất về cá như: hình  
thái cấu tạo chung, sinh lý, sinh thái, mối quan hệ giữa cá và môi trường sống,  
sự sinh trưởng và phát triển ... từ đó có các biện pháp bảo vệ nguồn lợi và  
nghiên cứu quy trình kỹ thuật trong nuôi trồng và khai thác thuỷ sản nhằm tăng  
hiệu quả kinh tế trong nghề cá  
2. VỊ TRÍ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN HỌC VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC  
Ngư loại học là môn cơ bản cung cấp những kiến thức cho học sinh, sinh  
viên và các nhà mới nghiên cứu những kiến thức cơ bản về cá để dễ tiếp cận với  
các môn chuyên môn của ngành kỹ thuật nuôi, sinh sản nhân tạo các loài cá, kỹ  
thuật di giống thuần hoá cá, công nghệ chế biến cá, kinh tế nghề cá v.v. Mặt  
khác, ngư loại là môn cung cấp những kiến thức cơ bản để phân loại các loài cá  
3
trong các thuỷ vực trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi, bảo tồn tính đa  
dạng sinh học cá trong công tác điều tra nguồn lợi thuỷ sản... Vì vậy, ngư loại  
học có vị trí khá quan trọng trong chương trình đào tạo thuỷ sản  
Với kiến thức đồ sộ của ngư loại học nên nó có quan hệ mật thiết với các  
môn chuyên ngành trong ngành thuỷ sản: Kỹ thuật ương nuôi, sinh sản. Đồng  
thời nhu cầu những kiến thức của các môn chuyên ngành bổ sung hoàn thiện và  
thúc đẩy phát triển môn ngư loại, đặc biệt phần sinh sinh lý sinh thái cá.  
Ngư loại còn quan hệ rất gần với các môn cơ sở: động vật có xương sống,  
sinh lý, sinh thái, di truyền...Ngư loại còn quan hệ chặt chẽ với các môn: Quản  
lý chất lượng nước trong nuôi trồng thuỷ sản, thuỷ sinh, toán, lý, hoá... Kiến  
thức các môn này giúp cho ngư loại có phương pháp nghiên cứu tốt hơn  
CHƯƠNG I. HÌNH THÁI GIẢI PHẪU CÁ  
Cá là động vật có xương sống, sống ở dưới nước, hô hấp bằng mang, tim có  
2 ngăn và một vòng tuần hoàn... Cần phân biệt theo cách gọi một số loài không  
phải là cá, sống trong nước: Cá mực, cá Sấu, cá Voi.  
I. HÌNH THÁI BÊN NGOÀI  
1. Kích thước và hình dạng cá  
Như chúng ta biết trên thế giới có khoảng 29500 loài cá. Mỗi một loài có cấu  
tạo hình thái khác nhau thích nghi với môi trường và tập tính sống của cá. Đó là  
kết quả hình thành trong quá trình thích nghi, tiến hoá của loài. Thân cá có thể  
chia làm 3 trục cơ thể: trục đầu đuôi, trục lưng bụng, trục phải trái. Tuỳ thuộc  
vào từng loài mà độ dài các trục này có tỉ lệ khác nhau. Nhưng nhìn chung cá có  
các hình dạng chung như sau:  
1.1. Dạng hình thoi  
C¸ thu chÊm (Scomberomorus guttatus)  
Là dạng hình phổ biến nhất của cá, dạng hình này thích hợp với việc bơi lội  
trong nước, thân có hình hơi dẹt. Trục đầu đuôi, trục lưng bụng và trục phải trái  
có tỉ lệ cân đối dạng thuỷ động học. Cá có hình thoi phần trước và sau đều nhỏ  
hơn phần giữa, thân hơi dẹp bên hoặc tròn. Thân hình thoi giảm nhẹ sức cản của  
nước khi tiến về phía trước, triệt tiêu xoáy rối nước ở phía sau giúp cá bơi lội  
nhanh. Ví dụ: cá Trắm cỏ Ctennopharyngodon idella, cá Măng Elopichthys  
bambusa. Cá biển như cá Thu Scomber, NgThunnus…  
1.2. Dạng hình ống  
4
Là những loài cá hình ống dài, trục lưng bụng, trục phải trái ngắn nhất, trục  
đầu đuôi dài nhất, đầu nhọn, đuôi vót, thân tròn dài bơi lội uốn khúc trong nước,  
chui luồn trong hang hốc, trong bùn. Kiểu bơi lội này châm chạp nhưng tốn ít  
năng lượng, di chuyển bằng cách uốn lượn thân. Chúng ta bắt gặp dạng hình này  
ở cá Chình Anguilla, Lươn Monopterus, Chạch bùn Misgunus.)  
Cá Chình Anguilla  
C¸  
ch¹ch  
bïn  
(Misgurnus  
anguillicaudatus  
1.3. Dạng hình dẹt bên  
Trục đầu đuôi ngắn lại, trục lưng bụng dài ra, trục phải trái ngắn nhất. Ví dụ:  
cá Vền (Megalobrama), cá chim đen (Formio niger) cá Dìa sọc (Siganus  
guttatus). Những loài cá có dạng hình trên thường phân bố tầng nước giữa hoặc  
gần đáy, nơi có dòng chảy yếu hoặc yên tĩnh.  
C¸ chim ®en (Formio niger)  
ThÌ be (Rhodeus ocellatus)  
1. 4. Dạng hình bẹt  
C¸  
Dạng hình này có trục lưng bụng ngắn nhất, trục đầu đuôi vừa phải, còn trục  
phải trái dài nhất (ví dụ Cá Đuối) phần lớn những loài cá này sống tầng đáy, ít  
bơi lội, di chuyển chậm chạp.  
