Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian biến tính nhiệt đến khối lượng thể tích và màu sắc của gỗ Thông ba lá (Pinus kesiya) và gỗ Bạch tùng (Dacrycarpus imbricatus)

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
35  
Effects of temperature and time of thermal modification on density and colour of  
Pinus insularis and Dacrycarpus imbricatus wood  
Hoa V. Hoang1, Dung T. T. Ho1, & Boi D. Dang2  
1Research Center for Wood and Paper Technology, Nong Lam University, Ho Chi Minh City, Vietnam  
2Ho Chi Minh City Foresty Association, Ho Chi Minh City, Vietnam  
ARTICLE INFO  
ABSTRACT  
Research Paper  
The Pinus kesiya and Podocarp (Dacrycarpus imbricatus) woods  
were obtained from the plantations of the Southeast region of  
Vietnam, with the initial humidity of 80 - 85%. The wood was cut  
into boards with dimensions of 40 x 80 mm to 120 x 500 mm. In  
this study, the Pinus kesiya and Podocarp woods were thermally  
treated at with high temperatures ranging from 161oC to 218oC  
and the duration from 7.5 h to 13 h. The experiment results  
showed that the oven-dry density of pine and Bach tung tended  
to decrease when it was treated at high temperatures during long  
periods of time. In particular, the density of Pinus kesiya and  
Podocarp woods decreased about 3.17 - 17.3% and 3.45 - 20.73%,  
respectively, compared with the control samples. In the thermal  
modification process, under the effects of high temperature Pinus  
kesiya and Podocarp woods became darker than the modified  
wood.  
Received: August 07, 2020  
Revised: September 30, 2020  
Accepted: October 23, 2020  
Keywords  
Colour  
Dacrycarpus imbricatus  
Density  
Pinus kesiya  
Thermal modification  
Corresponding author  
Hoang Van Hoa  
Email: hoangvanhoa@hcmuaf.edu.vn  
Cited as: Hoang, H. V., Ho, D. T. T., & Dang, B. D. (2020). Effects of temperature and time of  
thermal modification on density and colour of Pinus insularis and Dacrycarpus imbricatus wood.  
The Journal of Agriculture and Development 19(5), 35-45.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
36  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian biến tính nhiệt đến khối lượng thể tích và màu  
sắc của gỗ Thông ba lá (Pinus kesiya) và gỗ Bạch tùng (Dacrycarpus imbricatus)  
Hoàng Văn Hòa1, Hồ Thị Thùy Dung1 & Đặng Đình Bôi2  
1Trung Tâm Nghiên Cứu Chế Biến Lâm Sản, Giấy và Bột Giấy, Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM,  
TP. Hồ Chí Minh  
2Hiệp Hội Khoa Học Lâm Nghiệp TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh  
TÓM TẮT  
THÔNG TIN BÀI BÁO  
Bài báo khoa học  
Gỗ Thông ba lá và Bạch tùng thí nghiệm được lấy từ rừng trồng  
miền Đông Nam Bộ, độ ẩm ban đầu khoảng 80 – 85%. Gỗ được  
gia công mẫu với quy cách dày x rộng x dài là 40 mm x (80 - 120)  
mm x 500 mm. Gỗ được đưa vào xử lý biến tính nhiệt với nhiệt  
độ từ 161oC đến 218oC và thời gian biến tính biến động từ 7,5 -  
13 giờ.  
Ngày nhận: 07/08/2020  
Ngày chỉnh sửa: 30/09/2020  
Ngày chấp nhận: 23/10/2020  
Kết quả nghiên cứu cho thấy khối lượng thể tích khô kiệt của gỗ  
Thông ba lá và gỗ Bạch tùng đều có xu hướng giảm khi được xử  
lý ở nhiệt độ cao và thời gian dài. Trong đó, khối lượng thể tích  
của gỗ Thông ba lá và Bạch tùng giảm trong khoảng lần lượt là  
3,17 – 17,3% và 3,45 – 20,73% so với gỗ không xử lý. Trong quá  
trình biến tính nhiệt, dưới tác dụng của nhiệt độ cao đã làm cho  
gỗ Thông ba lá và Bạch tùng có màu sắc sẫm hơn.  
