Ảnh hưởng của kế toán sáng tạo đối với báo cáo tài chính trong doanh nghiệp

P-ISSN 1859-3585     E-ISSN 2615-9619                                                                                                                              ECONOMICS - SOCIETY  
 
 
ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO    
ĐỐI VỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP  
THE EFFECTS OF CREATIVE ACCOUNTING ON FINANCIAL STATEMENTS IN THE ENTERPRISES  
     Lê Thị Thanh Hải1,*, Nguyễn Hồng Nga2  
 
định. T thực tế tính phức tạp và đa dạng của các nghiệp  
vụ kinh doanh đặc thù trong DN, mức độ tinh vi của các thủ  
thuật KTST ngày càng tăng, nên việc nghiên cứu và phân  
tích các ảnh hưởng của KTST đến BCTC là hết sức cấp thiết  
trong  giai  đoạn  hiện  nay.  Đặc  biệt  tại  Việt  Nam,  khi  nền  
kinh  tế  đang  phát  triển  với  thị  trường  vốn  còn  non  trẻ,  
trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, các hành vi KTST  
cần  được  kiểm  soát  chặt  chẽ  nhằm  đáp  ứng  yêu  cầu  về  
minh bạch và chất lượng công bố thông tin. Vì vậy, bài báo  
này trình bày những vấn đề liên quan đến KTST, ảnh hưởng  
của KTST đến BCTC và đưa ra một số hàm ý đối với các DN  
Việt Nam hiện nay.  
TÓM TẮT  
Kế toán sáng tạo là một chủ đề nghiên cứu thu hút nhiều sự quan tâm, vì nó  
liên quan đến việc điều chỉnh số liệu kế toán thực tế theo cách ban điều hành  
mong muốn, thông qua việc lợi dụng các quy định kế toán hiện hành hoặc phớt  
lờ các quy định này. Ở Việt Nam, nền kinh tế đang phát triển với thị trường vốn  
còn non trẻ, trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, các hành vi kế toán sáng tạo  
cần được kiểm soát chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu về minh bạch và chất lượng  
công bố thông tin. Bài báo trình bày về những vấn đề liên quan đến kế toán sáng  
tạo, ảnh hưởng của kế toán sáng tạo đến báo cáo tài chính và đưa ra một số hàm  
ý đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.  
Từ khoá: Báo cáo tài chính; doanh nghiệp; kế toán sáng tạo; thủ thuật.  
2. QUAN ĐIỂM VỀ KẾ TOÁN SÁNG TẠO  
ABSTRACT  
Hiện nay, trong lĩnh vực tài chính - kế toán tồn tại nhiều  
định  nghĩa  khác  nhau  về  KTST.  Naser  đưa  ra  định  nghĩa  
“KTST là sự biến hóa các con số trong báo cáo tài chính từ  
thực  chất  của  chúng  sang  những  con  số   người  thực  
hiện mong muốn bằng cách lợi dụng các quy định có sẵn  
hoặc phớt lờ một số hay tất cả những quy định đó” [2]. Một  
số phương thức tạo ra cơ hội thực hiện hành vi KTST gồm:  
cho phép DN lựa chọn giữa các phương pháp kế toán khác  
nhau; một s khoản mục trình bày trên báo cáo tài chính  
liên  quan tới các ước  tính,  quyết định và d báo;  một  số  
giao dịch tự tạo có thể dùng, để thao túng bảng cân đối kế  
toán và chuyển lợi nhuận giữa các kỳ; các giao dịch có thể  
được sắp đặt để cho thấy kết quả ấn tượng trong báo cáo  
kết  quả  hoạt  động  kinh  doanh.  Tương  tự,  Charles    
Eugene  nhận  định  KTST   sự  lựa  chọn   chủ  ý  các  quy  
định kế toán nhằm thao túng lợi nhuận, để hướng tới mục  
tiêu bởi các cấp quản lý hoặc để làm lợi nhuận trở nên đẹp  
hơn  [1].  Do  vậy,  KTST  luôn  cố  gắng  "thổi  phồng"  giá  trị  
trong BCTC. Việc áp dụng kế toán sáng tạo đ điều chỉnh  
kết  quả  kinh  doanh  của  DN  về  bản  chất  chỉ   thủ  thuật  
chuyển đổi lãi/lỗ giữa các kỳ (tổng lãi/lỗ của DN của cả giai   
đoạn   không  đổi).  Đến  một  thời  điểm  nhất  định  trong  
tương lai, hành vi kế toán sáng tạo sẽ bị phát hiện khi DN  
không thể che giấu các khoản nợ hoặc lỗ lũy kế.  
Creative accounting is a research topic that attracts a lot of attention, as it  
involves  adjusting  actual  accounting  data  according  to  the  way  the  board  of  
directors wants it, through taking advantage of regulations current accounting or  
ignore  these  regulations.  In  Vietnam,  a  developing  economy  with  a  fledgling  
capital market, in the trend of global economic integration, creative accounting  
behaviors need to be strictly controlled to meet the requirements of transparency  
and quality of information disclosure. The article discusses issues related to creative  
accounting, the impact of creative accounting on financial statements and gives  
some implications for the business community in Vietnam today.  
Keywords: Financial statements; business; creative accounting; tips.  