5
C¸ §uèi bång (Dasyatis uamak)  
C¸ ngé  
(Psettodes erumei)  
Thân dẹp 2 bên, kéo dài thành dải lụa bơi lội nhờ uốn thân sống ở vùng nước  
tĩnh, nước sâu. Ví dụ: cá Hố Trichius), cá Regalecus.  
Ngoài các dạng hình trên cá còn một số dạng hình đặc biệt để thích nghi với  
đời sống và tập tính đặc thù riêng của nó. Ví dụ: cá Ngựa Hyppocampus thân  
hình giống như con ngựa, cá Mặt trăng Mola mola thân hình tròn như trái bóng  
sống trôi nổi. Cá nóc gai, nóc hơi khi gặp kẻ thù chúng đớp không khí vào làm  
trương tròn bụng, cá trôi trên mặt nước, các gai vẩy dựng lên để tránh hoặc doạ  
kẻ thù.  
C¸ nãc v©y ®á (Fugu  
rubripes)  
2. Kích thước của cá  
Các loài cá khác nhau có kích thước khác nhau: Loại cá có kích thước lớn  
như cá Mập dài 16-17 m, nặng 5-6 tấn. Cá Đuối Mobula manta rộng đĩa thân  
6m, nặng 4 tấn. Cá Tầm Huso huso dài tới 5- 6 m. Cá Bông lau Pangasius sp dài  
tới 3,3 m. Bên cạnh đó có những loài cá có kích thước nhỏ nhất: cá Đòng đong  
Puntius, cá Sóc dài 20mm...  
Trong cùng một loài, cùng một lứa tuổi nhưng nuôi trong môi trường rộng  
hẹp cá cũng có kích thước khác nhau như các loài được nuôi làm cảnh...Kích  
thước của cá phụ thuộc vào môi trường sống,  
3. Các cơ quan bên ngoài  
Cơ thể cá bên ngoài chia làm ba phần: Đầu, thân và đuôi. Ranh giới giữa  
đầu và thân là khe mang cuối cùng, ranh giới giữa thân và đuôi là sau gốc vây  
hậu môn  
3.1. Đầu cá  
Đầu cá có nhiều dạng khác nhau, đa số có dạng đầu nhọn. Có thể thường gặp  
một số dạng đầu sau:  
6
- Dạng đầu dẹt theo mặt phẳng nằm ngang: cá quả, cá trê, chiên, nheo.  
- Dạng đầu dẹt hai bên: cá chép, mè, thu chim. Trên đầu cá có miệng, râu,  
mũi mắt, mang.  
- Dạng dài và nhọn: cá Kìm, cá Nhái. Trên đầu cá có miệng, râu, mũi mắt,  
mang.  
1. Miệng trên  
2. Miệng giữa  
3. Miệng hơi dưới  
4. Miệng dưới  
5. Miệng co dãn  
6. Miệng hút  
3.1.1.Miệng cá:  
Đặc điểm cấu tạo hình dạng kích thước vị trí của miệng phụ thuộc chủ yếu  
vào tập tính bắt mồi và đặc điểm dinh dưỡng của cá. Lớp cá Miệng tròn  
Cyclostomata không có hàm mà dạng phễu có nhiều răng sắc bám, ký sinh vào  
loài cá khác. Ở lớp cá Sụn Chondrichthyes miệng nằm mặt bụng, miệng rộng.  
Đối với lớp cá Xương căn cứ vào vị trí của miệng và xương hàm có chia thành  
các dạng miệng sau: Miệng hướng về phía trước hai hàm trên và hàm dưới của  
chúng gần bằng nhau ví dụ như cá chép Cyprinus carpio. Miệng ở phía dưới có  
hình khe ngang, môi dưới có viền sừng sắc nhọn để gặm rêu cá Trôi Cirrhina  
molitorella, cá Anh vũ Semilabeo obscurus. Miệng hướng phía trên hàm trên  
ngắn hơn hàm dưới cá Thiểu Erythroculter. Những loài cá ăn sinh vật nhỏ hay  
thức ăn ít di động có miệng vừa và nhỏ.  
3.1.2. Râu:  
7
Râu là cơ quan cảm giác và xúc giác của cá giúp cá tìm kiếm mồi. Tuỳ vị trí  
của râu mà ta gọi. Có râu mũi như cá bò (Pseudobagrus fulvidraco), cá Chiên.  
Râu cằm mọc ở dưới hàm dưới về phía bụng như cá phèn hai sọc (Upeneus  
sulphureus) . Râu hàm trên, hàm dưới như cá Chép. Râu miệng như cá Chạch có  
5 đôi.  
Có loài có râu, có loài không có râu, số lượng cũng khác nhau. Những loài  
cá sống tầng đáy sâu thường râu rất phát triển, do ở tầng đáy ít ánh sáng mắt  
không phát huy được tác dụng. Trong phân loại cá có hay không có râu, vị trí số  
lượng độ dài của râu là một chỉ tiêu phân loại giữa các loài, bộ, họ với nhau.  
3.1.3. Mắt  
Mắt cá nằm đối xứng hai bên đầu, tuy nhiên hình dạng vị trí kích thước của  
mắt phụ thuộc vào vị trí môi trường sống, tập tính sống. Cá sống ở nước sâu đục  
mắt tiêu giảm, cá sống ở đáy mắt ở lưng. Cá Nác Priophthalmus sống ở ven bờ  
mắt nổi hẳn lên. Đặc biệt có loài cá có 4 mắt Nabaps mắt lồi lên đỉnh đầu, mỗi  
mắt chia làm hai phần, phần trên có thể nhìn trong không khí, phần dưới nhìn  
được trong nước.  