Từ khóa  
Biến tính nhiệt  
Gỗ Bạch tùng  
Gỗ Thông ba lá  
Khối lượng thể tích  
Màu sắc  
Tác giả liên hệ  
Hoàng Văn Hòa  
Email: hoangvanhoa@hcmuaf.edu.vn  
1. Đặt Vn Đề  
hoặc dùng các giải pháp vật lý để xử lý cải thiện  
chất lượng gỗ. Trong các giải pháp đó, biến tính  
Hiện nay, gỗ từ rừng có tuổi sinh trưởng dài nhiệt hay xử lý nhiệt độ cao đã được áp dụng và  
ngày càng khan hiếm. Đa số nguyên liệu gỗ sử đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Gỗ biến tính  
dụng trong sản xuất đồ mộc và xây dựng đều nhiệt đã được nhiều quốc gia trên thế giới sản  
được lấy từ rừng có tuổi sinh trưởng thấp. Gỗ từ xuất với quy mô công nghiệp (Hill, 2006).  
các loài cây mọc nhanh và thời gian sinh trưởng  
ngắn này thường có tỉ lệ gỗ tuổi non cao, và có  
nhiều nhược điểm như: dễ biến màu, dễ mục,  
kích thước không ổn định khi sử dụng,. . . Những  
nhược điểm này đã làm cho việc sản xuất sản  
phẩm gỗ gặp không ít khó khăn, thậm chí đang  
làm hạn chế phạm vi ứng dụng của gỗ. Vì vậy,  
việc nghiên cứu một giải pháp phù hợp để xử lý  
nâng cao chất lượng các loại gỗ này là vấn đề  
rất cần thiết. Những năm qua, trên thế giới cũng  
như trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu  
được công bố như: sử dụng hoá chất để xử lý gỗ,  
Việc dùng nhiệt để biến tính gỗ không phải  
phương pháp mới. Thậm chí từ năm 1920, Tie-  
mann đã chỉ ra, khi sấy gỗ ở nhiệt độ cao không  
những làm giảm độ ẩm thăng bằng mà còn giảm  
cả độ dãn nở của gỗ. Đến năm 1937, Stamm &  
Hansen cho biết độ ẩm thăng bằng, độ co rút và  
dãn nở của gỗ đều giảm khi xử lý trong nhiều  
môi trường khác nhau. Điển hình như năm 1973,  
Rusche đã tiến hành biến tính nhiệt gỗ Thông  
ba lá và Beech cho biết modul đàn hồi giảm có  
ý nghĩa khi độ tổn hao khối lượng trên 8%, độ  
bền nén giảm 20% ở mức tổn hao khối lượng 1%,  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
37  
Bảng 1. Miền thực nghiệm cho phương án quay bậc 2 Box – Hunter  
Giá trị thực của các thông số  
X1 (T) X2 (t)  
Nhiệt độ (oC) Thời gian (giờ)  
Mức và khoảng biến thiên Giá trị mã hóa  
Mức sao trên (*)  
Mức trên  
Mức cơ sở  
Mức dưới  
Mức sao dưới (**)  
Khoảng biến thiên  
+α  
+1  
0
-1  
-α  
218  
210  
190  
170  
161  
20  
13  
12  
10  
8
7,5  
2
nhưng sau đó đã tăng đến 80% khi mức tổn hao nghệ xử lý phù hợp cho hai loài gỗ Thông ba lá  
khối lượng khoảng 10%. Trong khi đó, độ bền kéo và Bạch tùng.  
thay đổi không có ý nghĩa trong phạm vi mức tổn  
hao khối lượng nhỏ hơn 10%, nhưng sau đó thì 2. Vt Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu  
tăng mạnh. Kết quả này tương tự khi Bengts-  
2.1. Vt liệu  
son & ctv. (2002) thực hiện nghiên cứu xử lý  
thủy nhiệt gỗ Thông và Spruce với kích thước  
lớn (45 x 145 x 4,500 mm) ở nhiệt độ 220oC.  
