Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC ĐẾN HIỆU QUẢ
NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) TRONG AO
TRÊN CÁT VỚI NGUỒN NƯỚC BIỂN VEN BỜ
EFFECTS OF THE USE PROBIOTICS TO EFFICIENCY OF CULTURED WHITE
LEGSHRIMP (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) IN PONDS ON THE SAND BY
COASTAL WATER
Lê Hữu Tình1, Lê Hồng Duyệt1, Võ Văn Nha2
1Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc
2Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III
Tác giả liên hệ: Võ Văn Nha (Email: nharia3@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 06/10/2020; Ngày phản biện thông qua: 15/10/2020; Ngày duyệt đăng: 14/11/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học để quản lý môi trường nước ao nuôi tôm chân trắng thâm canh
trong ao nuôi lót bạt bằng nước biển ven bờ được thực hiện tại khu sản xuất giống thủy sản công nghệ cao
của công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc (thôn 4 xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu). Hai thực nghiệm được tiến hành
với chế độ sử dụng chế phẩm sinh học khác nhau: Dùng hàng ngày, với liều 0,5 -1,0 g/m3 nước (tương đương
khoảng 2-4 kg/ao 4.800m3 nước); Dùng định kỳ: Tháng nuôi thứ nhất, 7 ngày/lần, liều lượng 2,0 g/m3 nước;
tháng nuôi thứ 2, 5 ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3 nước; tháng nuôi thứ 3, 3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3 nước.
Chế phẩm sinh học có chứa các dòng vi sinh vật chính đó là: Vi khuẩn Nitrosomonas sp., Nitrobacter sp. và
nấm Saccharomyces sp. Phân tích mẫu tôm và nước ao nuôi cho thấy, ở ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ,
mật số Vibrio ở mẫu tôm (từ 9,0 × 101 đến 3,9 × 102CFU/g) và ở mẫu nước (từ 5,0 × 101 đến 8,2 × 102CFU/
ml) là thấp hơn; các thông số môi trường như độ trong, pH, DO, NH3 và NO2- đều ổn định và nằm trong khoảng
ngưỡng cho phép so với ao dùng chế phẩm vi sinh hàng ngày. Kết quả sau 75-80 ngày nuôi, sản lượng tôm
thẻ chân trắng thu hoạch ở ao dùng chế phẩm sinh học định kỳ cao gấp 1,3 lần so với ao dùng chế phẩm sinh
học hàng ngày; hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) và cỡ tôm thu hoạch cũng lớn hơn tương ứng (FCR = 1,29 so
với FCR = 1,41; cỡ tôm thu hoạch đạt 64,3 con/kg so với 81,5 con/kg). Số lượng chế phẩm sinh học sử dụng ở
ao dùng định kỳ chỉ bằng 65,6% lượng chế phẩm sử dụng so với ao dùng hàng ngày. Điều đó cho thấy việc sử
dụng chế phẩm sinh học định kỳ hiệu quả hơn so với dùng hàng ngày.
Từ khóa: Tôm thẻ chân trắng, nước biển ven bờ, chế phẩm sinh học.
ABSTRACT
The study has used probiotics in water environment management of intensive whiteleg shrimp ponds
with canvas in coastal water at the high-tech aquatic seed production area of Dac Loc Aqua. Co., Ltd. (hamlet
4, Xuan Hai commune, Song Cau town). Two experiments were conducted with different the used mode of
probiotic: ponds using daily use of probiotics, 0.5 -1.0 g / m3 of water (equivalent to 2-4 kg / pond 4,800 m3
of water); ponds using probiotics periodically: The first month of farming, 7 days / times, the dose of 2.0 g /
m3 of water; 2nd farming month, 5 days / times, dose 3.0 g / m3 of water; 3rd farming month, 3 days / times,
dose 5.0 g / m3 of water. Probiotics have contained the main microoganisms strains: Bacteia Nitrosomonas sp.,
Nitrobacter sp. and the fungi Saccharomyces sp. Analysis of shrimp samples and ponds water showed that, in
ponds using probiotics periodically, Vibrio density in shrimp (from 9,0 × 101 to 3,9 × 102CFU/g) and water
samples (from 5,0 × 101 to 8,2 × 102CFU/ml) was lower, environmental parameters such as clarity, pH, DO,
NH3 and NO2- were stable and is within the permitted level compared to ponds using daily use of probiotics.