3.1.4. Mũi  
Mũi cá có nhiệm vụ cảm nhận được mùi vị của thức ăn, mùi vị môi trường  
nước. Mũi cá thường nằm phần trên đầu, sau môi, ở trước mắt. Mũi cá thường  
không thông với xoang miệng như các động vật bậc cao khác. Trừ Lớp cá miệng  
tròn, cá phổi lỗ mũi thông với xoang miệng. Ở cá Sụn có rãnh mũi miệng, nước  
từ mũi qua rãnh mũi miệng rồi vào xoang miệng (dạng cấu tạo nguyên thuỷ).Cá  
Xương mỗi bên có hai lỗ mũi thông với nhau qua một màng ngăn. Khoảng cách  
hai lỗ mũi tuỳ thuộc từng loài.  
3.1.5. Mang và khe mang  
Mang và khe mang là cơ quan hô hấp của cá. Số lượng cung mang và khe  
mang tuỳ thuộc từng lớp cá khác nhau. Cá Miệng Tròn có 7 đôi khe mang; cá  
Myxin có 1- 14 đôi khe mang; cá Sụn có 5- 7 đôi (cá Nhám khe mang nằm hai  
bên đầu; cá Đuối khe mang nằm ở mặt bụng) không có nắp mang. Cá xương có  
một đôi khe mang nằm hai bên đầu, có nắp mang che phủ. Riêng Lươn khe  
mang hai bên ở mặt bụng của đầu.  
3.1.6. Lỗ phun nước:  
Cá Sụn và một vài loài cá xương có một đôi lỗ phun nước nằm hai bên sau  
mắt do khe mang đầu tiên thoái hoá. Cá Sụn lỗ phun nước được coi là cơ quan  
hô hấp.  
3.2. Thân và đuôi cá  
Thân cá là phần chính chứa nội tạng. Bên ngoài có vây ngực, vây bụng và  
vây lưng.  
Đuôi gồm bắp đuôi tính từ hậu môn đến gốc đuôi và vây đuôi.  
4. Da và các sản phẩm của da  
4.1. Da cá  
8
Da cá có tác dụng bảo vệ cơ thể chống sự xâm nhập của vi trùng, tránh sự cọ  
sát của bên ngoài, bài tiết chất bẩn ra ngoài, điều hoà áp suất thẩm thấu. Ngoài  
ra có khả năng hấp thụ một số chất và có chức năng là cơ quan cảm giác. Cũng  
giống như động vật có xương sống bậc cao cấu tạo da cá gồm hai lớp  
Lớp biểu bì (Epidermes) có nguồn gốc ngoại bì. Trong các tế bào biểu bì có  
xen lẫn tế bào tuyến đơn bào hoặc đa bào tiết chất nhầy. Tuyến tiết dịch quánh  
(Mucous) hình cốc đổ ra ngoài. Tuyến tiết dịch nhầy (Scrous) hình chuỳ, hình  
cầu đổ vào khe các tế bào biểu bì. Các chất này có tác dụng làm trơn da và  
chống vi khuẩn xâm nhập, hoặc đến mùa sinh sản ở con đực tăng tiết tạo nốt sần  
ở da, xương nắp mang, vây ngực (họ cá chép cyprinidae). Một số loài cá có  
tuyến độc nằm ở gốc tia vây lưng, gai vây ngực, gai nắp mang.  
Lớp bì (Dermis): có nguồn gốc trung bì. Nằm dưới lớp biểu bì phân biệt  
thành hai tầng: Tầng liên kết xốp mỏng có các tế bào sắc tố, các tế bào dạng sợi  
ngang dọc sắp xếp có trật tự nhiều mạch máu làm nhiệm vụ nuôi da, tham gia  
vào quá trình hô hấp như cá Chình Anguilla cá Nác Periopthalmus. Tầng liên  
kết đặc chỉ có tế bào dạng sợi chạy ngang dọc và xếp chặt hơn tầng trên.  
Một số loài cá dưới tầng bì còn có tấng dưới da, tầng này xốp có chứa tế bào  
sắc tố. Trong công nghiệp thuộc da, da cá dùng làm các đồ dùng.  
4.2. Các sản phẩm của da  
4.2.1. Vảy (Scale)  
Là sản phẩm chủ yếu của bì, cá không có vảy chỉ là dạng thứ sinh. Kích  
thước và hình dạng tuỳ thuộc vào vị trí, tuổi cá, giống loài. Vảy nhỏ và cứng ở  
cá Sụn, to và mềm như cá Trắm cỏ, Chép. Theo nghiên cứu của một số nhà Ngư  
loại học vảy cá xuất hiện ở giai đoạn cá Hương, thường trong kích thước 17 –  
20mm. Có bốn loại vảy:  
Vảy tấm: gồm chất xương (dentin) có nguồn gốc tầng bì, lớp men (email)  
phủ ngoài có gốc tầng biểu bì, gặp ở cá Sụn Chondrichthyes. Vẩy này có phần lộ  
ra ngoài da gọi là gai vảy; phần vùi trong da gọi là tấm nền trong đó chứa mạch  
máu va đầu mút dây thần kinh.  
Vảy cosmin: gồm chất xương có nhiều khe rỗng chứa chất cosmin, tiếp đến  
lớp isopedin có cấu tạo xương ngoài cùng là lớp men.Vẩy cosmin được coi là  
nhiều vảy tấm gắn liền với nhau. Gặp ở cá phổi Dipnoi cá vây tay  
Crossopterygii  
Vảy láng: thường có dạng hình thoi. Bên trong chủ yếu là lớp isopedin,  
ngoài phủ lớp đặc biệt bằng chất ganoin có gốc bì. Gặp ở cá Tầm Asipenser cá  
nhiều vây.  
Vẩy xương: Là tấm xương mỏng gồm nhiều lớp isopedin, ngoài cùng là lớp  
ganoin mỏng. Vảy xương có dạng hình tròn hoặc lục giác. Các vảy sắp xếp theo  
kiểu lợp mái ngói làm cho vảy hoạt động dễ dàng. Vẩy phát triển theo hai lớp:  
Lớp trên là lớp Ganoin rất mỏng, giòn, do chất xương hình thành làm cho  
vảy cứng.  