Đến năm 2008, Bruno & ctv. biến tính nhiệt gỗ  
Thông (Pine) trong lò từ 2 giờ đến 24 giờ, nhiệt  
độ 170 - 200oC cũng đã đưa ra kết luận: độ tổn  
hao khối lượng tăng theo thời gian và nhiệt độ xử  
lý, hiệu quả chống giãn nở tăng 35%, độ bền uốn  
và modul đàn hồi giảm khi nhiệt độ và thời gian  
xử lý tăng. Do đó, gỗ biến tính nhiệt đạt được  
độ ổn định về kích thước, khả năng chống nấm,  
côn trùng và giảm khả năng hút ẩm (hygrocop-  
icity). Ngoài ra, độ dẻo dai (toughness), độ bền  
uốn tĩnh (MOR) và tính chống mài mòn của gỗ  
cũng giảm. Quá trình biến tính cũng góp phần  
làm sẫm màu gỗ. Biến tính nhiệt xảy ra khi nhiệt  
độ lớn hơn 180oC và nhỏ hơn 260oC. Nhiệt độ  
trên 300oC không được tiến hành vì tính chất gỗ  
biến đổi quá nhiều. Các nghiên cứu sau đó của  
Hamiyet (2010), Vasiliki & ctv. (2014), Vasiliki  
& Panagiotis (2015) về biến tính nhiệt gỗ Thông  
cũng đưa ra những kết quả tương tự như trên.  
Gỗ Thông ba lá và gỗ Bạch tùng thí nghiệm  
được lấy từ rừng trồng miền Đông Nam Bộ, gỗ  
tươi sau khi chặt hạ, tiến hành gia công xẻ ngay,  
độ ẩm khoảng 80 - 85%. Gỗ được gia công mẫu  
với quy cách dày x rộng x dài là 40 mm x (80 -  
120) mm x 500 (mm).  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
2.2.1. Các thông số đầu vào và đầu ra của thí  
nghiệm  
Căn cứ các kết quả nghiên cứu thăm dò của  
nhóm tác giả cũng như kết quả nghiên cứu trước  
đây, nghiên cứu đã tiến hành lựa chọn thông số  
thí nghiệm như sau:  
Nhóm các yếu tố đầu vào: Các thông số đầu  
gồm có nhiệt độ và thời gian. Trong đó, nhiệt độ  
biến động trong khoảng 161 - 218oC và thời gian  
biến động trong khoảng 7,5 - 13 giờ.  
Nhóm các yếu tố đầu ra: Thông số đầu ra được  
chọn để đánh giá là khối lượng thể tích khô kiệt  
và màu sắc gỗ tương ứng với từng chế độ biến  
tính.  
Gỗ Thông ba lá (Pinus kesiya) và gỗ Bạch tùng  
(Dacrycarpus imbricatus) là hai loài gỗ khá đặc  
trưng của khu vực phía Nam Việt Nam, với trữ  
lượng lớn. Hiện tại, hai loài gỗ này đang được  
sử dụng nhiều trong sản xuất đồ gỗ thông dụng.  
Tuy nhiên, nếu không qua xử lý, các loài gỗ này  
vẫn tồn tại những nhược điểm cố hữu của gỗ rừng  
trồng nói chung.  
2.2.2. Phương pháp quy hoạch thực nghiệm  
Trong nghiên cứu đã chọn phương án quy  
hoạch thực nghiệm bậc 2 bất biến quay của Box  
và Hunter để nghiên cứu các yếu tố công nghệ.  
Căn cứ lý thuyết tổng hợp được và kết quả thí  
nghiệm thăm dò, miền thực nghiệm được lập như  
Bảng 1.  