After 75-80 days, the yield of whiteleg shrimp harvested in ponds using probiotics periodically were 1.3 times
higher than in ponds using daily use of probiotics; the feed conversion ratio (FCR) and the havervested whiteleg
shrimp size (individual per kilogram) were also respectively lager (FCR=1.29 comparated to FCR=1.41;
94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
havervested whiteleg shrimp size = 64.3 inds./kg comparated to 81.5 inds./kg). The number of probiotics used
in ponds using probiotics periodically are only 65.6% of the amount of inoculants used in ponds using daily use
of probiotics. That has shown that the recurring probiotics use is more effective than daily use
Key words: White leg shrimp, coastal water, probiotics,.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
2. Thời gian và địa điểm triển khai
Nuôi tôm nước lợ ở Việt Nam nói chung và
các tỉnh miền Trung nói riêng trong những năm
gần đây có xu thế gia tăng về diện tích và sản
lượng, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng [1]. Các
bệnh trên tôm nước lợ gây thiệt hại đến người
nuôi tôm có thể kể đến là: bệnh hoại tử gan tụy
cấp, bệnh đốm trắng do WSSV, bệnh do vi bào từ
trùng EHP, bệnh phân trắng,…[1]. Việc sử dụng
chế phẩm, hóa chất và kháng sinh trong xử lý
môi trường, phòng và trị bệnh khá nhiều nhưng
hiệu quả chưa cao hoặc chưa được đánh giá đầy
đủ [1, 2]. Cách sử dụng như vậy, ngoài việc tăng
chi phí, vi khuẩn kháng thuốc khó phòng và trị,
còn để lại dư lượng hóa chất và kháng sinh ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, còn
gây nguy cơ ô nhiễm môi trường và rủi ro sức
khỏe với người lao động và người tiêu dùng. Do
vậy, việc hoàn thiện chế độ sử dụng chế phẩm
sinh học trong quản lý môi trường nước ao nuôi
tôm thẻ chân trắng trên cát bằng nước biển ven
bờ để kiểm soát được môi trường ao nuôi, giảm
chi phí sản xuất, hạn chế dịch bệnh làm cơ sở để
nhân rộng cho các vùng nuôi tôm trên cát dọc
ven biển miền Trung, mang lại hiệu quả kinh
tế cao trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh
là vấn đề cần thiết và thiết thực. Đây là một
phần nghiên cứu của dự án sản phẩm Quốc gia:
“Nghiên cứu hoàn thiện qui trình nuôi thương
phẩm tôm thẻ chân trắng trên cát bằng nước biển
ven bờ ở miền Trung đảm bảo an toàn thực phẩ
m và an toàn dịch bệnh” do Bộ NN&PTNT giao
Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc thực hiện từ
năm 2018-2020.
2.1. Thời gian thí nghiệm: đợt 1 từ tháng
7-10/2019; đợt 2 từ tháng 4-6/2020.
2.2. Địa điểm thực hiện:
Bộ phận nuôi tôm thực nghiệm (Khu II)
thuộc khu sản xuất giống công nghệ cao của
Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc (Thôn 4, xã
Xuân Hải, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên).
3. Phương pháp triển khai
3.1. Điều kiện thí nghiệm:
- Ao thí nghiệm: Các ao được lót bạt HDPE
(0,5 mm) ngăn chặn quá trình thoát nước.
- Nước ao nuôi: Nguồn nước đầu vào là nước
biển ven bờ tại khu sản xuất giống công nghệ
cao thuộc thôn 4, xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu,
tỉnh Phú Yên. Nước được đưa đến ao xử lý,
kiểm tra các thông số môi trường (độ mặn, nhiệt
độ, pH, độ kiềm), vi khuẩn (Vibrio tổng số, tổng
số vi khuẩn Vibrio có khuẩn lạc vàng, tổng số
Vibrio có khuẩn lạc xanh và vi khuẩn gây hoại tử
gan tụy cấp) trước khi đưa vào ao nuôi.
- Chọn và thả giống: Tôm thẻ chân trắng
hậu ấu trùng (PL15) được kiểm tra trạng thái
hoạt động, các chỉ tiêu về sức khỏe (các chỉ tiêu
vi khuẩn, vi rút và ký sinh trùng theo Thông
tư số 26/2016/TT-BNNPTNT) và không nhiễm
tác nhân gây bệnh trước khi thả nuôi. Mật độ
thả 253 con/m2 (935.000 PL/ao) – đợt 1; 230
con/m2 (850.000 PL/ao) – đợt 2.
- Chăm sóc quản lý và thu hoạch tôm nuôi:
Theo qui trình nuôi tôm thẻ chân trắng của
Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc.