 
1Phòng Quản lý đào tạo, Trường Đại học Thương mại    
2Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Thương mại  
*Email: nghialehai@tmu.edu.vn  
Ngày nhận bài: 02/3/2021  
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 16/4/2021  
Ngày chấp nhận đăng: 25/4/2021  
 
1. GIỚI THIỆU  
Kế  toán  sáng  tạo  (KTST)   việc  sử  dụng  kiến  thức  kế  
toán  để  tác  động  đến  số  liệu  báo  cáo  tài  chính  (BCTC)  
thông  qua  đó  nhằm  phản  ánh  tình  hình  tài  chính   kết  
quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN) theo cách mà ban  
điều hành mong muốn, thay vì trình bày trung thực các số  
liệu này, trong khuôn khổ pháp luật và các quy tắc kế toán  
cho phép. Kế toán sáng tạo tuy không phải là hoạt động  
bất hợp pháp nhưng ranh giới giữa gian lận kế toán và việc  
sử dụng kế toán sáng tạo hợp pháp hiện nay rất k xác  
Đồng với quan điểm đó, Nguyễn Thị Hồng Liên và Đào  
Thị Ngân cho rằng KTST là việc s dụng kiến thức kế toán  
để tác động đến số liệu BCTC, nhằm phản ánh tình hình tài  
chính và kết quả kinh doanh của DN theo cách mà lãnh đạo  
DN  mong  muốn,  thay   trình  bày  trung  thực  các  số  liệu  
này, trong khung khổ pháp luật và các quy tắc kế toán cho  
141  
KINH TẾ   
XÃ HỘI  
P-ISSN 1859-3585      E-ISSN 2615-9619  
phép  [4].  KTST   thể  bao  gồm  bán  tài  sản  với  giá  thấp,  
-  Làm  đẹp  thu  nhập:  Báo  cáo  một  xu  hướng  ổn  định  
chuyển  giao  số  lượng  hàng  hóa  lớn  bất  thường  vào  dịp  trong s gia tăng lợi nhuận hơn là cho thấy lợi nhuận với  
cuối năm, và không thực hiện ghi giảm lượng hàng tồn kho  các đợt tăng giảm thất thường, tránh tạo ra sự kỳ vọng cao  
đã b giảm g trị trước đó. Tương tự, Nguyễn Khánh Thu   những năm làm ăn tốt mà DN không thể đạt được, che  
Hằng và Nguyễn Thị Đoan Trang cho rằng “KTST là hành vi  giấu những thay đổi dài hạn trong xu hướng lợi nhuận, hay  
ghi nhận thu nhập theo cách riêng, làm cho BCTC của DN  thậm  chí  những  công  ty  thua  lỗ  mong  muốn  phóng  đại  
trở nên đẹp hơn thực  chất của nó, trong khi hành vi này  báo cáo lỗ của họ hơn nữa để những năm sau sẽ có vẻ cải  
vẫn tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán” [5]. KTST luôn cố  thiện được tình hình tốt lên,...  
gắng thổi phồng giá trị trong BCTC, ví dụ như bán tài sản  
vào thời điểm cuối năm nhằm tạo một khoản lợi nhuận để  
bù đắp cho một khoản thua lỗ trước đó. Một số người cho  
rằng, KTST nhằm che giấu thực chất tài chính của một DN  
nhưng  “KTST  về   bản   hợp  pháp”.  Nguyễn  Văn  Hòa  
cũng cho rằng KTST bao gồm các nghiệp vụ kế toán tuân  
theo các luật và quy định bắt buộc, nhưng sai lệch so với  
những gì các chuẩn mực đó dự định đạt được [6]. KTST lợi  
dụng những kẽ hở trong các chuẩn mực kế toán để vẽ nên  
hình ảnh tốt hơn và sai lệch về công ty.  
- Duy trì hay làm tăng giá cổ phiếu, bằng cách giảm mức  
vay  đáng  kể  hay  tạo  ra  hình  thức  bề  ngoài  của  một  xu  
hướng lợi nhuận khả quan.  
Câu hỏi lớn đặt ra là tại sao các công ty lại tiến hành các  
hoạt động KTST? Một trong những lý do là che giấu điều gì  
đó mà họ không muốn bên liên quan nhìn thấy hoặc không  
biết. Đối với các công ty đại chúng niêm yết, lý do chính là  
thúc đẩy giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Các lý do  
khác bao gồm mong muốn tránh nộp thuế vì KTST có thể  
làm tăng chi p và giảm s thuế mà công ty phải trả cho  
chính phủ. Điều này là do thuế được tính dựa trên thu nhập  
ròng của công ty. Vì vậy, các công ty sẽ cố gắng giảm thiểu  
thu nhập của họ để giảm số tiền mà họ phải trả như thuế thu  
nhập. Các công ty tham gia vào các hoạt động KTST do các lý  
do  như   cấu  nợ  của  công  ty,  khó  khăn  tài  chính,  môi  
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các thông lệ về cơ chế  
kiểm soát nội bộ, cơ cấu s hữu của công ty và lợi ích của  
giám đốc điều hành (CEO) để tăng số liệu lợi nhuận.  
Dưới đây là những nguyên nhân khiến các công ty niêm  
yết thao túng kế toán như sau: Giảm nhẹ thu nhập, công ty  
muốn thể hiện lợi nhuận tăng trưởng n định hơn là dao  
động  cao  hoặc  thấp.   vậy,  các  công  ty  đã  trích  lập  dự  
phòng  nợ  phải  trả  vào  tài  sản  làm  giảm  lợi  nhuận  trong  
năm tốt. KTST có thể giúp duy t hoặc tăng g c phiếu  
bằng cách giảm mức đi vay rõ ràng, do đó làm cho công ty  
có vẻ ít rủi ro hơn bằng cách tạo ra xu hướng lợi nhuận tốt.  
Điều này giúp công ty huy động vốn từ các đợt phát hành  
cổ phiếu mới, chào bán cổ phiếu trong các cuộc đấu thầu  
và chống lại sự tiếp quản của công ty khác.    
Như vậy, kế toán sáng tạo là việc vận dụng linh hoạt và  
sáng tạo các kỹ thuật trong kế toán, hay còn gọi là các "thủ  
thuật", đ "biến tấu" thông tin trên BCTC, nhằm tác động  
đến  nhận  thức  của  người  đọc  BCTC.  Kế  toán  sáng  tạo    
một q trình, trong đó kế toán s dụng các kiến thức về  
các nguyên tắc, chuẩn mực, phương pháp kế toán, để điều  
chỉnh các con số được trình bày trên BCTC của một DN. Có  
thể hiểu, KTST là một quá trình, trong đó kế toán sử dụng  
các kiến thức về các nguyên tắc, chuẩn mực, phương pháp  
kế toán, để điều chỉnh các con số được trình bày trên BCTC  
của  một  doanh  nghiệp  (DN).  Tại  Việt  Nam,  hành  vi  này  
thường được gọi là quản  trị lợi nhuận”.   tên gọi khác  
nhau là KTST hay quản trị lợi nhuận, thì đó là việc làm thay  
đổi  số  liệu  lợi  nhuận,  được  thực  hiện  thông  qua  hành  vi  
điều chỉnh doanh thu và chi phí bằng công cụ kế toán. Tùy  
thuộc vào từng quy định kế toán được ban hành, nó có thể  
ngăn chặn cũng n m ra cách mới đ n quản trị đạt  
được mục tiêu lợi nhuận. Thị trường chứng khoán tại Việt  
Nam  đã   đang  bước  dần  vào  giai  đoạn  ổn  định,  chất  
lượng thông tin BCTC của các công ty niêm yết ngày càng  
được quan tâm, do đó, cần phải đánh giá các BCTC đó có sử  
dụng  các  thủ  thuật  KTST  hay  không.  Mặt  khác,  nhiều  kế  
toán viên trong các DN Việt Nam còn chưa hiểu rõ và đầy  
đủ  về  các  hành  vi  KTST   tác  động  của  KTST  đến  chất  
lượng  thông  tin  BCTC.   vậy,  phân  tích  ảnh  hưởng  của  
KTST đến BCTC từ góc nhìn của các nhà quản trị và kế toán  
viên là điều cần thiết và quan trọng.  