9
Lớp dưới là lớp Isoperdin, gồm có nhiều lớp do sợi mô liên kết hình thành,  
mềm mại làm cho vẩy dễ cử động.  
Vảy xương được chia ra 4 phần :  
Phần trước (Phần gốc) là phần vảy hướng về phía đầu nằm trong túi vảy.  
Phần này không có tế bào sắc tố  
Phần sau (ngọn vảy) là phần vảy lồi ra ngoài túi vảy hướng về phía đuôi cá.  
Phần vảy hai bên trái phải của vảy gọi là mặt bên.  
Từ tâm vẩy có các đường thẳng chạy ra xung quanh gọi là tia phóng xạ giúp  
cho vẩy thêm mềm mại. Trên vảy có những vòng tuổi làm thành những vân  
sáng, tối trông rất rõ tạo các vòng sinh trưởng (Sklerid), trong Ngư loại học có  
thể làm cơ sở tính tuổi của cá. Có hai loại vảy tròn và vảy lược. Vảy tròn  
(Csyclod scale) là vảy có phần sau lộ ra ngoài trơn tru như bộ cá Chép  
Cypriniformes bộ cá Trích Clupeiformes. Vảy lược là phần vảy lộ ra ngoài có  
dạng răng lược như bộ cá Vược Perciformes  
Thành phần hoá học của vảy  
cá qua nghiên cứu cho thấy chất  
hữu cơ (dạng keo đản mạch)  
Chiếm 41- 55%; 38- 46 % là  
Ca3(PO4)2. Ngoài ra còn có  
CaCO3,  
Mg3(PO4)2,  
Na2CO3…Men phôtphattase có  
tác dụng kết tủa chất can xi.  
Đối với vảy đường bên, mỗi  
loài cá có số lượng nhất định,  
trong Ngư loại căn cứ vào số  
lượng vảy đó làm tiêu chuẩn hình  
thái phân loại và được kí hiệu như  
sau:  
6
LL= 41 42; LL: lateral line  
4
41 – 42: số lượng vảy đường  
bên dao động.  
6: số hàng vảy trên đường bên  
4: Số hàng vẩy dưới đường  
bên  
Vảy cá được dùng làm keo dán  
gỗ, vỏ bút máy, làm phim ảnh,  
làm hoa, phân bón rất tốt.  
4.2.2. Màu sắc của cá  
Màu sắc của cá bao giờ cũng  
phù hợp với môi trường xung  
quanh, là kết quả của một quá trình thích nghi được hình thành trong quá trình  
lịch sử. Nhưng có một số loài cá có màu sắc là kết quả của chọn lọc và lai tạo  
10  
(cá cảnh). Màu sắc giúp cá trốn tránh kẻ thù, ẩn nấp nguỵ trang để bắt mồi, tác  
dụng kích thích sinh dục. Cá có những màu sắc cơ bản sau:  
Màu sắc nổi: lưng có màu tím nhạt, xám đen, hoặc xanh lá cây. Bụng và  
lườn trắng óng ánh bạc, màu sắc này đặc trưng cho cá sống ở tầng nước trên (cá  
Trích, cá Trỏng, cá Thu…)  
Màu sắc cá sống san hô, rong rêu có mầu sắc rất đẹp sặc sỡ, màu nâu nhạt,  
vàng nhạt ở lưng thường có vết sẫm ngang dọc hông.  
Màu sắc cá sống ở đáy: Lưng hông màu đen sẫm, hoặc có chấm hoa ở lưng  
sọc đen ở hông, bụng màu trắng (cá Trê hoa)  
Màu sắc đàn: giúp cá xác định vị trí lẫn nhau nhất là khi di cư đẻ trứng hay  
tìm mồi. Cá Thè be gai Acanthorhodeus asmussi Dyb giai đoạn cá hương có  
màu sặc sỡ ở lưng, đến giai đoạn trưởng thành thì hết. Cá hồi cái đến mùa sinh  
sản có sọc đen dọc thân để cá đực điều chỉnh thụ tinh dễ dàng.  
Màu sắc cá không cố định trong quá trình phát triển cá thể. Màu sắc có thể  
thay đổi theo tuổi, theo giới tính , theo bệnh lý.  
Màu sắc của cá do các tế bào sắc tố phân bố ở tầng liên kết xốp của bì, một  
số tế bào sắc tố phân bố ở màng bụng và xoang bao tim. Tế bào sắc tố có ba loại  
chính: Tế bào sắc tố đen (melanophore) là sản phẩm phân giải của Protein, có cả  
ở trong nội tạng. Sắc tố đỏ (erythrophore) là những hạt màu đỏ da cam do thức  
ăn mang vào. Sắc tố vàng (Xanthrophore) có thể tan trong axit béo. Ngoài ra còn  
có chất Guanin không màu sắc, có khả năng phản xạ ánh sáng từ trên bề mặt của  
nó và cho ta màu trắng bạc. Guanin sinh ra do sự phân giải nucleoprotein.  
Màu sắc cá thay đổi do tế bào sắc tố tập trung hay phân tán dưới sự điều tiết  
của hệ thần kinh hoặc kích thích tố. Sự điều tiết thần kinh : do trung khu hoá  
sáng của tuỷ sống nằm khoảng 1/3 cơ thể; trung khu hoá tối nằm ở não trung  
gian. Do kích thích tố của não thuỳ thể tiết vào máu  
Một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến màu sắc: trời lạnh, thiếu sinh tố A,  
thiếu oxy cá bạc màu…Màu sắc cá thay đổi theo môi trường ngoài là do mắt  
cảm thụ được truyền về não bộ, não bộ điều tiết sắc tố bằng đường thần kinh  
hoặc kích thích tố.  