3.2. Bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được tiến hành 2 đợt: đợt 1 triển
khai trên 2 ao (ao D5 - sử dụng chế phẩm sinh
học hàng ngày; ao D6 - sử dụng chế phẩm sinh
học định kỳ) có diện tích 3.700 m2/ao. Đợt 2
được triển khai trên 6 ao: sử dụng chế phẩm sinh
học định kỳ 3 ao (ao 3D2, 8D2 và 9D2); sử dụng
chế phẩm sinh học hằng ngày 3 ao (ao 10D2,
4D2 và 7D2). Ao có diện tích 3.700 m2/ao.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu
- Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) và môi trường nước ao nuôi.
- Chế phẩm sinh học có chứa các dòng vi
sinh vật chính: Nitrosomonas sp., Nitrobacter
sp. và Saccharomyces sp.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 95
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Chế phẩm sinh học sử dụng:
ở giữa ao), trộn đều, thu được 1.000ml mẫu chứa
trong chai vô trùng. Sau đó, mẫu được bảo quản
trong thùng có đá lạnh và được chuyển ngay về
phòng thí nghiệm để phân tích.
- Mẫu tôm: Được thu ngẫu nhiên (30 con)
tại mỗi ao nuôi. Sau khi vận chuyển đến phòng
thí nghiệm, khử trùng bề mặt tôm bằng cồn
70%, dùng kéo đã khử trùng lấy gan tụy nghiền
trong cối sứ vô trùng.
* Thành phần chính: Các vi sinh vật, vi
khuẩn Nitrosomonas sp., mật số 108 cfu/
ml; Nitrobacter sp., mật số 108 cfu/ml; Nấm
Saccharomyces sp., mật số 108 cfu/ml.
* Liều lượng và phương pháp sử dụng:
- 01 nghiệm thức (ao D5, 10D2, 4D2, 7D2)
sử dụng hàng ngày: 0,5 -1,0 g/m3.
- 01 nghiệm thức (ao D6, 3D2, 8D2, 9D2)
sử dụng định kỳ: tháng nuôi thứ nhất, 7 ngày/
lần, liều lượng 2,0 g/m3; tháng nuôi thứ 2, 5
ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3; tháng nuôi thứ
3, 3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3.
4.2. Phương pháp xác định vi khuẩn Vibrio
tổng số, Vibrio có khuẩn lạc vàng và Vibrio có
khuẩn lạc xanh trong mẫu tôm và mẫu nước
ao nuôi
3.3. Các thông số kiểm tra:
Trong quá trình nuôi, định kỳ kiểm tra các
thông số môi trường và bệnh, cụ thể:
Để phân lập Vibrio sp. từ các mẫu tôm và
nước ao nuôi tôm, 1g mẫu tôm nghiền nát hay
1ml mẫu nước được tiến hành pha loãng đến các
nồng độ pha loãng 10-1, 10-2, 10-3. Sau khi kết
thúc pha loãng, 100µl các dịch pha loãng được
cấy trải lên các đĩa petri chứa môi trường thạch
TCBS (Thiosulfate Citrate Bile Salt agar). Các
đĩa thạch được ủ ở 30ºC trong 48 giờ. Sau đó,
tiến hành đếm tổng số khuẩn lạc, số khuẩn lạc
có màu vàng và số khuẩn lạc có màu xanh lá
được ghi nhận ở mỗi đĩa. Tính trung bình số
lượng khuẩn lạc trên các đĩa thạch theo giá trị
pha loãng tương ứng.
+ Các thông số môi trường nước: nhiệt độ,
pH, DO ngày đo 2 lần; độ kiềm ngày đo 1 lần;
NO2-, NH3 và Vibrio tổng số 5 ngày/lần. Nước
ao nuôi được lấy, bảo quản và xử lý mẫu theo
TCVN 5994:1995 [4]; TCVN 6663-3:2016 [5].
+ Các chỉ tiêu bệnh trong mẫu tôm, nước
nuôi:Vi rút gây bệnh đốm trắng (WSSV), vi bào
tử trùng (EHP) và vi khuẩn V. parahaemolyticus
gây hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm. Tần suất
7 ngày/lần.
4. Phương pháp xác định vi khuẩn Vibrio
tổng số, Vibrio có khuẩn lạc vàng, xanh và
các chỉ tiêu bệnh (WSSV, EHP, AHPND)
trong mẫu tôm và mẫu nước ao nuôi
4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu
bệnh trong mẫu tôm, nước (WSSV, EHP và
V. parahaemolyticus gây AHPND): Sử dụng
kỹ thuật real time PCR trên máy Agilent
Technologies Stratagene Mx 3005 P.