Nghiên cứu này, áp dụng phương pháp biến  
tính nhiệt để tiến hành xử lý và đánh giá ảnh  
hưởng của điều kiện xử lý đến khối lượng thể tích  
và màu sắc của gỗ Thông ba lá và Bạch tùng, trên  
cơ sở đó làm căn cứ để lựa chọn thông số công  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
38  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Hình 1. Đồ thị biểu diễn quá trình biến tính thí nghiệm.  
2.2.3. Phương pháp xử lý biến tính  
a0, b0, l0: Chiều dày, chiều rộng, chiều dài mẫu  
đo ở trạng thái khô kiệt, đơn vị là cm.  
m0: Khối lượng mẫu ở trạng thái khô kiệt, đơn  
vị là g.  
Quá trình xử lý biến tính (ThermoWood  
2003) được tóm tắt như sau:  
,
Giai đoạn 1: Tăng nhiệt độ và sấy ở nhiệt độ  
cao. Giai đoạn này tăng nhiệt độ nhanh từ 35oC  
đến 100oC, sau đó tăng nhiệt độ chậm đến 135oC.  
Tổng thời gian thực hiện giai đoạn sấy nhiệt độ  
cao này là 6 giờ.  
2.2.5. Phương pháp biểu thị và đo màu sắc của gỗ  
Các chỉ số màu sắc của gỗ Thông ba lá và Bạch  
tùng trong hệ thống màu CIELab (1976) được  
tính như sau:  
L= Lht - Lo  
a= aht - ao  
Giai đoạn 2: Biến tính. Tiếp tục tăng nhiệt độ  
lên đến nhiệt độ cần xử lý và duy trì thời gian  
theo kế hoạch thực nghiệm (Bảng 1).  
b= bht - bo  
E = L+ ∆a+ ∆b∗  
Giai đoạn 3: Điều hòa và làm nguội gỗ.  
p
2
2
2
Tiến trình biến tính gỗ được thực hiện như sơ  
đồ Hình 1.  
Trong đó:  
Lo: Độ sáng màu của mẫu không xử lý.  
Lht: Độ sáng màu của mẫu sau xử lý.  
ao: Chỉ số acủa mẫu không xử lý.  
aht: Chỉ số acủa mẫu sau xử lý.  
bo: Chỉ số bcủa mẫu không xử lý.  
bht: Chỉ số bcủa mẫu sau xử lý.  
E: Độ lệch màu sắc của các màu sắc.  
2.2.4. Phương pháp xác định khối lượng thể tích  
khô kiệt  
Mẫu xác định khối lượng thể tích khô kiệt có  
kích thước 20 x 20 x 30 (mm) (VNS, 2009). Khối  
lượng thể tích khô kiệt của gỗ được tính theo công  
thức sau:  
m0  
ρ =  
a0 × b0 × l0  
Các chỉ số L, a, bđược đo bằng máy đo màu  
sắc, đo trên ít nhất 3 điểm của mẫu gỗ Thông ba  
lá và gỗ Bạch Tùng để xác định giá trị trung bình,  
Trong đó:  
ρ: Khối lượng thể tích khô kiệt, đơn vị là g/cm3. sau đó tính các chỉ số màu theo công thức trên.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
39  
Hình 2. Quan hệ giữa khối lượng thể tích khô kiệt gỗ Thông ba lá và chế độ xử lý.  
2.2.6. Phương pháp xử lý số liệu  
3. Kết Quả và Thảo Luận  
Số liệu thu thập trong quá trình thí nghiệm,  
sau khi loại bỏ sai số thô, được xử lý trên máy vi  
tính bằng phần mềm STATGRAPHICS – VERS  
7.0 và phần mềm EXCEL để xác định các hệ số  
hồi quy, phân tích phương sai, thiết lập hàm hồi  
quy biểu diễn quan hệ yếu tố độc lập và yếu tố  
phụ thuộc.  