3.2. KTST có vi phạm pháp luật?  
Những  trường  hợp  thực  tế,  thực  hiện  hành  vi  thao  
túng BCTC nổi tiếng đều không phải KTST mà là gian lận.  
Tuy vậy, một điểm đặc  trưng của KTST đó là nhằm  mục  
đích thổi phồng hoặc làm giảm đi tình trạng kinh doanh  
sa sút kéo dài. Khi đó, KTST sẽ tiến gần hơn đến ranh giới  
phá bỏ rào cản pháp luật, nhà quản lý có thể mất đi tầm   
nhìn của mình, không còn nhận ra ranh giới giữa tuân thủ  
và phạm pháp, cuối cùng có thể trở thành ban giám đốc  
có hành vi gian lận, lừa đảo. Có thể nói, KTST không phải  
là phạm pháp nhưng nó có thể rơi vào vùng nguy hiểm, bị  
coi là phạm pháp nếu những giá trị thật bị bóp méo, thổi  
phồng  quá  nhiều  xét  về  tổng  thể.  Một  số  kỹ  thuật  hợp  
pháp có thể được sử dụng, khi phải ước tính một số khoản  
mục nhất định trên báo cáo tài chính. Điều này khiến cho  
việc phân biệt giữa một ranh giới hợp pháp và không hợp  
pháp đối với KTST càng trở nên khó khăn. Chính vì sự mơ  
hồ không rõ ràng này mà có rất nhiều ý kiến trái chiều về  
KTST, có thể kể đến hai luồng phản ứng chính, đó là chấp  
3. BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO  
3.1. Vì sao DN sử dụng KTST?  
Động thái, phản ứng của các cổ đông và thị trường luôn  
có sự liên quan chặt chẽ tới hành vi của các nhà quản lý, ban  
giám đốc ngày càng bị đánh giá nhiều hơn dựa trên các chỉ  
tiêu lợi nhuận, tốc đ tăng trưởng và giá trị mỗi cổ phiếu,...  
Do vậy, các DN, đặc biệt là ban giám đốc luôn mong muốn  
các  báo cáo tài  chính s thể  hiện được  thông điệp mà  họ  
muốn các nhà đầu tư nhìn thấy, và đó là lúc họ cần đến KTST.  
Bởi lẽ, KTST là công c hữu hiệu giúp làm đẹp báo cáo tài  
chính mà vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật.  
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 57 - Số2 (4/2021)                                          Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn  
142  
P-ISSN 1859-3585     E-ISSN 2615-9619                                                                                                                              ECONOMICS - SOCIETY  
thuận   phản  bác.  Những  người  chấp  thuận  KTST  cho  thiếu  minh  bạch  của  thị  trường.   thể  thấy,  ảnh  hưởng  
rằng,  các  nguyên  tắc  kế  toán  chung  được  thừa  nhận  của KTST đến BCTC như sau:  
(GAAPs) đưa ra nhiều phương thức kế toán khác nhau để  
lựa  chọn.  Vậy  nên  khi  áp  dụng,  DN   quyền  lựa  chọn  
những  phương  pháp  nhất  định   họ  đánh  giá   phù  
hợp  nhất  cho  BCTC  của  họ.  Đây   bản  chất  của  kinh  
Đối với Báo cáo tình hình tài chính (Bảng cân đối kế  
toán)  
-  Tài  sản  bị  thổi  phồng:  Tài  sản  bị  thổi  phồng   xu  
hướng ngày càng gia tăng, khi n quản trị có ý định làm  
doanh, công ty phải phản  ánh được bức tranh tài chính  
tăng thu nhập. Các thủ thuật thổi phồng tài sản phổ biến  
khả quan nhất có thể và KTST có thể giúp ích trong nỗ lực  
như sau: Trì hoãn việc ghi giảm giá trị tài sản ngắn hạn; Ghi  
này. Trong khi đó, luồng phản ứng bác bỏ KTST lại khẳng  
nhận thấp hơn khoản dự phòng đối với nợ xấu; Đẩy nhanh   
định KTST chính là sự thao túng trong kế toán, đi cùng sự  
tiến đ ghi nhận doanh thu; T hoãn việc ghi giảm g trị  
thao túng là tính thiếu minh bạch, bóp méo sự thật, tất cả  
tài sản dài hạn; Ghi nhận thấp hơn giá trị hao mòn tài sản  
dài hạn.  
chỉ  nhằm  mục  đích   được  kết  quả  như  mong  muốn  
trong thời gian ngắn mà không hướng đến mục đích cuối  
cùng   làm  tăng  giá  trị  thực  của  DN.  Nghiên  cứu  của  
Dechow   Slinner  đã  minh  hoạ  rất   nét  về  ranh  giới  
mong manh giữa KTST và các sai phạm, KTST là việc dựa  
trên các quy định nhằm điều khiển các con số theo mong  
muốn của nhà quản trị, điều này dễ dẫn đến các sai phạm  
trong việc thực hiện công tác kế toán tại DN [3].  