4.1. Phương pháp lấy mẫu
5. Phương pháp xác định các yếu tố môi
trường ao nuôi
-
Mẫu nước: Bình thủy tinh 500 mL có nút
đậy đã khử trùng được dùng để thu mẫu, gắn bình
vào cây có thước đo độ dài, nút bình cột vào một
sợi dây, sau đó thả bình xuống tới độ sâu khoảng
1m rồi rút dây kéo nắp bình lên để cho nước tràn
vào bình. Thu nước ở 5 điểm (4 góc cạnh ao và
-
Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
nước ao nuôi được tiến hành như ở Bảng 1.
Đánh giá các thông số môi trường nước ao
nuôi tôm: Theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT [3].
-
Bảng 1. Thiết bị và thời điểm kiểm tra các thông số môi trường
STT
Yếu tố
Dụng cụ đo
Thời điểm đo (giờ)
Ghi chú
Đo hàng ngày
5 ngày/lần
Máy đo đa chỉ tiêu U52 (độ chính xác
lần lượt là ±0,30C; ±0,1; ±0,2mg/l)
1
Nhiệt độ, pH, DO
6 và 14
6
2
3
4
Độ mặn
Khúc xạ kế (độ chính xác ±2‰)
Đĩa Secchi (độ chính xác ±1cm)
Máy DR 3900
Độ trong
NH3, NO2—N
14
5 ngày/lần
96 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
6. Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng,
hệ số chuyển đổi thức ăn, tổng khối lượng và
tỷ lệ sống của tôm nuôi
- Xác định tốc độ tăng trưởng hàng ngày
(Daily Grouth Rate-DGR):
7. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel 7.0 để xử lý các số
liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
Các số liệu so sánh thống kê được phân tích
trên công cụ F-Test Two-Sample for Variances
và t-Test Two-SampleAsuming Unequal/Equal
Variances, với mức ý nghĩa 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong đó: DGR - Tốc độ tăng trưởng ngày
(g/con/ngày); We: Khối lượng tôm trung bình
lần kiểm tra sau (g/con); Ws- Khối lượng
tôm trung bình lần kiểm tra trước (g/con);
(Te-Ts)- Khoảng thời gian giữa 2 lần kiểm
tra (ngày).
1. Kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng chế
phẩm sinh học định kỳ và hàng ngày trong
quản lý chất lượng môi trường nước ao nuôi
tôm chân trắng trên cát bằng nước biển ven bờ
1.1 . Kết quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật
trong tôm và môi trường nước ao nuôi
- Xác định hệ số chuyển đổi thức ăn – FCR:
FCR = G/W
Kết quả từ hình 1, hình 2, hình 3 và hình 4
cho thấy, ở các ao sử dụng định kỳ chế phẩm
sinh học mật số vi khuẩn Vibrio tổng số dao động
từ 9,0 x 101 đến 3,9 x 102 CFU/g (ở tôm) và 5,0 x
101 đến 8,2 x 102 CFU/ml (ở nước ao nuôi). Mật
số này thấp hơn so với các ao sử dụng chế phẩm
sinh học hàng ngày với Vibrio tổng số dao động
từ 1,8 x 102 đến 2,2 x 103 CFU/g (ở tôm) và 5,0
x 101 đến 3,5 x 103 CFU/g (ở nước ao nuôi). Số
lượng Vibrio có khuẩn lạc màu xanh và Vibrio
có khuẩn lạc màu vàng trên môi trường TCBS ở
các mẫu nước các ao sử dụng định kỳ chế phẩm
sinh học đều thấp hơn so với các ao dùng chế
phẩm sinh học hàng ngày.
Trong đó: FCR - Hệ số thức ăn; G - Tổng
khối lượng thức ăn đã sử dụng trong vụ nuôi;
W - Tổng khối lượng tôm thu hoạch.
- Khối lượng tôm thu hoạch (kg): dùng cân
đĩa (loại 100 kg), sai số d = 0,1, cân tất cả số
tôm thu hoạch được.
- Tỷ lệ sống – T (%): [số lượng tôm thu
được cuối vụ nuôi (con) / số lượng tôm thả ban
đầu (con) ] x 100.
Số lượng tôm ở cuối vụ (con) = số lượng
tôm tính được trên 1kg x tổng khối lượng tôm
thu hoạch (kg).
Hình 1: Mật độ vi khuẩn vàng trong nước ở hai
chế độ sử dụng chế phẩm sinh học.
Hình 2: Mật độ vi khuẩn xanh trong nước ở hai
chế độ sử dụng chế phẩm sinh học.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 97
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Hình 3: Mật độ vi khuẩn vàng trên tôm ở hai
chế độ dùng chế phẩm sinh học khác nhau.