3.1. Ảnh hưởng của quá trình biến tính nhiệt  
đến khối lượng thể tích khô kiệt của gỗ  
Thông ba lá  
Kết quả xác định khối lượng thể tích khô kiệt  
của gỗ Thông ba lá sau biến tính trên mô hình  
phương án bậc hai được thể hiện ở Hình 2.  
Từ Hình 2 cho thấy khối lượng thể tích khô kiệt  
của gỗ Thông ba lá biến tính nhiệt có xu hướng  
giảm nhẹ trong khoảng 3,17 – 17,3% so với gỗ  
Thông ba lá không xử lý. Nhìn chung, khi xử lý  
ở chế độ nhiệt độ càng cao, thời gian càng dài thì  
khối lượng thể tích càng giảm mạnh.  
2.2.7. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm  
Nghiên cứu được thực hiện với các thiết bị tại  
phòng thí nghiệm của Trung tâm Nghiên cứu Chế  
biến Lâm sản, Giấy & Bột giấy gồm: tủ sấy hiệu  
OF – 22 (Hàn Quốc) với độ chính xác  
1oC,  
Phương trình tương quan của hàm khối lượng  
thể tích sau khi đã loại bỏ các hệ số hồi quy không  
đảm bảo độ tin cậy có dạng như sau:  
y1 = 0,5720 – 0,0309x1 – 0,0068x2 – 0,0036x12  
nhiệt độ tối đa là 300oC, kích thước khoang chứa  
vật liệu thí nghiệm là 460 x 550 x 590 (mm);  
cân kỹ thuật hiệu TE – 612 (Đức) với độ chính  
xác đến 0,01g; Máy đo màu CR-400 (Chroma  
Meter CR – 400) với thời gian đo 1 giây và vùng  
đo (khẩu độ): φ8 mm.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
40  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Hình 3. Quan hệ giữa khối lượng thể tích khô kiệt gỗ Bạch tùng và chế độ xử lý.  
Bảng 2. Độ lệch màu gỗ Thông ba lá trước và sau biến tính  
nhiệt ở các chế độ khác nhau  
Trung bình chỉ số màu  
STT  
Chế độ xử lý  
Đối chứng  
L∗  
a∗  
b∗  
E  
1
2
3
4
5
6
7
8
9
78,64 5,08 28,97 0,00  
161oC – 10 giờ 75,24 6,99 32,40 5,19  
170oC – 8 giờ  
73,88 7,84 33,10 6,88  
170oC – 12 giờ 71,15 8,27 33,34 9,24  
190oC – 7,5 giờ 69,27 8,82 33,73 11,16  
190oC – 10 giờ 67,86 9,33 34,04 12,65  
190oC – 13 giờ 65,19 10,25 34,28 15,36  
210oC – 8 giờ  
59,76 11,74 34,33 20,73  
210oC – 12 giờ 57,71 13,01 34,45 23,04  
218oC – 10 giờ 54,05 13,14 34,48 26,46  
10  
xu hướng giảm nhẹ trong khoảng 3,45 – 20,73%  
so với gỗ đối chứng. Nhìn chung, tương tự như gỗ  
Thông ba lá, gỗ Bạch tùng khi được xử lý ở chế  
độ nhiệt độ càng cao, thời gian càng dài thì khối  
lượng thể tích càng giảm.  
3.2. Ảnh hưởng của quá trình biến tính nhiệt  
đến khối lượng thể tích khô kiệt của gỗ  
Bạch tùng  
Kết quả xác định khối lượng thể tích khô kiệt  
của gỗ Bạch tùng sau biến tính trên mô hình  
phương án bậc hai được thể hiện ở Hình 3.  
Phương trình tương quan của hàm khối lượng  
thể tích sau khi đã loại bỏ các hệ số hồi quy không  
đảm bảo độ tin cậy có dạng như sau:  
Từ Hình 3 cho thấy khối lượng thể tích khô kiệt  
của gỗ Bạch tùng xử lý biến tính nhiệt cũng có  
y2 = 0,4964 – 0,0332x1 – 0,0009x2 – 0,0033x1x2  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
   
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
41  
Hình 4. Biểu đồ quan hệ giữa L, a, bcủa gỗ Thông ba lá trước và sau biến tính nhiệt.  