- Tài sản bị ghi nhận thấp hơn thực tế: Tài sản bị ghi nhận  
thấp hơn thực tế khi nhà quản trị có xu hướng muốn giảm  
lợi nhuận, cụ thể khi doanh nghiệp có khả năng sinh lời lớn  
và nhà quản trị quyết định dự trữ một khoản lợi nhuận cho  
tương lai. Điều hòa thu nhập có thể được thực hiện bằng  
việc đánh g cao hơn chi p hiện tại hay đánh g thấp  
hơn giá trị của tài sản trong thời gian doanh nghiệp đang  
hoạt động sinh lời tốt.    
4.  NỘI DUNG VÀ  PHƯƠNG PHÁP  THỰC HIỆN K TOÁN  
SÁNG TẠO    
- Che giấu các khoản nợ tiềm tàng: Việc không ghi nhận  
các khoản nợ tiềm tàng có khả năng xảy ra và việc đánh giá  
thấp giá trị của chúng có thể làm tăng thu nhập ròng hoặc  
vốn chủ sở hữu của cổ đông.  
Việc thực hiện KTST để điều chỉnh lợi nhuận của DN rất  
phong phú. Các phương pháp kế toán v doanh thu, vốn  
hóa, ghi nhận tài sản hay n phải trả có thể làm thay đổi  
những con số trên BCTC:  
- Nợ phải trả bị ghi nhận thấp: Các khoản nợ phải trả bị  
ghi nhận thấp, khi DN đang gặp khó khăn và nhà quản trị  
muốn cho nhà đầu tư thấy được bức tranh lạc quan về các  
rủi ro tài chính của DN. Nợ phải trả có thể bị ghi nhận thấp  
trong các điều kiện: Ghi nhận doanh thu quá mức; Nghĩa vụ  
về tiền lương và các khoản phải trả sau khi người lao động  
nghỉ hưu bị ghi nhận thấp.  
- Đánh g thấp các khoản  nợ lương hưu: Các nghĩa v  
hưu trí có thể dễ dàng bị thao túng vì các khoản nợ phải trả  
xảy  ra  trong  tương  lai   các  ước  tính  do  công  ty  tạo  ra  
được dùng để lý giải cho các khoản nợ này.  
- Thao túng hàng tồn kho: Hàng tồn kho thể hiện giá trị  
của hàng hóa đã được sản xuất nhưng chưa được bán. Việc  
phóng đại g trị hàng tồn  kho  sẽ dẫn  đến g vốn hàng  
bán bị đánh giá thấp hơn và do đó thu nhập ròng cao hơn  
một cách giả tạo, giả định rằng mức tồn kho và doanh số  
bán hàng thực tế không đổi.  
(1) Lựa chọn PP kế toán nh hưởng đến thời điểm ghi  
nhận doanh thu và chi phí: Lựa chọn phương pháp kế toán  
có ảnh hưởng đến thời điểm ghi nhận doanh thu và chi phí  
(và  kết  quả   ảnh  hưởng  đến  thời  điểm  ghi  nhận  lợi  
nhuận). Lựa chọn một (hoặc một số) phương pháp kế toán  
cho phép ghi nhận doanh thu sớm hơn và chuyển dịch ghi  
nhận chi phí về sau sẽ làm tăng lợi nhuận báo cáo trong kỳ  
và ngược lại.    
(2) Lựa chọn thời điểm ghi nhận chi phí và các ước tính  
kế toán: Chế độ kế toán cũng cho phép DN được phép vận  
dụng các phương  pháp kế  toán  thông qua việc lựa chọn  
thời điểm ghi nhận chi phí. Nhà quản trị quyết định chuyển  
dịch về sau (hoặc ghi nhận sớm hơn) một số loại chi phí sẽ  
làm giảm (hoặc tăng) chi phí của niên độ hiện hành.    
(3) Lựa chọn thời điểm mua hoặc bán tài sản: Lựa chọn  
thời điểm mua hay  thanh lý,  nhượng bán tài sản c định  
cũng có ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán. Nhà quản trị DN  
có thể quyết định khi nào và mức độ các chi phí quảng cáo,  
chi phí sửa chữa, nâng cấp cải tạo tài sản cố định được chi  
ra. Nhà quản trị cũng có thể quyết định thời điểm thanh lý,  
nhượng bán tài sản cố định để đẩy nhanh hoặc làm chậm  
lại việc ghi nhận lợi nhuận hay thua lỗ hoạt động khác.    
Đối với Báo cáo kết quả hoạt động  
Khi đánh g BCTC của một công ty có lợi nhuận hoạt  
động lớn thì điều này có lợi cho quyết định đầu tư. Công ty  
 thể  cố  tình  điều  chỉnh  lợi  nhuận  từ  những  giao  dịch  
không  thường  xuyên  trở  thành  lợi  nhuận  hoạt  động.  
Những khoản lợi từ tái cấu trúc, bán tài sản hay phí đặc biệt  
  những  loại  phổ  biến  trong  lợi  nhuận  hoạt  động  
nhưng  những  khoản  lợi  nhuận  liên  quan  tới  đầu   thì  
không nằm  trong khoản này. Những khoản t kiện  tụng,  
dành được, liên doanh liên kết cũng nằm trong lợi nhuận  
hoạt động, k c những khoản giảm tài sản khác. Thực tế  
nhiều  khoản  mục  trong  lợi  nhuận  hoạt  động   những  
khoản mục liên quan tới hoạt động nhưng không thường  
5. ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO ĐẾN BÁO CÁO   
TÀI CHÍNH  
KTST liên quan đến việc điều chỉnh số liệu kế toán thực  
tế  trên  BCTC  theo  cách  ban  điều  hành  DN  mong  muốn.  
KTST gian lận theo nhiều cách khác nhau và khó xác định  
cụ thể. Những năm gần đây, với việc hàng loạt các DN niêm  
yết công bố kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước và sau  
kiểm toán đã gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư và sự  
143  
KINH TẾ   
XÃ HỘI  
P-ISSN 1859-3585      E-ISSN 2615-9619  
kỳ, nghĩa là không xuất  phát  từ hoạt động sản xuất kinh  nhà nước là những loại hình DN có mức độ sử dụng KTST cao  
doanh thông thường. Chính vì điểm này nên con số của lợi  hơn so với các loại hình khác, bởi động cơ thực hiện KTST của  
nhuận hoạt động thực tế có thể ở mức khiêm tốn.  
các DN này chủ yếu nhằm tối ưu hóa lợi ích về thuế, tăng giá  
trị công ty và hoàn thành kế hoạch được giao. Mức đ ảnh  
hưởng  của  việc  áp  dụng  KTST  đến  tương  lai   các  quyết  
định kinh doanh của DN cũng chưa được ban điều hành và  
kế toán DN quan tâm đúng mức. Các đối tượng này chỉ tập  
trung vào  các lợi  ích  trước  mắt   chưa quan  tâm  tới  tác  
động tiêu cực trong dài hạn của các hành vi KTST.  