Hình 4: Mật độ vi khuẩn xanh trên tôm ở hai
chế độ dùng chế phẩm sinh học khác nhau.
Ngoài ra, kết quả kiểm tra định kỳ (7
ngày/lần trong các mẫu nước các ao sử
dụng chế phẩm sinh học hàng ngày và định
kỳ) các tác nhân gây bệnh đốm trắng do
WSSV, bệnh còi do EHP và bệnh gan tụy
cấp do V. parahaemolyticus mang gen pirA/
pirB bằng kỹ thuật real time PCR đều cho
kết quả âm tính.
30-32‰ là phù hợp cho sự sinh trưởng của
tôm nuôi.
1.2.1. Giá trị pH:
Kết quả từ hình 6 cho thấy, chỉ số pH của
các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày
ít ổn định, tuy pH dao động trong ngày chưa
vượt quá 0,5, và không có dấu hiệu giảm dần
theo thời gian nuôi. Khi so sánh với kết quả từ
hình 5, pH ở các ao sử dụng định kỳ chế phẩm
sinh học có biên độ dao đông giữa buổi sáng và
buổi chiều không cao từ 0,2 – 0,5. Giá trị pH
giảm dần và ổn định theo thời gian nuôi một
cách rõ rệt.
1.2. Kết quả theo dõi các yếu tố thủy lý, hóa
môi trường nước ao nuôi
Ở các ao nuôi trong suốt thời gian thí
nghiệm, các thông số môi trường nước như:
nhiệt độ dao động từ 29 – 32,5ºC, độ mặn từ
Hình 5: pH trong các ao sử dụng chế phấm
sinh học định kỳ.
Hình 6: pH trong các ao sử dụng chế phẩm
sinh học hàng ngày.
98 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
1.2.2. Giá trị ô xy hòa tan trong nước (DO):
Hàm lượng ô xy trong nước các ao sử dụng
chế phẩm sinh học hàng ngày và định kỳ luôn
được duy trì ổn định, dao động từ 3,5 - 6,0
ppm (Hình 9, 10). Tuy nhiên ở các ao sử dụng
chế phẩm sinh học hàng ngày, hàm lượng ô xy
trong nước ở một số thời điểm xuống khá thấp
vào buổi sáng, có thời điểm chỉ đạt 3,5 ppm,
làm cho tôm giảm ăn, chậm lớn. Hàm lượng ô
xy trong nước bị ảnh hưởng bởi do sự hô hấp
và quang hợp của tảo gây nên. Ngoài ra, còn do
chế độ quạt nước, quá trình lên men, phân hủy
các chất hữu cơ đáy. Điều này chứng tỏ chất
lượng nước của các ao sử dụng chế phẩm sinh
học hàng ngày và định kỳ khá ổn định khi sử
dụng chế phẩm phẩm sinh học.
Hình 7: Oxy trong các ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ.
Hình 8: Oxy trong các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 99
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
1.2.3. Độ trong:
1.2.4. NH3 và NO2-:
Độ trong của nước ao nuôi thể hiện cho mật
độ phát triển của tảo và hàm lượng chất hữu cơ
lơ lửng trong nước. Các ao sử dụng chế phẩm
sinh học định kỳ kể từ ngày nuôi thứ 10 trở đi,
độ trong của nước luôn ổn định trong khoảng 25
– 35 cm (hình 9), điều này cho thấy tảo phát triển
ổn định và mật độ vừa phải, phù hợp cho môi
trường nước cho tôm sinh trưởng và phát triển.
Ở các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày,
độ trong ít ổn định hơn, ở ngày nuôi thứ 35 – 65
độ trong nước là 15 - 25 cm (hình 9), chứng tỏ
giai đoạn này mật độ tảo phát triển dày đặc, nước
đậm màu và rất dễ bị tàn tảo, đây là điều kiện
môi trường không tốt cho sự phát triển của tôm.
Khí độc NH3 ở các sử dụng chế phẩm sinh
học hàng ngày và định kỳ biến động theo thời
gian nuôi (hình 10). Tuy nhiên, ở các ao sử dụng
chế phẩm sinh học hàng ngày, hàm lượng NH3
trong ao vượt ngưỡng cho phép (0,3 ppm) ở hầu
hết các đợt thu mẫu phân tích, nguy cơ gây độc
và làm chết tôm nếu không có biện pháp xử lý kịp
thời. Hàm lượng NH3 trong ao tăng cao chứng tỏ
rằng hệ thống không cân bằng, là đặc điểm của
ao chứa nhiều chất hữu cơ lắng đọng. Trong khi
đó, các ao sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ
mặc dù hàm lượng NH3 trong ao vẫn có, nhưng
nồng độ thấp hơn, nằm trong giới hạn cho phép
không ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe tôm nuôi.