– 0,0056x21 – 0,0043x22  
(mẫu chưa xử lý) tăng lên 34,48 (218oC - 10 giờ)  
ánh sáng xanh lớn dần. Độ lệch màu E thay đổi  
lớn từ 5,19 (161oC - 10 giờ) lên 26,46 (218oC - 10  
giờ) (Hình 6).  
3.3. Ảnh hưởng của quá trình biến tính nhiệt  
đến sự thay đổi màu sắc của gỗ Thông ba  
lá trước và sau biến tính nhiệt  
3.4. Ảnh hưởng của quá trình biến tính nhiệt  
đến sự thay đổi màu sắc của gỗ Bạch tùng  
trước và sau biến tính nhiệt  
Kết quả xác định các chỉ số màu sắc của gỗ  
Thông qua các chế độ biến tính nhiệt khác nhau  
được thể hiện ở Bảng 2.  
Kết quả xác định các chỉ số màu sắc của gỗ  
Bạch tùng qua các chế độ biến tính nhiệt khác  
nhau được thể hiện ở Bảng 3.  
Từ số liệu trình bày ở Bảng 2, chúng tôi tiến  
hành xây dựng đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa  
các chỉ số màu sắc L, a, bvà độ lệch màu E  
của các chế độ biến tính nhiệt và được thể hiện  
ở Hình 4 5.  
Từ số liệu trình bày ở Bảng 3, chúng tôi tiến  
hành xây dựng đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa  
các chỉ số màu sắc L, a, bvà độ lệch màu E  
của các chế độ biến tính nhiệt và được thể hiện  
ở Hình 7 8.  
Từ bảng 2 và đồ thị Hình 4 5 có thể thấy khi  
nhiệt độ và thời gian xử lý càng tăng thì độ sáng  
của màu của gỗ Lbiến tính nhiệt càng giảm (tức  
là gỗ càng sẫm màu), chỉ số athể hiện ánh sáng  
Từ Bảng 3 và đồ thị Hình 7 8 có thể thấy khi  
đỏ (Red) càng tăng, chỉ số bthể hiện ánh sáng nhiệt độ và thời gian xử lý càng tăng thì độ sáng  
xanh (Green) cũng tăng nên độ lệch màu E thay của màu của gỗ Lbiến tính nhiệt càng giảm (tức  
đổi. Cụ thể là độ sáng (L) giảm từ 78,64 (mẫu là gỗ càng sẫm màu), chỉ số athể hiện ánh sáng  
chưa xử lý) xuống còn 54,05 (218oC - 10 giờ), chỉ đỏ (Red) càng tăng, chỉ số bthể hiện ánh sáng  
số athay đổi từ 5,08 (mẫu chưa xử lý) tăng lên xanh (Green) cũng tăng nên độ lệch màu E thay  
13,14 (218oC - 10 giờ), chỉ số bthay đổi từ 28,47 đổi. Cụ thể là độ sáng (L) giảm từ 72,94 (mẫu  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
42  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Bảng 3. Độ lệch màu sắc gỗ Bạch tùng trước và sau biến  
tính nhiệt ở các chế độ khác nhau  
Trung bình chỉ số màu  
Lab∗  
E  
72,94 5,43 27,47 0,00  
STT  
Chế độ xử lý  
Đối chứng  
1
2
3
4
5
6
7
8
9
161oC – 10 giờ 71,43 5,98 28,81 2,09  
170oC – 8 giờ  
70,92 6,21 28,92 2,61  
170oC – 12 giờ 69,74 6,83 30,05 4,34  
190oC – 7,5 giờ 67,91 7,09 30,23 5,97  
190oC – 10 giờ 65,79 7,50 30,87 8,19  
190oC – 13 giờ 62,60 7,88 31,28 11,29  
210oC – 8 giờ  
60,23 9,33 32,06 14,06  
210oC – 12 giờ 58,55 10,93 33,29 16,47  
218oC – 10 giờ 55,66 12,40 34,18 19,80  
10  
Hình 5. Biểu đồ thể hiện sự thay đổi màu sắc E của gỗ Thông ba lá trước và sau biến tính nhiệt.  