Biện pháp tốt nhất để xem xét thực chất lợi nhuận hoạt  
động của công ty là cần xét đánh giá xem các thuyết minh  
để  biết  được  thực  chất   ghi  nhận  những  khoản  nào.  
Doanh thu t hoạt động chính là doanh thu chủ yếu của  
DN,  bao  gồm  những  khoản   chu  kỳ   những  khoản  
không có chu kỳ. Nếu chỉ tính những khoản có chu kỳ như  
doanh thu từ hoạt động bán hàng thì con số lợi nhuận hoạt  
động sẽ không như DN báo cáo. Việc này không ảnh hưởng  
tới  kết  quả  cuối  cùng  nhưng  sẽ  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  
tổng thể, k c khi đưa ra phân tích t những con số này   
cũng không thể đạt mục đích tối đa. Từ đó, nhà đầu tư cần  
biết được những khoản nào là doanh thu từ hoạt động kinh  
doanh thuần, những khoản nào mang lại lợi nhuận nhưng  
không được tính là hoạt động kinh doanh.  
Về bản chất, việc áp dụng KTST đ điều chỉnh kết quả  
kinh doanh của DN chỉ là thủ thuật chuyển đổi lãi/lỗ giữa  
các kỳ (tổng lãi/lỗ của DN của cả giai đoạn là không đổi), do  
vậy, đến một thời điểm nhất định trong tương lai, hành vi  
KTST sẽ bị phát hiện khi DN không thể che giấu các khoản  
nợ hoặc l lũy kế. Hậu quả là lòng tin của các n đầu tư,  
nhà cho vay, khách hàng, nhà cung cấp và các đối tượng sử  
dụng thông tin BCTC bị xói mòn.  
Việc kết luận KTST có lợi hay gây hại cho DN, phần lớn  
tùy thuộc vào lý do, động cơ, cách thức sử dụng, bản chất  
và sự kiểm soát hành vi kế toán của DN. Do đó, cần đọc kỹ  
và rõ ràng BCTC của các công ty. Một số vấn đề quan trọng  
như là việc xem xét doanh thu của công ty ghi nhận là khi  
nào, đã cung cấp sản phẩm hay chưa, nó được công nhận  
tại thời điểm giao hàng hay kết thúc hợp đồng. Ngoài ra,  
việc  ghi  nhận  doanh  thu  của  công  ty   kèm  theo  các  
khoản  dự  phòng,  chi  phí  đào  tạo,  lắp  đặt,  các  khoản  về  
giảm g khi khách trả lại hàng... Tất c các điểm này cần  
làm rõ trong BCTC, t đó xác định s nh hưởng tích cực,  
tiêu cực của KTST đến BCTC của DN.    
Đối với Báo cáo lưu chuyển tiền tệ  
Trong quá trình phân tích BCTC, thì báo cáo lưu chuyển  
tiền tệ cần xem trọng đặc biệt. Bởi vì, khi thực hiện hành vi  
KTST với những hành vi gian lận n ghi nhận sai doanh  
thu, khoản phải trả, phả nộp thì báo lưu chuyển tiền tệ có  
thể làm lộ ra những điểm yếu, nhất là tình huống phân loại  
nhầm dòng tiền “ra” và “vào” với mục đích “làm đẹp” hoạt  
động kinh doanh và hoạt động đầu tư.  
Trong trường hợp cần thiết, DN d phân loại sai luồng  
tiền và hầu hết là tăng dòng tiền thuần của hoạt động kinh  
doanh thông thường (bằng cách chuyển dòng tiền ra của  
hoạt động này sang hoạt động đầu tư, hoặc chuyển dòng  
tiền vào của hoạt động đầu tư sang hoạt động kinh doanh  
thông  thường),  người  đọc  báo  cáo  sẽ  cảm  thấy  yên  tâm  
hơn khi nhìn thấy hoạt động kinh doanh thông thường tốt  
(Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có lãi và Báo cáo  
lưu chuyển tiền tệ với dòng tiền của hoạt động kinh doanh  
dương),  đồng  thời  với  hoạt  động  đầu   đầy  triển  vọng  
(dòng tiền ra khá lớn, do đó có thể kỳ vọng trong tương lai  
sẽ thu lại nhiều hơn).  
Chính vì vậy, nhà đầu tư cần xem xét những dòng nào  
 thể là dòng tiền t hoạt động kinh doanh. Ngoài dòng  
tiền  hoạt  động  kinh  doanh  thuần  nên  xem  xét  một  cách  
tổng quát c dòng tiền t hoạt động tài chính, dòng tiền  
hoạt động đầu tư và dòng tiền tự do. Nếu một công ty thực  
hiện  hành  vi  sáng  tạo  khi  cố  tình  phân  loại  dòng  tiền  từ  
hoạt động khác vào hoạt động kinh doanh thì dòng tiền tự  
do của công ty vẫn âm. Xem xét thật kỹ các công ty có dấu  
hiệu gian lận trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thì dòng tiền  
đầu tư qua các năm âm và dòng tiền hoạt động không đủ  
để  chi  chả  lại  khoản  này  trong  nhiều  năm,  từ  đó  dẫn  tới  
phát hiện sai phạm.  
Có thể thấy, việc sử dụng KTST hợp pháp và gian lận kế  
toán có ranh giới không rõ ràng và rất khó xác định. Chính  
vì vậy, đây là ảnh hưởng tiêu cực đầu tiên có thể có tới DN,  
khi người thực hiện KTST không hiểu rõ bản chất hành vi  
của mình có b coi là phạm pháp hay không, có thể sáng  
tạo đến mức nào trước khi bước quá ranh giới và vi phạm  
pháp luật. Điều này sẽ yêu cầu các cấp quản lý, ban giám  
đốc công ty phải nắm rõ GAAPs cũng n hiểu rõ và làm  
chủ hành vi kế toán của mình.  