Hình 9: Biểu đồ độ trong ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
Hình 10: Biểu đồ NH3 ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
100 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Hình 11: Biểu NO2- trong ở 2 chế độ dùng chế phẩm sinh học.
-
Tương tự như khí độc NH3, NO2 là hệ quả
sử dụng chế phẩm sinh học hằng ngày (0,5 -1,0
g/m3). Kích cỡ tôm thu hoạch tương ứng trung
bình 64,3 con/kg so với 81,5 con/kg; tốc độ sinh
trưởng DGR = 0,198 g/con/ngày so với 0,158 g/
con/ngày (Bảng 2) và sự sai khác này có ý nghĩa
thống kê (Pone-tail = 0,019<0,05 tương tự nhau ở
2 chỉ tiêu). Sản lượng tôm thu hoạch ở các ao
dùng chế phẩm sinh học định kỳ cao gấp 1,3 lần
so với các ao dùng hàng ngày (Hình 2, Bảng 2).
Tuy nhiên, ở ao sử dụng chế phẩm sinh học định
kỳ, tỷ lệ sống của tôm có cao hơn (84,75% so
với 82,40%), nhưng sự sai khác này không có ý
nghĩa thống kê (PTwo-tail = 0,392>0,05 - Bảng 2).
Ngoài ra, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)
và lượng chế phẩm sinh học sử dụng ở các
ao dùng định kỳ cũng thấp hơn so với các
ao dùng hàng ngày. Giá trị FCR=1,29 so với
FCR=1,41; lượng chế phẩm 222,5 kg so với
339,4 kg (Bảng 2) và sự khác biệt này cũng
có ý nghĩa thống kê (Pone-tail = 0,016<0,05 và
Pone-tail = 0,0019<0,05 tương ứng). Lượng chế
phẩm sinh học sử dụng ở các ao dùng định
kỳ chỉ bằng 65,6% lượng chế phẩm sử dụng
ở các ao dùng hàng ngày (Bảng 2). Mật số vi
khuẩn Vibrio spp. có khuẩn lạc màu xanh và
Vibrio spp. có khuẩn lạc màu vàng trên môi
trường TCBS ở các mẫu tôm thu từ các ao sử
dụng chế phẩm sinh học định kỳ thấp hơn so
với các ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng
ngày (Hình 3 và Hình 4).
của việc hàm lượng chất hữu cơ tồn đọng
trong ao cao, mật độ tảo phát triển dày. Các
ao sử dụng chế phẩm sinh học hàng ngày,
hàm lượng NO2 trong nước ao nuôi biến
động khá mạnh, hơn nhiều lần so với ao sử
dụng chế phẩm sinh học định kỳ (hình 11).
-
-
Hàm lượng khí độc NO2 thấp, không vượt
quá 0,2 ppm trong suốt quá trình nuôi ở ao
sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ, điều này
cho thấy hàm lượng chất hữu cơ trong nước
ở các ao này được kiểm soát triệt để không bị
tồn dư quá nhiều.
2. Kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng chế
phẩm sinh học định kỳ và hàng ngày thông
qua sinh trưởng, sản lượng tôm nuôi và hệ
số chuyển đổi thức ăn
Sau khi chọn được giống có kết quả âm tính
bằng kỹ thuật real time PCR đối với vi khuẩn
gây hoại tử gan tụy cấp, vi bào tử trùng EHP, các
vi rút: WSSV, IHHNV, YHV, IMNV, TSV theo
thông tư số 26/2016/TT-BNNPTNT, tôm được
nuôi đến ngày thứ 75 (đợt 1) và nuôi đến ngày
thứ 80 (đợt 2). Kết quả cho thấy, sau 75-80 ngày
nuôi, kích cỡ tôm thu hoạch và sinh trưởng hàng
ngày của tôm ở các ao sử dụng chế phẩm sinh
học định kỳ (tháng nuôi thứ nhất, dùng 7 ngày/
lần, liều lượng 2,0 g/m3; tháng nuôi thứ 2, 5
ngày/lần, liều lượng 3,0 g/m3; tháng nuôi thứ 3,
3 ngày/lần, liều lượng 5,0 g/m3) lớn hơn các ao
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 101
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Hình 12: Sinh trưởng của tôm ở hai chế độ
sử dụng chế phẩm sinh học.