5. Cấu tạo và chức năng của vây cá  
Chức năng của vây là cơ quan vận động và giữ thăng bằng của cá. Vây cá  
thường có 2 dạng: Vây lẻ và vây chẵn. Về mặt tiến hoá và phát triển phôi, vây lẻ  
có trước vây chẵn. Vây chẵn ở cá tương đương với chi trước và chi sau của động  
vật máu nóng. Vây cá có cấu tạo gồm: phần xương nâng đỡ với cơ điều khiển ở  
phía trong phần vây lộ ra ngoài. Phần vây lộ ra ngoài cấu tạo gồm: các tia vây và  
màng vây. Màng vây có tác dụng liên kết các tia vây thành khối linh động khi  
vận động trong nước, thường gặp ở lớp cá xương (lớp cá vây tia). Hoặc phần lộ  
ra ngoài cấu tạo dạng vây thịt (Vây tay) như lớp cá phổi (lớp cá vây tay).  
Ngoài ra còn gặp vây có cấu tạo phần thịt, mỡ gọi là vây mỡ thường nằm ở  
lưng như các loài cá Lăng, Chiên... trong bộ cá Nheo (bộ da trơn)  
11  
Tia vây có 2 loại: Tia đơn và phân nhánh. Tia phân nhánh thường rất mềm  
mảnh, dễ uốn lượn. Cấu tạo từ một gốc vây và chia nhiều nhánh ở ngọn.  
Tia vây đơn (tia không phân nhánh) thường ở phía trước của vây. Tia đơn có  
2 loại: Tia vây đơn mềm (tia đơn mềm) và tia vây đơn hoá gai cứng gọi tia đơn  
cứng). Tia vây cứng có hai loại: là tia vây cứng giả có sự phân đốt thường gặp ở  
một số loài trong họ cá Chép, tia vây cứng thật không phân đốt hình thành một  
khối như các loài trong ở bộ cá Vược.  
Người ta dùng chữ số la mã để ký hiệu cho tia vây cứng, còn số lượng tia  
vây mềm ký hiệu bằng chữ số la tinh, số lượng tia vây là chỉ tiêu dùng trong  
phân loại. Ví dụ ở cá Chẽm Lates calcarifer có công thức các vây như sau: D  
VII, I – 11; A III, 8; P 15; V I,5  
Vây lưng  
Vây đuôi  
Vây ngực  
Vây bụng  
Vây hậu môn  
5.1. Vây lẻ  
+ Vây lưng (D- dorsal fin) cá Sụn vây lưng bình thường, cá đuối vây lưng  
tiêu giảm. cá xương thấp vây lưng gồm các tia phân đốt. Ngoài ra một số cá có  
vây mỡ (cá Ngạnh). Số lượng vây lưng có một (cá Chép), hai cái (cá Bống, cá  
Đối) hoặc ba cái (cá Tuyết Gadus). Một số vây lưng phát triển như cánh buồm  
gặp ở cá Kiếm Histiophorus cao 1,5 m dài 6m. Nhiệm vụ của vây lưng là giữ  
thăng bằng.  
+ Vây hậu môn (A- anal fin) Nhiệm vụ giữ thăng bằng. một số loài cá thuộc  
bộ cá sóc Cyprinodontiformes tia vây hậu môn biến thành gai giao cấu.  
+ Vây đuôi (C- caudal fin) có nhiệm vụ đẩy và định hướng khi bơi có tác  
dụng như bánh lái, ở cá ngựa không có vây đuôi. Căn cứ vào phần cuối của  
xương sống và dạng tia vây đuôi để phân biệt.  
- Vây đuôi đồng hình: bên ngoài hai thuỳ bằng nhau, bên trong cột sống  
lệch vào một thuỳ như cá chép, cá mè, trôi, cháy, thu..  
- Vây đuôi dị hình: hai thuỳ đuôi lớn nhỏ khác nhau, cột sống chạy lệch hẳn  
vào thuỳ lớn gặp ở cá sụn cá xương thấp.  
- Vây đuôi lưỡng hình: hai thuỳ đối xứng qua cột sống như vây nguyên vỹ.  
5.2.Vây chẵn:  
+ Vây ngực (P- pectoral fin): cá Miệng tròn không có vây ngực. Cá sụn có  
vây ngực khá lớn nằm ở vị trí nằm ngang. Cá đuối có vây ngực mở rộng. Cá  
12  
xương có vây nhỏ. Đặc biệt cá Chuồn Exocoetus vây ngực phát triển lớn đạt  
80% có khả năng bay lượn trên mặt nước100-150 m. Cá Nác Periopthalmus 2  
vây ngực rất phát triển và có cơ quan hô hấp phụ giúp leo treo trên cây. Nhiệm  
vụ của vây ngực là giữ thăng bằng và giúp cá tiến về phía trước hoặc lùi về phía  
sau.  
+ Vây bụng (V- Ventral fin): Cá mập, cá tầm, cá trích, hồi, cá chép vây bụng  
thường nằm ở giữa bụng dưới vây lưng. Cá Vược vây bụng ở ngực dưới vây  
ngực. Cá Tuyết vây ngực ở hầu trước vây ngực. Bọn cá Bống Gobio biến thành  
giác bám. Vây ngực của cá Nhám, cá Đuối đực biến thành cơ quan giao cấu. Cá  
Chình Anguilla, bộ cá Sóc Cyprinodontiformes vây bụng thoái hoá.  
Cá di động nhẹ nhàng, nhanh chóng ở trong nước nhờ sự phối hợp hoạt động  
giữa các bộ phận: vây, bắp đuôi, bong bóng và sự phối hợp cử động của toàn  
thân. Ngoài ra còn có do sự phun nước qua khe mang ra phía sau.  
Tốc độ di chuyển các loài cá rất khác nhau: cá Chình 12km/h, cá Hồi  
40km/h, cá Vền 15 km/h, cá Mập 70km/h.  