chưa xử lý) xuống còn 55,66 (218oC - 10 giờ), chỉ xử lý ở nhiệt độ cao và thời gian dài. Bên cạnh  
số athay đổi từ 5,34 (mẫu chưa xử lý) tăng lên đó, trong quá trình biến tính nhiệt, dưới tác dụng  
12,40 (218oC - 10 giờ), chỉ số bthay đổi từ 27,47 của nhiệt độ cao và hơi nước nên gỗ Thông ba lá  
(mẫu chưa xử lý) tăng lên 34,18 (218oC - 10 giờ), và Bạch Tùng sau khi biến tính nhiệt cũng có  
ánh sáng xanh lớn dần. Độ lệch màu E thay màu sắc sẫm hơn. Kết quả gỗ biến tính nhiệt có  
đổi từ 2,09 (161oC - 10 giờ) lên 19,80 (218oC - 10 khối lượng giảm đi, màu sắc bề mặt bị sẫm lại  
giờ) (Hình 9).  
và khối lượng thể tích giảm là do sự suy giảm và  
sự bay hơi các hợp chất trong gỗ trong quá trình  
biến tính (Bekhta & Niemz, 2003; Johansson &  
Moren, 2006; Esteves & ctv., 2007).  
Qua các kết quả nghiên cứu đạt được cho thấy  
khối lượng thể tích khô kiệt của gỗ Thông ba lá  
và gỗ Bạch tùng đều có xu hướng giảm khi được  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
   
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
43  
Hình 6. Sự thay đổi màu sắc của gỗ Thông ba lá qua các chế độ xử lý biến tính nhiệt.  
Hình 7. Biểu đồ quan hệ giữa L, a, bcủa gỗ Bạch tùng trước và sau biến tinh nhiệt.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
   
44  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Hình 8. Biểu đồ thể hiện sự thay đổi màu sắc E của gỗ Bạch tùng trước và sau biến tính nhiệt.  
Hình 9. Sự thay đổi màu sắc của gỗ Bạch tùng qua các chế độ xử lý biến tính nhiệt.  
Nhìn chung, màu sắc sẫm của gỗ sau khi biến đồng thời lại thân thiện với môi trường nên rất  
tính nhiệt cũng tạo nên sự thoải mái đối với thị được ưa chuộng trong thời gian qua. Vì vậy, có  
giác cho người dùng, đem lại cảm giác vừa ấm thể nói gỗ Thông ba lá và Bạch tùng sau khi xử  
cúng vừa sang trọng cho không gian sử dụng, lý biến tính nhiệt vừa có thể nâng cao được giá  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
   
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
45  
trị sử dụng và vừa khắc phục được một số nhược Esteves, B., Idalina, D., & Helena, P. (2007). Improve-  
ment of technological quality of Eucalypt wood by heat  
treatment in air at 170-200oC. Forest Products Journal  
điểm của gỗ không xử lý.  
57(1), 47-52.  
4. Kết Luận và Kiến Nghị  
Johansson, D., & Moren, T. (2006). The potential of  
colour measurement for strength prediction of ther-  
mally treated wood. Holz Roh-Werkst 64, 104-110.  