Hình 13: Tỉ lệ sống của tôm ở hai chế độ
sử dụng chế phẩm sinh học.
Bảng 2. Một số thông số kết quả thử nghiệm ở hai nghiệm thức sử dụng chế phẩm sinh học
định kỳ và hàng ngày
Sử dụng chế phẩm sinh học
hằng ngày (các ao D5, 10D2, định kỳ (các ao D6, 3D2, 8D2,
4D2 và 7D2) 9D2)
Sử dụng chế phẩm sinh học
Đơn vị
tính
Miêu tả
Dao động
Trung bình
Dao động
3.700
Trung bình
m2/ao
Con/m2
Con/kg
Ngày
%
3.700
Diện tích
230 - 253
66 - 90
230 - 253
57 - 75
Mật độ
81,5a±10, 63
64,3b ± 7, 63
Cỡ tôm thu hoạch
Thời gian nuôi
Tỉ lệ sống
FCR
75 - 80
75 - 80
78,6 – 89,0
1,33 – 1,46
0,14 – 0,19
82,40a±4,615
1,41a ±0,059
0,158a±0,022
84,0 – 86,0
1,2 – 1,36
0,17 – 0,22
84,75a ±0,957
1,29b ± 0,067
0,198b ± 0,021
g/con/ngày
Kg
DGR
Lượng CPSH sử
dụng
277,5 - 360
339,38a±41,25
177,6 243,7
222,53b±30,27
Tấn
7,744 – 11,462
8,964a± 1,721 10,472 – 12,825 11,570b± 0,965
Sản lượng
Ghi chú: Các giá trị trên cùng 1 hàng có chữ cái khác nhau chỉ sự sai khác có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Chế phẩm sinh học có bản chất là các vi
khuẩn có lợi cho người và vật nuôi đã được
sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản
nói chung và nuôi tôm nói riêng. Cơ chế hoạt
động của các chế phẩm sinh học bao gồm: (i)
có tác dụng ức chế các tác nhân gây bệnh; (ii)
cải thiện hệ vi khuẩn đường ruột của vật nuôi;
(iii) cạnh tranh nguồn thức ăn và vị trí gắn
trên đường ruột; (iv) cải thiện các chức năng
tiêu hóa; (v) kích hoạt hệ miễn dịch và (vi) cải
thiện chất lượng nước [9]. Balcazar và cộng
sự (2007) [7] đã sử dụng chế phẩm sinh học
mang chủng B. subtilis UTM 126 cho tôm thẻ
chân trắng giai đoạn giống với nồng độ 105
cfu/g trong 28 ngày cho thấy tỷ lệ chết của
tôm giảm 2,84 lần, từ 51,75% xuống 18,25%
khi cảm nhiễm chủ động chủng V. harveyi
TR51 ở nồng độ 105 cfu/ml trong 24 giờ [7].
Nghiên cứu của Khuất Hữu Thanh và cộng sự
(2009) [6] cũng cho thấy, chế phẩm sinh học
với các thành phần: Bacillus, vi khuẩn sinh
lactic được sử dụng định kỳ trong các ao nuôi
102 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
tôm sú thâm canh qua 120 ngày nuôi cho tăng
trọng của tôm 13% và tỷ lệ sống tăng 15% so
với đối chứng [6]. Các nghiên cứu gần đây sử
dụng các probiotic mang chủng Lactobacillus
sp., Pseudoalteromonas spp. và Bacillus sp.
cho phép cải thiện tỷ lệ sống của tôm thẻ chân
trắng khi được cảm nhiễm bằng các chủng V.
parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy
cấp [8,9]. Như vậy, có thể thấy rằng việc bổ
sung probiotic định kỳ của chúng tôi trên tôm
thẻ chân trắng nuôi thâm canh trong ao lót bạt
cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước. Từ những kết
quả và phân tích nêu trên, có thể nhận định
rằng việc sử dụng định kỳ chế phẩm sinh học
với 7 ngày/lần (liều lượng 2,0 g/m3) ở tháng
nuôi thứ nhất; 5 ngày/lần (liều lượng 3,0 g/
m3) ở tháng nuôi thứ 2; 3 ngày/lần (liều lượng
5,0 g/m3 nước) ở tháng nuôi thứ 3 cho hiệu
quả sử dụng tốt hơn so với việc sử dụng chế
phẩm sinh học tương tự hàng ngày với liều
lượng 0,5 -1,0 g/m3 nước.