II . HỆ XƯƠNG  
Bộ xương là khung nâng đỡ cơ thể bảo vệ các cơ quan bên trong. Nó liên kết  
với hệ cơ giúp cá vận động. Căn cứ vào vị trí phân bố người ta chia bộ xương cá  
thành: xương trục chính (Skeleti axiale) bao gồm có xương đầu, xương cột sống  
và xương sườn. Xương nhánh phụ (Skeleti appendicalare) bao gồm xương đai  
vai, đai lưng và xương tia vây.  
1. Sự phát triển của bộ xương  
1.1. Nguồn gốc và sự phát triển của bộ xương  
Xương có nguồn gốc trung bì. Bộ xương của động vật nói chung được  
hình thành qua ba giai đoạn: giai đoạn mô liên kết, giai đoạn sụn và giai đoạn  
xương. Căn cứ vào sự phát triển của xương chia ra hai loại xương: Xương gốc  
sụn là xương được hình thành trải qua giai đoạn sụn. Xương gốc mô liên kết là  
xương hình thành từ mô liên kết không qua giai đoạn sụn.  
1. 2. Sự hình thành bộ xương ở cá con:  
Cá mới nở cơ thể phát triển chưa hoàn chỉnh, do đó bộ xương của nó cũng  
chưa đầy đủ. Cá con mới nở toàn thân chỉ mới có một dây sống, sọ chưa rõ ràng.  
Dần dần xương sống cứng lại, xương sườn, xương sọ đầy đủ dần, các vây hình  
thành, tia vây, vảy xuất hiện từ đó cá mới bơi lội mạnh mẽ.  
2. Bộ xương cá  
2.1. Xương trục chính (Skeleti axiale)  
2.1.1. Xương đầu  
Cá sụn xương đầu toàn bằng sụn. Lớp cá Xương cấu tạo xương đầu đã hoá  
xương, tuy nhiên vẫn còn một số xương bằng sụn. Xương đầu cá xương rất phức  
tạp gồm sọ não và sọ tạng phát triển hoàn chỉnh.  
+ Sọ não gồm các xương gốc sụn đã hoá xương và có thêm các xương gốc  
bì bao phủ nóc sọ và dưới đáy sọ, số xương sọ ở cá xương rất nhiều.  
Xương ở vùng mũi có 1 xương sàng giữa, 2 xương sàng bên.  
13  
Hệ thống xương mắt gồm 5 xương quanh mắt: xương lệ phía trước, xương  
dưới mắt hai chiếc, xương trên mắt, xương vòng sau mắt.  
Xương vùng tai có xương cánh tai, xương bướm tai, xương trên tai và xương  
sau tai.  
Vùng chẩm có xương gốc chẩm, 2 xương bên chẩm và 1 xương chẩm.  
Nóc sọ có có các xương gốc bì là xương mũi, xương trán và xương đỉnh.  
14  
15  
Đáy sọ có xương lá mía nhỏ phía trước và một xương bên bướm lớn phía sau,  
hai xương này làm thành trục nền sọ.  
Xương  
Cánh  
Xương  
Bên  
bướm  
bướm  
+ Sọ tạng phân hoá thành các phần sau:  
Cung hàm: Ở hàm trên, sụn khẩu cái vuông phân thành hàm sơ cấp gồm 2  
xương khẩu cái, 2 xương vuông nối với nhau bởi 3 xương cánh; hàm thứ cấp  
gồm 2 xương trước hàm và 2 xương hàm trên. Các xương này có nguồn gốc  
xương bì.  
Cung móng: gồm 2 sụn móng hàm và 2 sụn móng hoá xương.  
Cung mang: đối với cá xương thường có 5 đôi, đôi thứ 5 tiêu giảm. Bên  
ngoài mang có xương nắp mang, nắp mang khớp trực tiếp với xương móng  
hàm. Bên ngoài có xương nắp mang, xương sau nắp mang, xương nắp mang  
giữa, xương trước nắp. Các cung mang nối với nhau bằng một mảnh sụn lẻ chạy  
dọc chính giữa phía dưới gọi là sụn tiếp hợp. Riêng họ cá Chép xương cung  
mang có sự biến đổi đặc biệt đôi cung mang thứ 5 biến thành 2 cung xương hầu  
dưới mang trên đó 3 dãy răng hầu rất phát triển nằm đối diện với cối chẩm,  
phần do xương gốc chẩm phát triển mạnh lồi ra. Đây là đặc điểm phân loại  
trong họ cá Chép.  
2.1. 2. Cột sống  
Là phần trụ của thân, thường có một số đốt sống nhất định từng loài cá ví dụ  
cá Chép thường 36 đốt. Các đốt sống nối tiếp nhau có đai chun liên hệ với nhau.  
Mỗi đốt sống gồm các phần chính sau đây:  
Thân đốt: Phần chính giữa lớn nhất, thường lõm cả hai mặt ở giữa có một lỗ  
nhỏ.  
Gai lưng: Phần nhọn hướng về phía lưng, là chõm trên cùng của đốt sống.  
Cung tuỷ chứa tuỷ nằm dưới gai lưng.  
Mấu huyết: Nằm phía dưới thân đốt sống, động mạch lưng đi qua chỗ này.  
Cung mang xương sườn ở phần đốt sống bụng và làm thành ống huyết ở đốt  
sống phần đuôi.  