Gỗ Thông ba lá và gỗ Bạch tùng sau khi biến  
tính nhiệt có khối lượng thể tích khô kiệt giảm  
dần khi được xử lý ở nhiệt độ cao và thời gian  
dài. Trong đó, khối lượng thể tích của gỗ Thông  
Hamiyet, S. K. (2010). Characteristics of heat-treated  
Turkish pine and fir wood after ThermoWood process-  
ing. Journal of Environmental Biology 31(6), 1007-  
1011.  
ba lá và Bạch tùng giảm trong khoảng lần lượt  
là 3,17 – 17,3% và 3,45 – 20,73% so với gỗ đối  
chứng. Ngoài ra, trong quá trình biến tính nhiệt,  
dưới tác dụng của nhiệt độ cao nên gỗ Thông ba  
lá và Bạch Tùng sau khi biến tính nhiệt cũng có  
Hill, C. (2006). Wood modification – chemical, thermal  
and other processes. Chichester, UK: Wiley and Sons.  
Rusche, H. (1973). Thermal degradation of wood at tem-  
perature up to 200oC. Part I. Strength properties of  
wood after heat treatment. Holz als Roh – und Werk-  
stoff 31(7), 273-281.  
màu sắc sẫm hơn. Cụ thể là, gỗ Thông ba lá và  
Bạch tùng khi xử lý ở chế độ 218oC – thời gian  
10 giờ đều có độ lệch màu khá cao lần lượt là  
Stamm, A.,  
& Hansen, L. (1937). Minimizing wood  
26,45 và 19,80. Tuy nhiên, khi gỗ được xử lý ở  
chế độ 161oC – thời gian 10 giờ thì độ lệch màu  
của Thông ba lá và Bạch Tùng tương đối thấp, có  
giá trị lần lượt là 5,19 và 2,09. Do vậy, tùy theo  
mục đích sử dụng của sản phẩm gỗ biến tính mà  
có thể áp dụng chế độ xử lý phù hợp.  
shrinkage and swelling: Effect of heating in various  
gases. Journal of Industrial and Engineering chem-  
istry 29(7), 831-833.  
ThermoWood  
Helsinki, Finland: ThemoWood association.  
.
(2003). ThermoWood  
Handbook.  
Tiemann, H. D. (1920). Effect of different methods of dry-  
ing on the strength and hygroscopicity of wood (3rd  
ed.). Pennsylvania, USA: Joshua Ballinger Lippincott  
Company.  
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng 2 loại  
gỗ này, cần phải tiếp tục nghiên cứu thêm ảnh  
hưởng của biến tính nhiệt đến một số tính chất  
khác của gỗ như tính chất cơ học, khả năng kháng  
côn trùng, tính năng dán dính keo,...  
Vasiliki K., Ioannis, B., & Vasileios, V. (2014). Influence  
of thermal treatment on mechanical strength of Scots  
pine (Pinus sylvestris L.) wood. Wood Research 59(2),  
373-378.  
Tài Liệu Tham Khảo (References)  
Vasiliki, K., & Panagiotis, B. (2015). Correlation be-  
tween the changes of colour and mechanical properties  
of thermally-modified Scots pine (Pinus sylvestris L.)  
wood. Pro Ligno 11(4), 360 – 365.  
Bekhta, P., & Niemz, P. (2003). Effect of high tempera-  
ture on the change in color, dimensional stability and  
mechanical properties of Spruce wood. Holzforschung  
57, 539-546.  
VNS (Vietnamese National standards). (2009). TCVN  
8048-2:2009: Determination of density for physical and  
mechanical tests. Ha Noi, Vietnam: Vietnam Stan-  
dards and Quality Institute.  
Bengtsson, C., Jermer, J., & Brem, F. (2002). Bend-  
ing strength of heat-treated spruce and pine timber.  
Proceedings of The International Research Group on  
Wood Preservation Document No. IRG/WP 02-40242.  
Wales, UK.  
Bruno, E., Idalina, D., & Helena, P. (2008). Pine wood  
modification by heat treatment in air. BioResources  
3(1), 142-154.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
pdf 11 trang yennguyen 20/04/2022 5560
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian biến tính nhiệt đến khối lượng thể tích và màu sắc của gỗ Thông ba lá (Pinus kesiya) và gỗ Bạch tùng (Dacrycarpus imbricatus)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_nhiet_do_va_thoi_gian_bien_tinh_nhiet_den_khoi.pdf