Một ảnh hưởng bất lợi khác của KTST đối với DN, đó là  
ảnh hưởng đến mục tiêu dài hạn của DN. Theo luồng ý kiến  
phản đối KTST nói trên, đôi khi người ra quyết định chỉ nhìn  
thấy lợi ích trước mắt, trong ngắn hạn mà bỏ qua các mục  
tiêu lớn trong dài hạn của DN. Một số hành vi KTST nếu kéo  
dài hay lặp lại nhiều lần có thể dần dần gây tổn thất lớn cho  
DN, đó là khi công ty đã lạm dụng, dẫn đến phụ thuộc vào  
KTST. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu hoạt động kinh doanh của  
công ty thuận lợi mang lại lợi nhuận lớn thì việc dùng KTST  
trong một thời điểm nào đó là việc cân bằng lợi nhuận khả  
quan có thể mang lại. Do vậy, việc kết luận KTST có lợi hay  
gây  hại  cho  DN,  phần  lớn  tùy  thuộc  vào   do  /động  cơ,  
cách thức sử dụng, bản chất và sự kiểm soát các hành vi kế  
toán của DN.  
6. ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO ĐỐI  
VỚI DOANH NGHIỆP   
Thực tế cho thấy, việc áp dụng KTST của các DN Việt Nam  
 phổ biến và đang có xu hướng gia tăng trong giai đoạn  
gần đây. Tần suất và mức đ áp dụng KTST phụ thuộc vào  
loại hình DN, trong đó, công ty TNHH, công ty cổ phần và DN  
 (1) Xét v góc đ tiêu cực: Khi s dụng KTST với mục  
đích  không  tích  cực,    thể   công  cụ  cho  những  kẻ  
tham  nhũng  hoặc  che  dấu  hoạt  động  kinh  doanh  đang  
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 57 - Số2 (4/2021)                                          Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn  
144  
P-ISSN 1859-3585     E-ISSN 2615-9619                                                                                                                              ECONOMICS - SOCIETY  
giảm sút của công ty. Từ đó việc thực hiện Kế toán sáng tạo  kiểm toán, thậm c có DN  chuyển t lãi trước kiểm toán  
có thể gây hại không nhỏ cho nhà nước, các nhà đầu tư và  BCTC sang lỗ.  
nền kinh tế đất nước. Có thể kể đến một số hành vi như:  
Như  vậy  thực  tế  cho  thấy  rằng,  các  trường  hợp  lạm  
- Tăng khả năng huy động vốn của DN, hoặc để thuyết  
phục nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào DN hay khi đi vay các tổ  
chức  tín  dụng,  nhà  quản   đã  tìm  cách  điều  chỉnh  lợi  
nhuận để huy động vốn với chi phí thấp hơn. Từ đó sẽ dẫn  
tới DN s có các hành vi điều chỉnh lợi nhuận đ tránh vi  
phạm các điều khoản  
dụng hành vi KTST có thể đẩy DN tới b vực p sản. Do  
đó, ranh giới giữa làm đẹp số liệu BCTC và hành vi gian lận,  
vi phạm pháp luật là rất mong manh. Chính vì vậy, cần thiết  
phải  phân  tích  được  nguyên  nhân  sụp  đổ,  động   thực  
hiện  KTST  của  các  vụ   bối  tài  chính  lớn  trên  thế  giới,  
nhằm đúc rút kinh nghiệm cho các công ty niêm yết trên  
- Tránh bị điều chỉnh từ các cơ quan nhà nước, như buộc  thị trường chứng khoán Việt Nam.  
giảm giá bán sản phẩm hay bị áp giá sàn trong một số thời  
Thứ nhất, tại thời điểm áp dụng KTST, thông thường các  
điểm c thể; các công ty (Điện lực, Xăng dầu...) thường có  
xu hướng lựa chọn các phương pháp kế toán làm giảm lợi  
nhuận.  
- Đạt được các lợi ích cá nhân (như thưởng, tăng lương,  
vị  trí  đang  có...)   giám  đốc   thể  được  hưởng  nhiều  
quyền lợi hoặc sở hữu nhiều cổ phiếu, gám đốc DN có thể  
điều chỉnh lợi nhuận tăng để đạt mục đích của mình.  
công ty này đều đang ở giai đoạn đi xuống về tài chính lẫn  
quản lý, nhưng luôn cố gắng dùng mọi cách để che giấu và  
làm sai lệch thông tin tới công chúng. Vấn đề lớn nhất của  
các công ty này là, sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh  
và thiếu trách nhiệm của các cấp quản lý cùng sự vi phạm  
đạo đức kinh doanh. Bên cạnh đó, s mục ruỗng” t bên  
trong bởi những người luôn tìm kiếm lợi ích cho riêng mình  
- Giảm các khoản thuế phải nộp n nước; DN s báo  cũng làm nh hưởng xấu lan truyền nhanh chóng và dẫn  
các lợi nhuận kế toán ở mức thấp để giảm số thuế phải nộp  đến cấu kết, thông đồng thực hiện sai phạm. Ví dụ, trong  
vụ bê bối Enron, đó là CEO Jeff Skilling và cựu CEO Ken Lay;  
đối  với  Lehman  Brothers,  đó   nhà  quản   cấp  cao,  các  
chuyên viên của công ty và thậm chí cả kiểm toán viên của  
hãng  kiểm  toán  Ernst  &  Young,  những  người  chịu  trách  
nhiệm đối với sự minh bạch của BCTC, nhưng đã trực tiếp  
chỉ đạo thực hiện KTST bất hợp pháp, thông đồng bao che  
cho các sai phạm diễn ra, nhằm che giấu tình hình tài chính  
thực đang sa sút của công ty, lừa gạt công chúng và các  
nhà đầu tư.  
 (2) Xét về góc độ tích cực: Bản thân việc thực hiện KTST  
không phải là hành vi tiêu cực. Nó chỉ mang ý nghĩa tiêu  
cực khi động cơ của việc thực hiện là nhằm tạo ra thông tin  
sai lệch để đánh lừa những người quan tâm đến BCTC của  
DN mà thôi. Nó giúp tác động tích cực đến việc kinh doanh  
của DN và chỉ đúng hướng đầu tư cho các nhà đầu tư trong  
tương lai. Tùy thuộc vào từng quy định kế toán được ban  
hành, nó có thể ngăn chặn cũng như mở ra một cách mới  
để nhà quản trị đạt được mục tiêu lợi nhuận.  