16  
Các đốt sống chia thành ba loại tuỳ theo vị trí mà cấu tạo có phần đổi khác:  
Đốt sống phần đầu, đốt sống phần thân, đốt sống phần đuôi. Ví dụ cá Chép có  
36 đốt chia ra: Đốt sống phần đầu từ đốt 1- đốt thứ 4, có cấu tạo khác các đốt  
sau rất nhiều, đốt thứ nhất phần trên gắn liền với xương chẩm. Đốt sống phần  
thân nằm ngang với xoang bụng, từ đốt thứ 5 đến đốt thứ 21- 22, các xương  
sườn đốt thứ 5-> 15 rất phát triển, từ đốt 15- 20 xương sườn nhỏ và mảnh dần  
cho đến mất hẳn vì hai xương sườn nhỏ chập lại tạo thành gai bụng. Đốt sống  
phần đuôi gồm 15 -16 đốt hình dạng giống con thoi, phần dưới không có xương  
sườn mà chỉ có gai bụng (ống huyết).  
2.1.3. Xương sườn và xương giữa cơ  
Xương sườn có nguồn gốc từ sụn. Sườn lưng được hình thành riêng biệt,  
sau mới gắn vào cột sống. Sườn bụng tiếp xúc với mấu ngang cột sống nên gọi  
là sườn dưới. Cá viên khẩu chưa có sườn. Cá sụn có sườn bằng sụn. Cá phổi  
sườn bụng đã hoá xương. Cá xương bậc thấp như họ cá chép chỉ có sườn bụng.  
Cá xương bậc cao như bộ cá Vược Perciformes, ... có đủ cả xương sườn lưng và  
sườn bụng.  
Xương giữa cơ (xương dăm) có nguồn gốc từ mô liên kết. Xương giữa cơ chỉ  
gặp ở cá xương bậc thấp.  
2.2. Xương chi vây  
2.2.1. Xương vây ngực  
Xương vây ngực gồm hai phần cơ bản là phần xương bả vai, xương quạ đã  
hoá xương khớp với đai vai thứ sinh gồm 3 xương bì (xương đòn, xương trên  
đòn, xương sau đòn) hình thành nên đai vai. Xương đai vai không khớp với cột  
sống nhưng khớp trực tiếp với hộp sọ qua xương trên đòn, vì vậy vây ngực cá  
xương vận động linh hoạt.  
17  
2. 2.2. Xương vây bụng  
Xương vây bụng tương ứng với xương hông gồm hai xương gốc vây đính  
liền nhau (nhưng vây bụng không dính liền nhau). Góc dưới, phía trong của 2  
xương gốc vây có 2 xương nhỏ là di tích của tấm tia thoái hóa.  
2.2.3 Xương vây lưng và vây hậu môn  
Gồm một hàng tấm tia phân đốt hoá xương, nằm trong cơ và nhiều tia vây có  
nguồn gốc từ bì nằm bên ngoài được phủ bởi màng da mỏng. Cá xương bậc thấp  
tấm tia có 3 đốt, cá xương bậc cao còn 2 hoặc 1 đốt.  
2.2.4. Xương vây đuôi:  
Vây đuôi có vai trò chính trong sự vận chuyển của cá, có tác dụng như chiếc  
bánh lái. Căn cứ vào tính chất đối xứng bên ngoài và bên trong chia thành ba  
kiểu chính: đồng hình, lưỡng hình, dị hình. Đều được bắt nguồn từ vây nguyên  
vỹ.  
Đuôi nguyên vỹ (Protoxec) là vây có hai thuỳ trên dưới bằng nhau đối xứng  
qua cột sống nằm trên trục dọc giữa.  
Vây đuôi đồng hình (Homoxec): bên ngoài có hai thuỳ bằng nhau nhưng bên  
trong cột sống chạy lệch hẳn vào một thuỳ (mất đối xứng trong) gặp ở đa số cá  
xương.  
Vây đuôi dị hình (heteroxec): hai thuỳ đuôi lớn nhỏ khác nhau, cột sống  
chạy lệch hẳn vào thuỳ lớn (mất đối xứng cả ngoài và trong), gặp ở cá sụn và  
một số loài cá xương bậc thấp.  
Vây đuôi lưỡng hình (diphixec): gồm 2 thuỳ đối xứng qua cột sống như vây  
nguyên vỹ, khác là đối xứng thứ sinh, thường hình thành từ vây dị hình như vây  
đuôi cá vây tay, cá phổi.  
2.3. Thành phần hoá học và công dụng của xương cá.  
Các loài cá sụn bộ xương hoàn toàn bằng sụn. Thành phần xương sụn bao  
gồm đa số là chất đản mạch nhờn, chất đản mạch keo và đản mạch rắn. Thành  
18  
phần chính cấu tạo nên các chất đản mạch này là các axitamin arginin, histidin,  
lizin và một ít triptophan và thyroxin. Chất vô cơ chứa nhiều hợp chất canxi và  
các chất Na, K, Mg, Fe, Cl, P, S.  
Các loài cá xương bộ xương đã hoá xương cứng, thành phần chất vô cơ và  
chất hữu cơ bằng nhau. Chất hữu cơ chủ yếu là lipit chiếm 5 – 20 %, ngoài ra  
còn có protein. Chất hữu cơ gồm chủ yếu là CaC03 và Ca3(P04)2.  
Xương cá xương có thể dùng làm phân bón rất tốt, làm thức ăn cho gia súc  
và gia cầm, làm keo dán, than hoạt tính.  
III. HỆ CƠ (Mucular system)  
Trong mọi hoạt động sống của cá như bắt mồi, sinh sản, trốn tránh kẻ thù  
đều do sự co rút của cơ. Do vậy mà cơ của cá khá phát triển, cơ của cá chứa  
nhiều protein và nhiều vitamin mà các động vật khác không có được. Do đó thịt  
cá có giá trị kinh tế rất lớn trong đời sống hàng ngày.  
1. Cấu tạo và chức năng của các loại tế bào cơ  
- Dựa vào cấu tạo, nguồn gốc, chức năng và sự phân bố của các cơ trong cơ  
thể cá chia ra làm ba loại cơ.  