Sử dụng định kỳ chế phẩm sinh học có
các thành phần chính gồm: Nitrosomonas sp.,
Nitrobacter sp. và nấm Saccharomyces sp., với 7
ngày/lần (liều lượng 2,0 g/m3 nước) ở tháng nuôi
thứ nhất; 5 ngày/lần (liều lượng 3,0 g/m3 nước) ở
tháng nuôi thứ 2; 3 ngày/lần (liều lượng 5,0 g/m3
nước) ở tháng nuôi thứ 3 cho hiệu quả ổn định
môi trường tốt hơn, hiệu quả nuôi (hệ số chuyển
đổi thức ăn FCR, sinh trưởng, sản lượng và năng
suất tôm thu hoạch) cao hơn so với việc sử dụng
chế phẩm sinh học tương tự hàng ngày với liều
lượng 0,5 -1,0 g/m3 nước. Lượng chế phẩm sinh
học định kỳ dùng chỉ bằng 65,6% so với lượng
chế phẩm cùng loại sử dụng hàng ngày, nhưng
cho sản lượng thu hoạch tăng gấp 1,3 lần.
2. Kiến nghị
Người nuôi tôm có thể dùng chế định kỳ
chế phẩm sinh học định kỳ nhằm mang lại hiệu
quả tốt trong nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát
bằng nước biển ven bờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phan Thanh Lâm, Nguyễn Văn Phụng, Đoàn Văn Bảy, Đỗ Văn Hoàng, Thới Ngọc Bảo (2019), Hiện trạng sử
dụng giống, thức ăn, hóa chất, kháng sinh và các giải pháp kỹ thuật đang áp dụng trong nuôi thâm canh tôm sú,
tôm thẻ chân trắng ở Đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo tại Hội nghị “Nâng cao giá trị tôm Việt Nam thông
qua đổi mới công nghệ sản xuất”, tháng 11/2019, Cần Thơ.
2. Lê Hồng Phước, Nguyễn Diễm Thư, Hứa Ngọc Phúc, Phạm Thị Yến (2018), Kỷ yếu hội nghị Khoa học và
Công nghệ chuyên ngành Thủy sản giai đoạn 2013-2018, Bộ NN&PTNT. Nhà xuất bản Thanh niên, ISBN:
978-604-970-360-7, Hà Nội, trang 356-363.
3. QCVN 02-19:2014/BNNPTNT - Qui chuẩn kỹ thuật Quốc gia về cơ sở nuôi tôm nước lợ - Điều kiện đảm
bảo vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm.
4. TCVN 5994:1995 (ISO 5667/4: 1987) –Tiêu chuẩn Việt Nam về chất lượng nước – lấy mẫu - hướng dẫn lấy
mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.
5. TCVN 6663-3:2016 (ISO 5667-3:2012) - Tiêu chuẩn quốc gia về Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 3: Bảo
quản và xử lý mẫu nước.
6. Khuất Hữu Thanh, Nguyễn Đăng Phúc Hải, Bùi Văn Đạt, Võ Văn Nha (2009), Phân lập và tuyển chọn một
số chủng vi khuẩn có đặc tính Probiotic trong tạo chế phẩm nuôi tôm sú. Tạp chí KH&CN các trường Đại học
Kỹ thuật, số 74-2009. ISSN 0868-3980, Hà Nội, trang 113-116.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 103
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Tiếng Anh
7. Balcazar J. L. and Tyrone R. L. (2007), Inhibitory activity of probiotic Bacillus subtilis UTM 126
against Vibrio species confersprotection against Vibriosis in juvenile shrimp (Litopenaeus vannamei). Curr.
Microbiol.,55: 409-412.
8. Taylor D., StevensA., Choi M., Drahos D., D'Imperio S., Smith S., Heffron J., & Kuhn D. (2017), Direct-Fed
Probiotics Improve Survival in Shrimp, Litopenaeus vannamei, Under AHPND/EMS Challenge.
9. Wang H., Wang C., Tang Y., Sun B., Huang J., & Song X. (2018), Pseudoalteromonas probiotics as potential
biocontrol agents improve the survival of Penaeus vannamei challenged with acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND)-causing V.parahaemolyticus. Aquaculture, 494, p.30-36.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Tổng cục Thủy sản - Bộ NN&PTNT, tập thể cán bộ Công ty TNHH Thủy sản Đắc
Lộc, các cán bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III tham gia thực hiên dự án đã hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời
về chuyên môn và kinh phí cần thiết để chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
104 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chế độ sử dụng chế phẩm sinh học đến hiệu quả nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) trong ao trên cát với nguồn nước biển ven bờ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- anh_huong_cua_che_do_su_dung_che_pham_sinh_hoc_den_hieu_qua.pdf