Thứ  hai,  ngoài  nguyên  nhân  từ  nội  tại  thì   thể  thấy  
trách nhiệm liên đới của các công ty kiểm toán đóng góp  
vào  những  vụ  việc  tai  tiếng  này.  Trường  hợp  của  Enron,  
Công  ty  kiểm  toán  lúc  đó   Arthur  Anderson  chịu  trách  
nhiệm kiểm toán, lưu giữ chi tiết các hoạt động tài chính  
của Enron cũng thú nhận rằng họ đã hủy bỏ một số lượng  
đáng kể các tài liệu kế toán nên không xác định được đầy  
đủ các sai phạm tài chính  Enron. Arthur Anderson nhận  
thức được rằng, khi nào Enron còn tồn tại thì họ vẫn còn có  
được lợi nhuận thông qua các hợp đồng kiểm toán và tư  
vấn,  chính   thế   họ  dính  líu  vào  quá  trình  thực  hiện  
gian lận của Enron.  
7. THỰC TẾ VIỆC ÁP DỤNG KẾ TOÁN SÁNG TẠO TẠI CÁC  
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM  
Thực  tế  cho  thấy,  việc  áp  dụng  KTST  của  các  DN  Việt  
Nam là phổ biến và đang có xu hướng gia tăng trong giai  
đoạn gần đây.  
Sau  sự  kiện  Công  ty  cổ  phần  Gỗ  Trường  Thành,    
chứng khoán TTF niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán  
thành phố Hồ Chí Minh xảy ra vào tháng 2/2016, với giá trị  
hơn 1.000 tỷ đồng hàng tồn kho biến mất trên BCTC, nhiều  
công ty niêm yết khác cũng đã b phát hiện có vấn đ v  
BCTC. Sự việc làm cho các nhà đầu tư bị thiệt hại lớn dẫn tới  
niềm tin của họ vào tính minh bạch trên thị trường bị ảnh  
hưởng nghiêm trọng.  
Trường hợp khác như Công ty cổ phần Đầu tư hạ tầng  
kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (mã chứng khoán CII), để  
bù đắp cho sự trì trệ từ kinh doanh cốt lõi, CII đã đẩy mạnh  
các hoạt động đầu tư tài chính và đi kèm là thủ thuật Công  
ty này đã tận dụng lợi thế thương mại đ khai khống thu  
nhập. Doanh thu hoạt động tài chính các năm 2014, 2015,  
2016 lần lượt tăng trưởng phi mã so với cùng k là 100%  
(624 tỷ đồng), 64% (1.029 tỷ đồng), 45,5% (1.500 tỷ đồng).  
Nhờ đó, lợi nhuận sau thuế của c đông công ty m vẫn  
đảm bảo mức tăng trưởng ở mức 2 con số trong 3 năm qua.  
Hệ quả của việc DN nhào  nặn” s liệu trên BCTC còn  
biểu hiện qua tình trạng số liệu trên BCTC trước kiểm toán  
của  không  ít  doanh  nghiệp  niêm  yết  khác  xa  so  với  sau  
Từ một s nguyên nhân nội tại và bên ngoài nêu trên,  
có thể rút ra một số bài học các DN Việt Nam cần phải chú ý  
nếu không muốn đi theo vết xe đổ của những vụ bê bối tài  
chính  này.  Trước  hết,  về  việc  vận  hành  hoạt  động  kinh  
doanh của DN, chỉ khi DN có sức khỏe tài chính thực sự, h  
mới có thể t tin nói rằng sẽ không hoặc ít cần dùng đến  
các thủ thuật KTST đ làm đẹp BCTC. Song trong thực tế,  
hoạt động kinh doanh của DN luôn biến động thăng trầm  
và có thể không đạt được kết quả như mong muốn. Do vậy,  
điều quan trọng chính là cách ứng xử của ban lãnh đạo, các  
nhà quản lý cấp cao của DN ứng phó khó khăn hay khủng  
hoảng. Việc tập hợp sức mạnh tập thể, áp dụng các kỹ năng  
quản lý đ bình tĩnh xem xét, tìm cách giải quyết vấn đ  
minh bạch thay vì cố gắng che giấu thua lỗ là yếu tố quyết  
145  
KINH TẾ   
XÃ HỘI  
P-ISSN 1859-3585      E-ISSN 2615-9619  
định việc DN có dùng đến hành vi KTST hay không. Nếu các  hiệu, thị trường mà còn bị xử lý vi phạm theo quy định của  
nhà quản lý quyết định sử dụng các thủ thuật để che giấu,  pháp luật.  
làm  sai lệch  số liệu t các  khoản thua  lỗ s được tích  tụ  
- Các nhà đầu tư nên nghi ngờ và đọc kỹ các khoản mục  
dần, đến một thời điểm đủ lớn có thể trở thành yếu tố dẫn  
BCTC để nhận biết, phát hiện các dấu hiệu KTST nhằm mục  
đến phá sản cũng như đưa công ty vướng vào vòng lao lý.  
đích xấu. Chẳng hạn như: Khi đọc báo cáo lưu chuyển tiền  
Bên cạnh đó, không thể không bàn đến vai trò và trách  
nhiệm của các kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập  
trong việc xác nhận tính trung thực và hợp lý của BCTC của  
DN. Bài toán dung hòa giữa lợi ích cho khách hàng và trách  
nhiệm của chính công ty đối với pháp luật và đạo đức nghề  
nghiệp luôn là bài toán khó cho mọi công ty kiểm toán. Do  
vậy, cách ứng xử của kiểm toán viên khi kiểm toán cho một  
công ty đang xuất hiện thua lỗ và có dấu hiệu sai phạm là  
rất quan trọng. Khi phát hiện thua lỗ, kiểm toán viên cần  
thẳng thắn bàn bạc và trao đổi với khách hàng nhằm tìm  
biện pháp giải quyết, thay vì l đi, b qua hay bắt tay với  
khách hàng để làm đẹp số liệu. Một công ty kiểm toán nếu  
không  lấy  đạo  đức,  chuẩn  mực  nghề  nghiệp  làm  kim  chỉ  
nam hành động t không thể đem lại lợi ích thực s cho  
khách hàng cũng như khó có thể tồn tại và phát triển bền  
vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.  
tệ, nhà đầu tư cần xem xét những dòng nào có thể là dòng  
tiền từ hoạt động kinh doanh. Ngoài dòng tiền hoạt động  
kinh doanh thuần nên xem xét một cách tổng quát cả dòng  
tiền từ hoạt động tài chính, dòng tiền hoạt động đầu tư và  
dòng tiền tự do. Nếu một DN thực hiện hành vi sáng tạo khi  
cố  tình  phân  loại  dòng  tiền  từ  hoạt  động  khác  vào  hoạt  
động kinh doanh t dòng tiền t do của DN này vẫn âm.  