1.1. Cơ trơn:  
- Dạng hình thoi, giữa tế bào có nhân hình bầu dục, kích thước khoảng 20 –  
50μ.  
- Cơ trơn có nguồn gốc từ lá phôi giữa, do thần kinh giao cảm và phó giao  
cảm chi phối hoạt động, hoạt động của cơ trơn chậm chạp.  
- Cơ trơn phân bố chủ yếu ở các thành ống dẫn như ống tiêu hoá, thành mạch  
mấu.  
1.2. Cơ vân:  
- Được gọi là cơ xương vì có mối quan hệ mật thiết với xương giúp cơ thể  
hoạt động.  
- Cơ vân do lá phôi giữa hình thành, tế bào cơ vân hình thoi là loại tế bào đa  
nhân.  
- Cơ vân do thần kinh trung ương chi phối nên hoạt động của cơ vân nhanh.  
- Cơ vân phân bố ở các chi, thực quản, hầu, mắt, thân. Nhiều sợi cơ vân tập  
hợp thành bó cơ, nhiều bó cơ hợp lại thành khối cơ.  
1.3. Cơ tim:  
- Là hỗn hợp giữa cơ vân và cơ trơn, tế bào cơ tim rộng nhưng ngắn, nó phân  
nhánh với nhau thành khối, cơ tim thể hiện vân ngang.  
- Cơ tim do thần kinh thực vật chi phối.  
Trong ba loại cơ trên thì cơ vân chiếm tỉ lệ nhiều nhất, do đó chúng ta chỉ đi  
sâu vào vai trò của cơ vân trong hệ cơ của cá.  
2. Đặc điểm của hệ cơ của cá  
2.1.Cơ phần đầu  
- Có hai nhóm cơ lớn, đó là cơ mắt và cơ nắp mang.  
- Cơ mắt có sáu cái cơ giúp mắt chuyển động được: cơ xiên dưới, cơ  
xiên trên, cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ thẳng ngoài, cơ thẳng trong.  
19  
- Cơ mang gồm có ba đôi: cơ co, cơ nâng, cơ mở. Ba đôi cơ này làm  
nhiệm vụ vận động cung hàm, lưỡi, mang.  
2.2.Cơ phần thân  
- Cơ phần thân của cá tạo thành dạng W doãng, mỗi đốt cơ ứng với một đốt  
xương sống. Các đốt cơ ngăn cách với nhau bằng một màng mô liên kết có mầu  
trắng.  
2.3. Cơ đuôi  
- Cơ đuôi có cấu tạo phức tập nhất vì hoạt động của cơ đuôi phức tạp giúp  
cho cá bơi lội, chuyển hướng chủ yếu trong nước gồm các sau: cơ uốn lưng dưới  
vây đuôi, cơ uốn lưng trên vây đuôi, cơ co bụng vây đuôi, cơ uốn bụng giữa vây  
đuôi, cơ uốn bụng dưới vây đuôi.  
2.4. Cơ vây lưng và vây hậu môn gồm các đôi cơ sau:  
- Hai cơ nghiêng, một cơ dựng, một cơ hạ. Các cơ này co rút làm cho vây  
lưng và vây hậu môn nghiêng bên trái, nghiêng bên phải, dựng vây hay hạ vây  
xuống.  
2.5. Cơ vây ngực và vây bụng  
- Gồm có cơ co, cơ mở, cơ duỗi. Các cơ này tuỳ theo sự co rút làm cho vây  
ngực và vây bụng chụm vào nhau, duỗi xa nhau hay xuôi theo thân cá nhằm giữ  
thăng bằng hay bơi lội.  
- Ở cá miệng tròn có hệ cơ vân khá phát triển nhưng cơ thân xếp theo đốt cơ  
thể theo vách ngang. Cơ vây chỉ có vây lẻ chứ không có vây chẵn.  
- Cá sụn: có đầy đủ các nhóm cơ thân, vây, đốt mang có cấu tạo khá điển  
hình. Cơ vây còn khá nguyên thuỷ, đặc biệt cá đực vây bung phát triển biến  
thành cơ quan giao cấu chuyên hoá.  
- Cá xương: hệ cơ khá phức tạp, số lượng cơ khá nhiều, những loài cá bơi lội  
giỏi như cá Ngừ giữa cơ trục trên và cơ dưới trục có các sợi cơ dọc màu đỏ sẫm.  
IV. HỆ THẦN KINH  
- Nguồn gốc của hệ thần kinh từ lá phôi ngoài, lúc đầu hình thành tấm thần  
kinh hai bên là nếp thần kinh, giữa là rãnh thần kinh, sau cuộn lại thành ống thần  
kinh. Dần dần hai đầu trước và sau khép kín, sau đó phần đầu phát triển to ra  
thành não bộ, phần sau phát triển thành tuỷ sống. Hai bên lưng và bụng mở rộng  
tạo thành các mấu thần kinh và trở thành các đốt thần kinh.  
- Hệ thần kinh của cá gồm: thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên và  
hệ thần kinh thực vật. Đơn vị cấu tạo nên hệ thần kinh là tế bào thần kinh  
(neuron).  
1. Hệ thần kinh trung ương (central nervous system)  
Não bộ (encephalon) của cá: Giữa cá xương và cá sụn về cơ bản là giống  
nhau, chỉ khác là cá xương phát triển yếu hơn. Được chia ra làm 5 phần  
Não trước (prosencephalon): Gồm hai bán cầu não còn nhỏ, đáy có thể vân  
dày gồm nhiều tế bào thần kinh tập trung thành, nóc chỉ là biểu mô mỏng. Phía  
trước có hai thuỳ khứu giác. Não trước điều khiển sự hoạt động của khướu giác,  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 118 trang yennguyen 22/04/2022 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngư loại - Ngành: Nuôi trồng thủy sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_ngu_loai_nganh_nuoi_trong_thuy_san.pdf