Xem xét thật kỹ DN có dấu hiệu gian lận trên báo cáo lưu  
chuyển  tiền  tệ,  thì  dòng  tiền  đầu   qua  các  năm  âm    
dòng  tiền  hoạt  động  không  đủ  để  chi  trả  lại  khoản  này  
trong nhiều năm, từ đó dẫn tới phát hiện sai phạm…  
9. KẾT LUẬN  
Bài báo đã đưa ra những vấn đề khái quát về KTST, đây  
là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Qua  
việc nêu ra các quan điểm về KTST, xác định bản chất, nội  
dung của KTST; đồng thời phân tích những ảnh hưởng của  
KTST đối với BCTC, đối với các DN và nền kinh tế; thông qua  
nghiên cứu thực tế KTST tại các DN, bài báo đã đưa ra được  
những kiến nghị đối với các DN để có một cách nhìn tổng  
thể khi áp dụng kế toán sáng tạo trong thực tế. Hy vọng bài  
báo cung cấp cho DN một cách hiểu rõ nhất về KTST, đồng  
thời giúp DN có được phương hướng đ thực hiện các kế  
hoạch trong tương lai./.  
8. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ  
Thực tế tại Việt Nam trong những năm gần đây, không ít  
DN niêm yết công bố kết quả kinh doanh thay đổi giữa trước  
và sau kiểm toán đã gây ra nhiều lo lắng cho nhà đầu tư và  
các   quan  quản  lý.  Tại  thời  điểm  áp  dụng  KTST,  thông  
thường các công ty này đều đang ở giai đoạn đi xuống về tài  
chính lẫn quản lý nhưng luôn cố gắng dùng mọi cách để che  
giấu và làm sai lệch thông tin tới công chúng.  
 
- Cần nhận thức rõ về bản chất của KTST. Bản thân việc  
thực hiện KTST không phải là hành vi tiêu cực. Nó chỉ mang  
ý nghĩa tiêu cực khi động cơ của việc thực hiện là nhằm tạo  
ra thông tin sai lệch  để đánh lừa những  người quan tâm  
đến BCTC của DN.  
- Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng  
với  kinh  tế  toàn  cầu,  đặc  biệt   tham  gia  các  hiệp  định  
thương  mại  tự  do,  những  đòi  hỏi  về  tính  minh  bạch  tài  
chính  rất  cao.   vậy,  cần  nghiên  cứu  ban  hành   chế,  
chính sách về việc trình bày BCTC của các công ty, nhất là  
các công ty niêm yết, nhằm hạn chế thấp nhất mặt tiêu cực  
của  KTST.  Nói  các  khác,  các  hành  vi  KTST  cần  được  kiểm  
soát chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu về minh bạch và chất  
lượng công b thông tin. Thị trường chứng khoán tại Việt  
Nam đã và đang bước vào  giai đoạn n định, chất lượng  
thông tin BCTC của các công ty niêm yết ngày càng được  
quan tâm   
- Tăng cường kiểm soát hoạt động KTST bởi các DN có  
thể lợi dụng được hưởng các ưu đãi, chính sách hỗ trợ của  
Nhà  nước;  Giảm  các  khoản  thuế  phải  nộp  nhà  nước,  gây  
thất thu ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển  
minh bạch và bền vững của nền kinh tế quốc gia.  
- Các DN cần cân nhắc việc sử dụng KTST. Bởi nếu dùng   
vào mục đích xấu, nhằm làm đẹp báo cáo, lừa đảo nhà đầu   
tư, cổ đông, cơ quan quản lý thì sớm hay muộn cũng sẽ bị  
phát hiện. Khi đó, DN không chỉ ảnh hưởng về mặt thương  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1].  Charles  W.,  Eugene  E.,  2011.  The  Financial Numbers  Game:  Detecting  
Creative Accounting Practice. Wiley, 416 pages.  
[2]. Naser K., 1993. Creative financial accounting : Its nature and use. 3rd  
edition, Prentice Hall, New York, USA, 431 pages.  
[3].  Dechow  M.,  Slinner  J.,  2000.  Earnings  Management:  Reconciling  the  
Views  of  Accounting  Academics,  Practitioners,  and  Regulators.  Accessed  12  
February  
2000,  
 
<URL:  
959>.  
[4]. Nguyen Thi Huong Lien, Dao Thi Ngan, 2017. A Study of the Level of  
Applying Creative Accounting in Vietnamese Companies. VNU Journal of Science:  
Economics and Business, No. 4, 47-54.  
[5].  Nguyen  Khanh  Thu  Hang,  Nguyen  Thi  Doan  Trang,  2019.  Impacts  of  
creative accounting on financial statemen. Review of Finance issue 8, 16-19.  
[6]. Nguyen Van Hoa, 2020. Effects of innovative accounting on the financial  
statements. Review of Finance issue 2 - september, 63-66.  
 
AUTHORS INFORMATION  
Le Thi Thanh Hai1, Nguyen Hong Nga2  
1Department of Training Administration, Thuongmai University  
2Faculty of Accounting - Auditing, Thuongmai University  
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 57 - Số2 (4/2021)                                          Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn  
146  
pdf 6 trang yennguyen 18/04/2022 1160
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của kế toán sáng tạo đối với báo cáo tài chính trong doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_ke_toan_sang_tao_doi_voi_bao_cao_tai_chinh_tro.pdf